Đức tin trong Kinh Thánh
(Tài liệu thường huấn Năm
Đức Tin 2013 dành cho Linh mục đoàn Tổng Giáo Phận Hà Nội)
Nhập đề
Có nhiều cách thức để
trình bày bản chất đức tin. Nhiều tác giả bắt đầu từ việc Thiên Chúa mạc khải
những chân lý vượt qua tầm hiểu biết của lý trí, và chúng ta phải chấp nhận
bằng đức tin. Lối trình bày như vậy dễ đưa tới hai nguy cơ: thứ nhất, Thiên
Chúa là một nhà độc tài, bắt buộc con người phải chấp nhận những chân lý mà nó
không hiểu gì hết; nguy cơ thứ hai là quan niệm đức tin như là cái gì thuộc
lãnh vực siêu nhiên, xa rời cuộc sống hằng ngày.
Vì thế có người tìm lối
tiếp cận cách khác, theo chuyển động ngược lại, nghĩa là khởi hành từ con
người. Trước khi nói đến "nhân đức tin", chúng ta hãy nghĩ đến
"niềm tin, lòng tin", hoặc đơn giản là "tin". Chúng ta biết
rằng "tin" là một điều kiện tất yếu của cuộc sống con người. Thật
vậy, chuyện "tin" không chỉ liên quan đến thế giới thần phật, nhưng
nó chi phối các mối tương quan hằng ngày trong xã hội, bắt đầu ngay từ trong
gia đình: vợ chồng cần tin nhau thì mới dám trao thân cho nhau, chấp nhận xây
dựng một gia đình. Trong công việc làm ăn buôn bán cũng vậy: cần phải tin nhau,
dựa trên sự trung tín với lời hứa. Hiểu như vậy, chắc chắn không ai dám mạnh
miệng tuyên bố rằng "tin là chuyện phù phiếm", hoặc "tin là
chuyện không cần thiết". Không phải thế đâu, tin cần thiết lắm! Chỉ xin
đan cử một thí dụ nho nhỏ thì đủ hiểu, đó là chuyện ăn uống: khi ngồi vào bàn
ăn, ta đã phải vận dụng đến niềm tin: tin rằng không ai bỏ thuốc độc vào thức
ăn của ta, trước khi tin rằng món ăn này thực sự bồi dưỡng cơ thể!
Thí dụ vừa rồi đưa ta
đến một nhận xét như sau: tin không chỉ giới hạn vào tương quan với tín ngưỡng,
nhưng còn với những người sống chung quanh ta. Trước khi nói đến "tin cái
gì", cần nhấn mạnh đến "tin ai": tin vào sự thành thực của họ,
tin vào tình nghĩa của họ đối với ta. Như sẽ thấy sau, đây là khía cạnh mà Kinh
thánh nói nhiều về lòng tin (hay đức tin): tin là tin tưởng, tín thác vào Chúa,
trước khi là chấp nhận các chân lý, hay đạo lý. Khi mà mình đã tin ai hết lòng,
thì ta không ngần ngại chấp nhận tất cả những gì người ấy nói, cũng như dám
trao phó đời của mình cho họ dẫn dắt.
Chúng ta sẽ bàn vắn tắt
về đức tin trong Cựu ước và trong Tân ước, qua những khái niệm và đặc tính của
nó. Chúng ta có thể nhận thấy rằng có sự tiến triển từ Cựu ước sang Tân ước, và
ngay trong Tân ước, có sự tiến triển từ Tin mừng nhất lãm đến các tác phẩm của
Gioan và Phaolô.
A. Từ ngữ
Mặc dù chúng ta đang
tìm hiểu đức tin, nhưng thiết tưởng cần phải ghi nhận rằng không phải lúc nào
"tin" cũng là "nhân đức". Trong ngôn ngữ Do thái và các
ngôn ngữ châu Âu, người ta chỉ đơn thuần nói đến "tin",1
và phải tùy mạch văn mà dịch: lòng tin, niềm tin, đức tin. Trên thực tế, phải
chờ đến thời các giáo phụ, người ta mới đặt vấn đề "tin" như là một nhân
đức, nhân đức hướng Chúa (quen gọi là nhân đức đối thần: virtus theologalis).
Như đã nhận xét trước
đây, "tin" là một thái độ quan trọng trong cuộc sống hằng ngày, cách
riêng trong tương quan xã hội, trước khi nói đến thế giới thần linh. Cứ điểm
qua các từ ngữ gắn liền với "tin" hoặc "tín" thì đủ rõ điều
ấy: tin cậy, tin tưởng; tín cẩn, tín thác, tín nhiệm, tín thành (thành tín),
trung tín. Không những "tin" cần thiết trong tương quan xã hội, mà
ngay cả trong cách ứng xử bản thân nữa, như khi nói đến sự "tự tin".
Kinh thánh cũng khởi đi
từ nhận định đó. Tiếng Do thái có nhiều từ ngữ để nói đến việc tin, nhưng đặc
biệt là hai động từ aman và batakh.
1. Động từ Aman, xét
theo nguyên ngữ, có nghĩa là: đeo, mang (thí dụ mang đứa con trên tay: Ds
11,12; R 4,16; 2Sm 4,4); theo nghĩa bóng aman là dựa vào ai, nương tựa, tin
tưởng. Do động từ aman mà có thán từ (hay trạng từ) amen, có nghĩa là: đúng
thế, chắc rồi, chính xác!
2. Động từ batakh nói
lên ý tưởng: trông cậy, tín thác. Như vậy, tin có nghĩa là: trông mong, hy
vọng, tin tưởng.
Những từ ngữ này được
dùng trong đời sống hằng ngày, cách riêng trong bối cảnh của mối tương quan xã
hội. Ở đây chúng ta chỉ xét đến tương quan giữa con người với Thiên Chúa. Những
ý tưởng vừa gợi lên (nương tựa, tín thác) sẽ được kiện toàn dần dần trải qua
tiến trình mạc khải của Thiên Chúa cho
B. Ý niệm
Chúng ta hãy rảo qua sự
tiến triển của khái niệm đức tin qua bốn chặng đường chính của lịch sử mạc
khải: thời tổ phụ Abraham, thời xuất hành của Môsê, thời các ngôn sứ, thời các
nhà hiền triết2 .
1/ Lịch sử bắt đầu với
ông Abraham. Hồi ấy ông tin thờ các thần khác. Thế rồi, Thiên Chúa hiện ra với
ông, hứa ban cho ông một vùng đất màu mỡ và con cháu đông đúc (St 12,1). Lời
hứa ấy xem ra xa vời, nhưng ông tin vào Thiên Chúa (St 15,6), tin vào lời hứa
của ngài. Ông tin rằng Thiên Chúa trung tín với lời hứa và có khả năng thực
hiện. Ông tín thác vào ngài, và thậm chí sẵn sàng hy sinh đứa con của mình khi
ngài đòi hỏi. Ông trở thành khuôn mẫu của một kẻ có lòng tin (Hc 44,20) và tổ
phụ của những kẻ có lòng tin (Rm 4,9-11).
2/ Lịch sử mạc khải Cựu
ước bước sang một chặng quyết liệt khi Thiên Chúa can thiệp vào cuộc giải thoát
dân Israel ra khỏi cảnh nô lệ Ai cập. Thiên Chúa của các tổ phụ đã thăm viếng
đoàn dân đang bị áp bức. Thiên Chúa gọi ông Môsê, và hứa sẽ ở với ông trong
công cuộc dẫn dắt
3/ Tin có nghĩa là tín
thác vào lời hứa; tin có nghĩa là chấp nhận giao ước, và biểu lộ qua việc tuyên
xưng. Các ngôn sứ còn vạch ra những yêu sách khác của đức tin, khi đụng đến
những hoàn cảnh khác nhau của lịch sử.
- Hệ luận quan trọng
của niềm tin vào Thiên Chúa là từ bỏ các ngẫu tượng.
- Đức tin của dân
4/ Những tác giả các
sách Khôn ngoan mở rộng đối tượng của niềm hy vọng: người tín hữu tin tưởng
rằng Thiên Chúa không chỉ hứa ban thưởng những phúc lộc ở đời này (tài sản
phong phú, con cháu đầy đàn), nhưng nhất là những điều thiện ở đời sau. Vào
giai đoạn cuối của Cựu ước, chúng ta thấy thêm một chiều kích mới của đức tin:
tin vào Thiên Chúa kể cả vào những lúc bị thử thách, tựa như ông Giób, và thậm
chí ngay cả khi người tín hữu bị bách hại (2Mc 7; Đn 12,2; Kn 2,3; 3,1-9).
Như vậy, quan niệm về
niềm tin được tiến triển dần dần: từ chỗ tín thác vào lời hứa, đến chỗ chấp
nhận giao ước; từ việc chấp nhận giao ước đến việc trung thành với giao ước; từ
việc trung thành với giao ước đến chỗ mở tầm nhìn đến những thực tại không
thuộc thế giới này. Song song với sự kiện toàn ý niệm là sự kiện toàn những tâm
tình về phía con người: từ chỗ tin tưởng vào một thần linh quyền năng, đến chỗ
lắng nghe Lời Chúa, tuyên xưng những kỳ công của Chúa, trung thành với Luật
Chúa kể cả khi phải hy sinh mạng sống.
II. Tân ước
Chúng ta sẽ tìm hiểu:
từ ngữ và những khái niệm.
A. Từ ngữ
Xét về từ ngữ, Tân ước
sử dụng danh từ pistis và động từ pisteuein.3 Hai từ này đã được gặp
thấy trong bản dịch LXX của Cựu ước. Trong nguyên ngữ Hy-lạp, pistis ám chỉ
lòng trung thành của các hội viên đối với quy ước; hoặc là tính khả tín của
những lời hứa; rồi từ đó, dần dần ý nghĩa được mở rộng đến việc tin tưởng, chịu
thuyết phục, tuân theo.
Dù sao, đối với các tác
giả Tân ước, vấn đề từ ngữ không được đặt ra bởi vì đã được sử dụng từ Cựu ước
rồi. Tuy nhiên, mặc dù có sự đồng nhất về từ ngữ giữa Cựu ước và Tân ước, nhưng
cũng cần nêu bật sự khác biệt về nội dung giữa đôi bên. Trong Cựu ước, tin là
tín thác vào Thiên Chúa, Đấng hoạt động trong lịch sử của dân tộc
- "Tin" có
nghĩa là chấp nhận sứ điệp mà đức Kitô mang lại, nghĩa là ơn cứu độ được Thiên
Chúa ban cho nhân loại qua cái chết và phục sinh của đức Giêsu. Tuy đó là một
biến cố lịch sử nhưng nó được diễn tả thành sứ điệp, vì thế nó bao hàm khía
cạnh đạo lý. Tin là một hành vi có chiều kích tri thức: chấp nhận sứ điệp được
rao giảng qua ngôn ngữ và nếp sống.
- Tuy nhiên,
"tin" không chỉ giới hạn vào lãnh vực hiểu biết. Tin đòi hỏi sự tuân
phục, tín thác vào tình yêu của Thiên Chúa được biểu lộ nơi việc trao ban Con
của Ngài. Tin cũng kèm theo một cuộc thay đổi não trạng và nếp sống.
B. Khái niệm
Đó mới chỉ là những nét
khái quát. Mỗi tác giả Tân ước khai triển một vài khía cạnh đặc thù tùy theo
nhu cầu của mỗi giáo đoàn cụ thể. Chúng ta hãy lược qua ba nhóm quan trọng hơn
cả: Tin mừng nhất lãm, Tin mừng thánh Gioan, các thư thánh Phaolô.
1/ Trong Tin mừng nhất lãm,
"Tin" có ba
nghĩa: tin tưởng vào quyền năng của Đức Giêsu (x. Mc 2,5; 5,34); chấp nhận Tin
mừng mà Đức Giêsu rao giảng (Mc 1,15; 16,16.17); chấp nhận chính đức Giêsu.
a) "Tin" có
nghĩa là tín thác vào lòng tốt và quyền năng của đức Giêsu. Nên lưu ý là vào
giai đoạn đầu của sứ vụ Đức Giêsu, các sách Tin mừng nhất lãm hiểu việc
"tin" ở một cấp độ nhân bản, đó là tin tưởng vào quyền năng của Đức
Giêsu có thể làm phép lạ. Chúng ta sẽ thấy nhiều trường hợp trong đó
"tin" là điều kiện để Đức Giêsu làm phép lạ (như vậy là khác với quan
điểm của thánh Gioan, theo đó Đức Giêsu làm phép lạ để củng cố lòng tin). Nơi
thánh Marcô. Tin là điều kiện tiên quyết để Chúa làm phép lạ: họ phải tin tưởng
Người. Người không thể làm phép lạ nào ở
b) "Tin" có
nghĩa là chấp nhận Tin mừng do Đức Giêsu rao giảng. Điều này được thấy ngay từ
đầu Tin mừng Marcô: "Thời gian đã viên mãn, và triều đại Thiên Chúa đã gần
kề; hãy thống hối và tin vào Tin mừng" (Mc 1,15) cũng như vào lúc kết thúc
cuốn sách: "Hãy ra đi khắp thế giới, rao giảng Tin mừng cho mọi thụ tạo.
Ai tin và lãnh phép rửa thì sẽ được cứu rỗi" (Mc 16,15-16). Tin vào Tin
mừng có nghĩa là chấp nhận rằng Thiên Chúa đã can thiệp vào thế giới nơi bản
thân, lời nói và lời giảng của Đức Giêsu. Vì thế, ai muốn vào vương quốc Thiên
Chúa thì phải chấp nhận những điều kiện mà đức Giêsu đặt ra. Điều này đòi hỏi
một cuộc hoán cải, thay đổi não trạng. Nhìn dưới khía cạnh, có lẽ con số tin
theo lời giảng của Đức Giê-su không nhiều cho lắm; tuy nhiên, ta có thể một mẫu
gương nơi các môn đệ, mặc dù họ cần được huấn luyện để trưởng thành dần. Thật
vậy, chúng ta biết rằng nhiều lần các môn đệ đã bị trách là "kém tin, yếu
tin", và thậm chí "không tin" sau khi được thông báo Chúa đã
sống lại.
c) "Tin" có
nghĩa là chấp nhận bản thân Đức Giêsu. Đây là bước thứ ba: từ chỗ chấp nhận lời
giảng về Đức Giêsu đến chỗ chấp nhận bản thân Người: Người là "Chủ
tể" (Kyrios). Điều này xảy ra sau cuộc Phục sinh, và được nhấn mạnh trong
sách Tông đồ công vụ (x. các kerygma). Dù sao, thánh Luca diễn tả thái độ tin vào
Chúa Giêsu bằng những hành động cụ thể, đó là: đi theo Đức Kitô, vác thập giá
(Lc 9,23), làm chứng và tuyên xưng (Lc 12,8-9).
2/ Thánh Gioan
"Tin" chiếm
một địa vị nổi bật trong các tác phẩm của thánh Gioan. Động từ pisteuein (tin)
được dùng 98 lần trong Tin mừng thứ bốn và 9 lần trong các thư ; còn danh từ
pistis chỉ được dùng 1 lần trong 1 Ga 5,4 ("Đây là điều làm cho chúng ta
thắng được thế gian: lòng tin của chúng ta"). Xem ra thánh Gioan quan tâm
đến lối sống hơn là đến đạo lý. Tuy vậy, ở cuối Tin mừng, tác giả đã viết như
sau: "Những điều này đã được ghi chép ngõ hầu anh em tin rằng Đức Giêsu là
Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để nhờ tin mà được sự sống đời đời" (20,31).
Chúng ta hãy tìm hiểu ba điểm liên quan đến: đối tượng, bản chất, hiệu quả của
việc tin.
a) Đối tượng: tin vào Thiên Chúa và tin vào Đức Giêsu
(8,31.45.46; 10,37.38; 14.11). Đức Giêsu là Đấng Kitô (11,27; 20,31), kẻ được
Chúa Cha sai đến (11,42; 17,8.21), là Con Thiên Chúa (20,31), kẻ từ Chúa Cha mà
đến (16,27.30). Chúa Cha với Đức Giêsu là một (10,30; 17,21). Nói cách khác,
trong Cựu ước, người Do thái đã tin vào Thiên Chúa; bây giờ phải thêm một điều
nữa, đó là Đức Giêsu là Thiên Chúa.
b) Bản chất. Thánh Gioan quan niệm "tin" như là một tiến trình gặp gỡ.
Cùng với động từ "tin", tác giả còn dùng những động từ đồng nghĩa tựa
như: "đến với" (5,40; 6,35.44ff.65; 7,37), "tiếp đón"
(1,12; 5,43), "yêu mến" (8,42; 14,15.21.23f.28; 16,27). Tin là một
tiến trình năng động: nó tăng trưởng tiệm tiến, từ những bước khởi đầu đến chỗ
hoàn bị, từ chỗ đón nhận Đức Giêsu vì phép lạ đến chỗ đó chấp nhận Người mà
không cần phép lạ (20,26-28). Vài thí dụ: 4,46-53 (sĩ quan cận vệ, động từ
"tin" được nói đến ở câu 50 và 53, với hai cấp độ); 4,39-42 (người
dân Samaria tin vì nghe lời thuật của người phụ nữ và tin vì nghe lời của
Chúa); chương 9 (người mù: so sánh câu17 với câu 38).
Chúng ta nên ghi nhận
ba điểm:
(i) Tin mang tính cách động: từ chỗ tin vì phép lạ,
đến chỗ tin vào Lời Chúa chứ không dựa theo phép lạ. Ở những chương đầu, tác
giả đã thuật lại vài trường hợp điển hình (như vừa nói: người phụ nữ Samari, sĩ
quan cận vệ); đồng thời, tác giả cũng cho thấy các môn đệ là những người đến
với Chúa nhờ lời chứng chứ không nhờ phép lạ. Dầu vậy, đức tin của họ cũng cần
tăng trưởng, như trường hợp ông Phêrô, ông Tôma (chúng ta cũng biết là có nhiều
môn đệ rời bỏ Đức Giêsu sau khi nghe bài giảng về bánh).
(ii) Tin bao hàm toàn thân con người. Tuy biết rằng
"tin" đã bao hàm một thái độ gắn bó với một Ai đó, nhưng ông còn muốn
gắn thêm vài động từ đi kèm, tựa như: thấy và tin, nghe và tin, tin và biết,
tin và hiểu, tin và ở lại.
- Thấy và tin. Đối với
thánh Gioan tông đồ, việc tin vào Chúa Giêsu giả thiết phải biết nhìn và ngắm.
Trước hết, cần phải "thấy" Người (theo nghĩa thể lý), "quan
sát" kỹ lưỡng (theorein: 14,19-20), rồi đến "chiêm ngưỡng" Người
( hoặc: nhìn ngắm, thâsthai: 1, 14; 1 Ga 1,1), và sau cùng là "thấy"
(horân) dưới nhãn giới của đức tin4 . Đến cấp độ này thì
mới đáng gọi là "tin". Như vậy có thể phân biệt hai thứ
"thấy": một cái thấy theo nghĩa thể lý, và một cái thấy với cặp mặt
đức tin; cái thấy thứ hai này mới chính là "tin".
- Tin và biết. Trong
văn hóa Do thái, "biết" không chỉ là một tác động của trí tuệ nhưng
còn là một cảm nghiệm (tựa như là "quen biết" trong tiếng Việt). Cái
"biết" này giả thiết một việc đào sâu và tăng trưởng lòng tin đến chỗ
yêu mến Chúa Kitô và sống hiệp thông với Người. Chúng ta gặp thấy một thí dụ ở
cuối chương 6. Vì đã thâm tín rằng Đức Giêsu "có những lời đem lại sự sống
đời đời", ông Phêrô đã tuyên xưng: "Chúng con đã tin và nhận biết
rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa" (6,69). Qua câu này, người
ta nghĩ rằng "biết" là một hệ luận của "tin": đức tin dẫn
đến hiểu biết. Tuy nhiên, có khi "biết" đi trước "tin",
chẳng hạn 1Ga 4,16: "chúng tôi đã biết tình yêu và tin vào tình yêu".
Cuối cùng, nhờ tin mà ta được đưa đến sự sống đời đời, đó là biết Cha là Thiên
Chúa duy nhất và chân thật, và biết Đấng Cha sai đến là Giêsu Kitô (x. 17,3).
- Tin, yêu, tuân giữ, ở
lại. Ông Origène (thế kỷ III) đã gọi Tin mừng thánh Gioan như một sách dạy về
đời sống huyền nhiệm Kitô giáo. Chúng tôi không muốn đi sâu vào đề tài này,
nhưng chỉ muốn lưu ý rằng, theo quan niệm của vị tông đồ này, "tin"
vào Chúa Giêsu không chỉ là chấp nhận bằng một hành vi trí tuệ, nhưng còn là duy
trì một tương quan thân mật với Người. Bên cạnh việc liên kết giữa động từ
"tin" với các động từ "nghe", "thấy",
"biết", tác giả còn nói đến việc "tuân giữ lời" của Chúa,
"ở lại" trong Chúa. Những mối liên hệ ấy chung quy cũng là những khía
cạnh của "yêu thương" : ai tiếp đón Lời của Người thì ở lại trong
Người và Người ở lại trong kẻ ấy. Ai giữ các điều truyền của Người thì ở lại
trong tình yêu của Người, cũng như Người đã giữ các giới răn của Chúa Cha và ở
lại trong tình yêu của Chúa Cha (xc. 15,4-10).
(iii) Tin là một hành động của con người, nhưng cũng là một hồng ân
Thiên Chúa. Để có thể đến với Chúa Giêsu cần có một hấp lực, sự "thu
hút" từ phía Chúa Cha, như chúng ta đọc thấy hai lần trong chương 6:
"Chẳng ai đến với tôi được, nếu Chúa Cha là Đấng đã sai tôi, không lôi kéo
người ấy" (6,44.65). Chính Chúa Cha đã trao các môn đệ cho Đức Kitô, và
không ai có thể tách rời họ được (6,26t.43-45.64. 10,29; 17,2.6.9). Một cách
tương tự, các môn đệ cần có Thần khí thì mới thấu hiểu lời của Thầy (7,39).
c) Hiệu quả. Tin liên quan đến chuyện sinh tử: số phận vĩnh cửu của con người
tùy thuộc vào việc tin hay không tin: "Ai tin thì sẽ không bị xét xử, ai
không tin thì đã bị xét xử rồi" (3,18). Ai tin vào Con thì được sự sống
hằng hữu (3,36; 6,40.47; 20,31). Tin dẫn đến sự sống vĩnh cửu; không tin dẫn
tới hư vong. Tin mang tính quyết định đến số phận vĩnh hằng. Tin mở đường đến
hạnh phúc đời đời; nhờ tin mà chúng ta biết Chúa, ở lại trong đức Kitô.
3/ Thánh Phaolô
Trong nguyên bản Hy-lạp
của Tân ước, "tin" có thể được diễn tả bằng danh từ pistis (lòng tin,
niềm tin, đức tin: 243 lần), hoặc bằng động từ pisteuein (tin: 241 lần). Hai từ
ngữ này được gặp thấy nhiều nhất nơi thánh Phaolô và thánh Gioan. Thánh Phaolô
dùng danh từ 142 lần (đặc biệt trong thư Rôma 40 lần, thư Galat 22 lần; đó là
không kể thư Hipri với 32 lần) và dùng động từ 54 lần (trong đó 21 lần trong
thư Rôma), như vậy tổng cộng là 196 lần; còn thánh Gioan thì chỉ dùng động từ
(107 lần: 98 trong Tin mừng và 9 trong các thư) và danh từ chỉ được dùng một
lần trong 1Ga 5,4. Như vậy, trong các tác giả Tân ước, thánh Phaolô là người
nói nhiều đến đức tin hơn cả (đặc biệt là dưới dạng danh từ: 142 trên 243 lần:
58,43%, còn dưới dạng động từ thì chỉ được 22,40%)5 .
Chính vì thánh Phaolô
bàn đến nhiều khía cạnh của đức tin, cho nên khó trình bày một tổng hợp vắn
tắt. Trên thực tế, trong lịch sử Kitô giáo, nhiều cuộc tranh luận đã nổi lên
bởi vì người ta chỉ nhấn mạnh đến một khía cạnh nào đó của đức tin trong các
thư của thánh tông đồ, chẳng hạn như cuộc tranh luận giữa đức tin và việc làm
(chớm nở ngay từ trong thư của Giacôbê), hoặc cuộc tranh luận chung quanh bản
tính đức tin giữa Tin Lành với Công giáo (tin là nhắm mắt tín thác, hay tin là
chấp nhận đạo lý). Một nhận xét nữa không kém quan trọng là khi viết các lá
thư, thánh Phaolô trình bày đạo lý dựa trên chính cảm nghiệm của mình. Ông muốn
chia sẻ với các tín hữu kinh nghiệm đức tin của mình, chứ không phải chỉ bàn về
một lý thuyết về đức tin. Như chúng ta sẽ thấy, đối với thánh Phaolô, tin có
nghĩa là gắn bó với Đức Giêsu Kitô, yêu mến Người bởi vì đã cảm nhận được tình
yêu của Người. Từ đó ông muốn dùng lời giảng dạy để làm cho mọi người biết
Người, bởi vì nhờ tin vào Đức Kitô mà con người được cứu độ.
Chúng ta tạm tóm lại
đạo lý của thánh Phaolô vào ba điểm chính: bản chất, nội dung, hiệu quả.
a) Bản chất (hay cũng có thể gọi là "khía cạnh chủ thể của đức
tin: fides qua). Tin là vâng theo lời Chúa được biết nhờ việc rao giảng (Rm
10,17; 16,26; 1,5; 2 Cr 9,13; 10,5; 2 Tx 1,8). Điều này hàm ngụ một tiến trình:
trước hết là lắng nghe lời Chúa (fides ex auditu; Rm 10,17; Gl 3,5); nhưng muốn
nghe thì phải có ai nói, "làm thế nào tin vào Đấng mà mình chưa nghe nói
đến, và làm sao nghe nói đến nếu không ai giảng?" (xc Rm 10,14). Mặt khác,
"lắng nghe" mới chỉ nói lên một thái độ chú ý; còn "vâng
nghe" (hay tuân phục, vâng phục) bao hàm một sự suy phục, một quyết định,
một cam kết trước mặt Chúa. Đức tin đòi hỏi một cuộc hoán cải, một cuộc thuận
tuân toàn diện. Ta có thể bắt đầu từ lý trí: tin có nghĩa là chấp nhận đường
lối của Thiên Chúa, Đấng biểu lộ sức mạnh và quyền năng qua thập giá Đức Kitô
là một chuyện yếu đuối và điên rồ đối với thế gian (1Cr 1,17.24-25). Bước kế
tiếp là chấp nhận đồng hóa với Đức Kitô, mặc lấy những tâm tình của kẻ tự hạ và
vâng phục cho đến chết, chết trên thập giá (Pl 2,5.8). Với thái độ vâng phục
ấy, con người lột bỏ mọi sự an toàn theo lối tính toán của thế gian, để trao
phó cuộc đời cho Thiên Chúa. Đó là một thái độ giống như ông Abraham xưa kia,
phó thác cuộc đời cho Thiên Chúa dìu dắt, tuy chưa biết đi về đâu (Rm 4,18-22).
Khác một điều là ngày nay, chúng ta có một điểm để quy chiếu là Đức Giêsu.
Người là chứng tá không chỉ về sự suy phục Chúa Cha, nhưng còn làm chứng tá
rằng Thiên Chúa là Đấng trung thành với lời hứa khi cho Người sống lại. Ngoài ra,
đức tin không phải là một hành động chớp nhoáng nhưng là một cuộc sống luôn
tiến triển, được so sánh với một cuộc chạy đua không ngừng (1Cr 9,26; Pl
3,12-14), hoặc theo một kiểu nói khác, "từ đức tin đến đức tin" (Rm
1,17). Đức tin cần được bổ túc những gì thiếu sót (1 Tx 3,10), để có thể lớn
mạnh (2 Cr 10,15). Sự tăng trưởng chắc hẳn bao hàm sự tín thác vào Thiên Chúa,
nhưng đồng thời cũng mang theo sự hiểu biết: không những biết sứ điệp mà mình
chấp nhận (Rm 6,8; 2 Cr 4,13tt), nhưng còn biết được tình trạng con người trước
mặt Thiên Chúa (Rm 5,3; 14,14; Cr 1,7; Pl 1,19); từ đó tin có nghĩa là biết
Thiên Chúa (Gl 4,9), biết chân lý (1Tm 2,4). Dù sao, chúng ta đừng nên quên
rằng hành trình đức tin không chỉ là thành quả của nỗ lực về phía con người.
Ngay từ đầu, Thánh Linh đã đến hỗ trợ chúng ta, ngõ hầu chúng ta chấp nhận Lời
Chúa (1Tx 1,4), có khả năng tuyên xưng Thiên Chúa như là "Abba" (Gl
4,6) và tuyên xưng đức Giêsu là Kyrios (1Cr 12,3). Thánh Linh biến đổi
"thần trí" của chúng ta hòa hợp với "thần trí" của Thiên
Chúa (1 Cr 2,10-15). Cuộc đời của người tín hữu là một cuộc "đi trong
Thánh Linh" (Gl 5,25). Thánh Linh nâng đỡ sự yếu hèn của chúng ta, ngay cả
trong việc cầu nguyện, bởi vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho thích
hợp (Rm 8,26-27; Ep 5,18-19). Nhờ ơn Thánh Linh, người tín hữu được tái sinh,
tăng trưởng để đạt đến tầm mức trưởng thành của Đức Kitô (Ep 4,13). Thánh Tông
đồ đã dành suốt chương 8 của thư gửi Rôma để bàn về hoạt động của Thánh Linh
trong đời sống người Kitô hữu.
b) Nội dung (hay đối tượng). Lời giảng và lời tuyên
xưng đều có một nội dung: "Đức Giêsu là Chúa; Người đã chịu chết trên thập
giá vì tội chúng ta, nhưng Thiên Chúa đã cho Người chỗi dậy vào ngày thứ
ba" (1Cr 15,3; xc. 1 Tx l,9t; Rm 10,4; Cl 2,12; Ep 1,20; Gl 1,1; Rm 4,25,
vv.). Một điều đáng nêu bật ngay từ đầu là đối với Phaolô, trọng tâm của đức
tin là Đức Giêsu Kitô. Ông ít khi nói đến "đức tin vào Thiên Chúa"
(1Tx 1,8), "tin vào Chúa" (Rm 4,8.17: nói về ông Abraham; 4,24; Gl
3,6: cũng nói về ông Abraham; Cl 2,12), "đức tin vào Tin mừng" (Pl
1,27; 1 Tx 2,4), "đức tin vào chân lý" (2Tx 2,12-13); nhưng phần lớn
ông nói đến "tin vào Đức Giêsu Kitô". Thật ra chính qua Đức Kitô mà
chúng ta biết rõ Thiên Chúa là ai, biết Thiên Chúa yêu thương chúng ta đến mức
nào, biết được ý định cứu độ của Thiên Chúa dành cho nhân loại nơi đức Kitô; do
đó, ai tin vào đức Kitô thì sẽ được cứu độ.
Việc tin vào Đức Kitô
không chỉ là một hành vi của lý trí, nhưng bao hàm một tương quan sinh động.
Đối với thánh Phaolô, không thể nào coi việc tin như là chấp nhận một lý
thuyết. Tin là một cuộc chuyển động, ví như là "chạy tới, để chiếm đoạt
Đức Kitô Giêsu bởi vì chính mình đã bị Người chiếm đoạt" (Pl 3,12),
"chạy tới đích để chiếm được phần thưởng từ trời cao Thiên Chúa dành cho
kẻ được kêu gọi trong Đức Kitô Giêsu" (Pl 3,14). "Hiện tại tôi sống
kiếp phàm nhân trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến
mạng vì tôi" (Gl 2,20), một cuộc khởi sự để đạt đến sự thành toàn của Đức
Kitô (Gl 3,3; Ep 4,13). Nói tắt: đối với ông Phaolô, tin là sống, và "sự
sống của tôi là Đức Kitô" (Pl 1,21).
Như vậy, tin vào đức
Kitô không chỉ có nghĩa là tin vào sự hiện hữu của Người mà thôi, nhưng còn là
sống tương quan mật thiết với Người, muốn kết hợp khắng khít với Người, để cùng
đi theo Người trên đường về với Thiên Chúa. Tin vào Đức Kitô là để cho Người
hoạt động trong ta nhờ quyền năng của Thánh Linh, và để cho ta sống trong Người
(Gl 2,20).
c) Hiệu quả của đức tin: ơn công chính hóa.
Chúng ta đã tách rời
đức tin thành hai khía cạnh để nghiên cứu: bản chất và nội dung, tương đương
với hai khía cạnh chủ thể (tin là gì) và khác thể (tin cái gì). Hai khía cạnh
ấy liên kết với nhau, bởi vì tin là gắn bó kết hiệp với Đức Kitô Giêsu, đấng đã
chết trên thập giá và đã phục sinh để chúng ta được ơn cứu độ. Điều này đưa
chúng ta đến khía cạnh thứ ba: hiệu quả của đức tin: "tin làm gì?".
Trong lịch sử Kitô
giáo, ngay từ thời các thánh tông đồ, đã nảy ra một cuộc tranh luận gay gắt
giữa hai vị tông đồ Phaolô và Giacôbê, và sau này giữa Tin Lành và Công giáo
vào thời cận đại, đó là: phải chăng chỉ cần tin là đủ để được cứu rỗi, hay là
còn phải hành động nữa?
(i) Khi đọc thư thánh Phaolô, chúng ta gặp những câu khẳng định
rằng chỉ cần tin là đủ để được cứu độ, chứ không cần đến hành động; thậm chí hành động chẳng
có ích gì cho ơn cứu độ: "Vì biết rằng con người được nên công chính không
phải nhờ những gì Luật dạy, nhưng nhờ tin vào Đức Giêsu Kitô, nên chúng ta cũng
tin vào đức Kitô Giêsu, dể được nên công chính, chứ không phải nhờ làm những
điều Luật dạy" (Gl 2,16). "Con người được nên công chính vì tin chứ
không phải vì làm những gì Luật dạy" (Rm 3,28).
Những câu quả quyết
mạnh mẽ của thánh Phaolô về giá trị của đức tin đến nỗi loại trừ việc giữ Luật,
đã gây ra một phản ứng nơi thánh Giacôbê, như ta đọc thấy ở chương 2 của lá thư
(câu 14-26) :
"Thưa anh em, ai
bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin thì nào có ích lợi gì?
Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? ... Đức tin không có hành động thì quả
là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi
có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi,
tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin. Bạn tin rằng chỉ có một Thiên
Chúa duy nhất. Bạn làm phải. Cả ma quỷ cũng tin như vậy, và chúng run sợ. Hỡi
người đầu óc rỗng tuếch, bạn có muốn biết rằng đức tin không có hành động là vô
dụng không? ... Một thân xác không hơi thở là một xác chết, cũng vậy, đức tin
không có hành động là đức tin chết".
Như vậy, trong khi
thánh Phaolô nói rằng chỉ duy đức tin mới cứu rỗi, còn hành động chẳng ích lợi
gì, thì thánh Giacôbê nói ngược lại: con người thực sự được cứu rỗi nhờ các
hành động, và ông đưa ra ba lý luận: a) ma quỷ cũng tin có Thiên Chúa, nhưng
niềm tin ấy chẳng ích lợi gì, bởi vì chúng run sợ nghĩa là bị đày đọa; b) ông
Abraham được nên công chính nhờ việc làm, nghĩa là qua việc hiến tế đứa con một
của mình cho Thiên Chúa; c) Rakhab là một cô gái điếm nhưng đã được cứu độ nhờ
hành động, qua việc đón tiếp các sứ giả của Israel.
(ii) Thực chất của vấn đề
Thực ra khi đọc lại các
bản văn, chúng ta thấy hai thánh tông đồ không mâu thuẫn với nhau. Mỗi người
viết trong một hoàn cảnh cụ thể; thế nhưng, có người đã trích câu văn ra khỏi
mạch văn, và thổi phồng đến mức độ khẳng định điều mà tác giả không muốn nói
đến.
+ Trước hết, chúng ta
hãy trở lại với mạch văn của thánh Phaolô. Ong viết trong một hoàn cảnh lịch sử
cụ thể, trong cuộc tranh luận với các Kitô hữu gốc Do thái hoặc với chính những
người Do thái. Họ hãnh diện vì Thiên Chúa đã ban cho họ lề luật, và họ nghĩ
rằng nếu họ tuân giữ lề luật thì Thiên Chúa sẽ trả công cho họ theo phép công
bằng. Trong viễn tượng này, họ không cần đến ơn cứu độ nào khác nữa. Thánh
Phaolô cũng là người Do thái và ông cũng đã tin như vậy, nhưng từ khi ông được
Chúa Kitô mặc khải, ông đã thay đổi cái nhìn. Luật mà Chúa ban cho dân Do thái
qua ông Mosê đã hoàn tất nhiệm vụ rồi, đó là chuẩn bị cho Đức Kitô. Nơi Đức
Kitô, Thiên Chúa đã ban ơn cứu độ vĩnh viễn cho loài người, và con người lãnh
nhận ơn ấy nhờ đức tin vào Đức Kitô chứ không phải nhờ việc giữ luật Môsê. Để
củng cố thêm lập luận của mình, thánh tông đồ đưa thêm hai luận cứ: a) thứ
nhất, con người không thể được cứu độ do luật Mosê, bởi vì không ai có khả năng
giữ trọn tất cả các lề luật; lề luật vạch ra nghĩa vụ và gây thêm những sự vi
phạm luật (Rm 3,20); b) luận cứ thứ hai, ông Abraham được nên công chính do
lòng tin chứ không do việc giữ lề luật (Rm 4,3, trích dẫn St 15,6). Dù sao,
đàng sau cuộc tranh luận này, điều mà thánh Phaolô muốn nêu bật là sự cứu độ là
một hồng ân Thiên Chúa ban, chứ không phải là yêu sách mà con người có thể đòi
hỏi dựa theo những công lênh của mình.
Như đã thấy trên đây,
đức tin mà thánh Phaolô đề cập không chỉ giới hạn vào việc chấp nhận một chân
lý trừu tượng (tin có Thiên Chúa), nhưng là một đức tin sống động, diễn tả qua
mối tương quan năng động với Đức Kitô, cố gắng càng ngày càng trở nên đồng hình
đồng dạng với Người, cách riêng qua việc họa lại mầu nhiệm tử nạn và phục sinh
của Người. Vì thế đức tin đòi hỏi những hành động diệt trừ tội lỗi và con người
cũ, đồng thời để cho Thánh Linh hướng dẫn ngõ hầu phát sinh những hoa trái của
đức ái. Đức tin hành động nhờ đức ái (Gl 5,6). Mặt khác, thánh Phaolô đã nhiều
lần khiển trách các tín hữu vì đã không trung thực với ơn gọi của mình, cách
riêng khi buông theo cái mà ông gọi là những đam mê của tính xác thịt: dâm bôn,
ô uế, phóng đãng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận,
tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tị say sưa, chè chén (Gl 5,19). Đó là những
công việc của kẻ còn làm nô lệ. Các tín hữu đã được giải thoát khỏi những cảnh
nô lệ, vì thế cần sống phù hợp với tự do con cái Chúa (Gl 5,13).
+ Hiểu như vậy, thánh
Giacôbê không mâu thuẫn với thánh Phaolô. Ông Giacôbê cũng nhìn nhận sự cần
thiết của đức tin, bởi vì nếu không có đức tin thì đâu có thể được cứu độ? Ông
chỉ đả kích cái "đức tin chết", chứ không phải là "đức tin sống
động". Đức tin của ma quỷ là đức tin chết, nghĩa là đức tin lý thuyết: một
đức tin như thế thì tất nhiên không mang lại ơn cứu độ (Gc 2,14-16). Nhưng ông
Giacôbê không hề nói rằng chỉ cần hành động chứ không cần đức tin. Các hành
động chứng tỏ rằng đức tin sống động, chứ không loại trừ đức tin. Điều thú vị
là cả hai vị tông đồ đều trưng dẫn tổ phụ Abraham để minh chứng cho luận đề của
mình. Thánh Phaolô cho thấy rằng ông Abraham được nên công chính nhờ lòng tin;
thánh Giacôbê nói rằng ông Abraham được nên công chính nhờ việc hy sinh đứa con
một của mình. Tuy nhiên, nếu bình tĩnh đọc lại tích truyện của ông Abraham thì
ta thấy cả hai việc đó liên hệ với nhau chứ không loại trừ nhau. Ông Abraham là
mẫu gương cho đức tin kể từ khi ông lên đường đi theo tiếng Chúa gọi, và đức
tin của ông đạt đến cao điểm khi ông dám hy sinh đứa con duy nhất. Thật vậy,
ông tin rằng Chúa có thể thực hiện lời hứa bằng những đường lối khác với cách
thức suy nghĩ của chúng ta.
Tóm lại, không có sự
mâu thuẫn giữa lời khẳng định của thánh Phaolô "con người được cứu độ nhờ
đức tin", và lời khẳng định của thánh Giacôbê: "đức tin không có việc
làm là đức tin chết". Cả hai đều nhìn nhận sự cần thiết của đức tin; cả
hai đều nhìn nhận sự cần thiết của hành động. Điều rắc rối còn kéo dài trong
lịch sử thần học ở chỗ là đức tin là một ân huệ ban không về phía Thiên Chúa6 , nhưng đồng thời đức
tin cũng đòi hỏi đáp ứng về phía con người. Trong cuộc tranh luận về ân sủng và
tự do, thánh Augustinô đã phát biểu nguyên tắc: "Chúa đã dựng nên ta mà
không cần ta, nhưng Chúa sẽ không cứu ta mà không có ta (hợp tác)"7 . Vào thời cận đại,
cuộc tranh luận giữa Tin Lành và Công giáo xoay quanh hai vấn đề chính:
"tin là gì?" (tin thác, tin tưởng; hay là tin nhận đạo lý); "ý
nghĩa của việc trở-nên-công-chính" (Chúa xóa bỏ hết lỗi phạm của chúng ta,
biến chúng ta thành trong trắng; hay tội lỗi vẫn còn đó nhưng mà Chúa không
chấp?); "sự hợp tác với ơn thánh" (các việc lành có thêm công trạng
gì không?). Chúng ta sẽ trở lại điểm này trong bài tới.
Để kết thúc, xin thêm
hai nhận xét
(a) Người ta nhận thấy rằng trong những thư đầu tiên, thánh Phaolô nhấn mạnh
đến quyền năng và sức mạnh của Lời Chúa hay của Tin mừng, nhưng trong những thư
mục tử, Người bận tâm đến "đạo lý" và khuyên răn Timôthê hãy
"giữ gìn đạo lý" (1Tm 6,20; 2 Tm 1,14), "đạo lý lành mạnh"
(1Tm 1,10; 2Tm 4,3; Tt 1,9; 2,1). Đây là một "gia sản" (depositum:
paratheke) được ủy thác và cần phải giữ gìn cẩn thận.
(b) Tuy ngày nay các học giả không coi thánh Phaolô là người viết
Thư gửi người Hipri, nhưng tư tưởng của nó gần gũi với thánh Tông đồ. Tác giả dành trọn
chương 11 để trưng bày mẫu gương của các chứng nhân đức tin, với lời mở đầu như
sau: "Đức tin là bảo đảm cho những điều ta hy vọng, là bằng chứng cho
những điều ta không thấy". Đức tin gồm có hai yếu tố.
+ Yếu tố thứ nhất:
"bảo đảm những điều hy vọng"8 . Đức tin bao gồm một
cái nhìn tin tưởng và hy vọng về những điều tương lai. Dưới khía cạnh này, đức
tin và đức cậy giống nhau.
+ Yếu tố thứ hai:
"bằng chứng cho những điều ta không thấy" . Đức tin bao hàm một sự
thâm tín về sự hiện hữu của những điều mà ta không thấy.
Theo thánh Tôma Aquinô
(Summa Theol. II-II, q.4, a.1), yếu tố thứ nhất liên quan đến đối tượng của đức
tin (đó là những điều mà ta hy vọng); yếu tố thứ hai liên quan đến chủ thể của
đức tin (nó là một sự xác tín của lý trí về những chân lý tuy không thấy nhưng
chấp nhận dựa trên uy tín của Chúa). Chúng ta có thể tóm tắt như thế này: tín
hữu là người không dừng lại ở những điều vật chất hữu hình, nhưng tin tưởng
hướng về những thực tại siêu việt mà hiện thời ta không thấy được, song đã được
Thiên Chúa bảo đảm.
Kết luận
Tóm lại, pistis trong
Tân ước là một thực thể phong phú bao hàm nhiều khía cạnh.
- Khía cạnh tri thức:
hiểu biết về bản thân và sứ điệp của đức Giêsu.
- Khía cạnh tin tưởng
vào sự chân thành của Thiên Chúa mạc khải cho chúng ta nơi đức Kitô. Sự tín
thác kèm theo niềm hy vọng rằng những lời Chúa hứa sẽ được thực hiện (Dt
11,9-11; Rm 4,17-20; 1Pr 1,5-9). Hy vọng phát sinh sự kiên trì và chung thủy
(2Tm 4,7; Rm 1,5; Gl 5,6).
- Hiệu quả: đức tin
mang lại đời sống mới (ơn trở nên công chính; thụ tạo mới).
Khi đối chiếu giữa quan
niệm "tin" trong Cựu ước và Tân ước, các tác giả nhận thấy sự liên
tục và sự mới mẻ. Sự liên tục ở chỗ tin bao hàm thái độ tín thác, tin tưởng vào
Thiên Chúa can thiệp trong lịch sử; sự mới mẻ ở chỗ đối tượng của sự can thiệp
của Thiên Chúa được biểu lộ cách cụ thể nơi đức Giêsu Kitô: kể từ nay, ai tin
vào Thiên Chúa thì cũng phải tin vào Đức Giêsu Kitô. Như vậy trong Tân ước, tin
mang thêm một chiều kích, đó là chấp nhận Đức Kitô. Riêng về điểm này, các sách
Tân ước cũng cho thấy một sự tiến triển. Thực vậy, vào lúc bắt đầu rao giảng
Tin mừng, Đức Giêsu chỉ đòi hỏi nơi người nghe sự tin tưởng vào lời của Người
và cải hoán cuộc đời; vai trò của Ngài có thể ví như một đại ngôn sứ. Dần dần,
và cách riêng là kể từ cuộc Phục sinh, Đức Giêsu đòi hỏi các môn đệ và người
nghe hãy tin vào Người, tin rằng Người là vị Cứu thế, và hơn thế nữa, tin rằng
Người là Thiên Chúa. Ta có thể nhận thấy sự tiến triển ấy khi bắt đầu với các
bản văn tương đối thô sơ của Tin mừng nhất lãm cho đến cao điểm nơi các tác
phẩm của thánh Phaolô và thánh Gioan.
Một điều trớ trêu là
khi đọc Tin mừng, ta thấy những kẻ không tin Đức Kitô là những người Do thái.
Họ đâu phải là người vô thần; trái lại, họ đã tin vào Thiên Chúa, và đa số rất
trung thành với Luật Mosê. Trong bối cảnh ấy, ta dễ hiểu vì sao Tân ước nhấn
mạnh đến sự cần thiết phải tiến thêm một bước nữa, đó là nhìn nhận rằng Thiên
Chúa đang can thiệp vào lịch sử nơi bản thân của Đức Giêsu: từ đó vấn đề được
đặt lên về việc tin vào lời giảng của đức Giêsu và lời giảng của Hội thánh về
Đức Giêsu. Đức tin cần thiết để được cứu rỗi. Đức Giêsu đã làm nhiều phép lạ để
chứng minh sứ mệnh của mình, nhưng phép lạ chưa đủ để tin. Cần có thái độ cởi
mở với những hình thức mới của sự can thiệp của Thiên Chúa, cũng như hợp tác
với ân sủng để đón nhận đức tin. Ngoài ra, vài vấn nạn khác cũng được nêu lên
trong cộng đoàn tiên khởi, chẳng hạn như: tương quan giữa tin và biết, tin và
thấy, tin và làm. Đó là bối cảnh của các bản văn Tân ước về đức tin.
Những khía cạnh khác
nhau của đức tin sẽ còn được khai triển trong lịch sử Giáo hội.
Linh mục Giuse Phan Tấn Thành, O.P
*Ghi chú:
1. Tiếng Anh: faith,
belief, to believe; tiếng Pháp: foi, croyance, croire; tiếng Latinh: fides
credere.
2. J. Duplacy, "Fede" in: Xavier Leon
Dufour (dir.), Dizionario di Teologia Biblica, Marietti Torino 1971,
col.380-385.
3. Thật ra, batak được chuyển sang tiếng Hy-lạp
là elpìs, elpìzo, pèpoitha (và sang tiếng Latinh
Vulgata là spes, sperare, confido); còn ʾaman là pìstis, pistúein, alétheia (Latinh: fides, credere,
veritas). Trong Tân ước danh từ pistis xuất hiện 243 lần và động từ pisteúein
241 lần
4. Trong tiếng Hy-lạp, tác giả dùng những động
từ khác nhau: blepein (thấy vật lý), theorein (quan sát kỹ lưỡng), theâsthai
(chiêm ngưỡng), horan (thấy của đức tin)
5. Điều này còn rõ hơn khi so sánh với các tác
giả Tin mừng nhất lãm, với tỉ lệ danh từ và động từ là: Mt 11/8; Mc 14/5; Lc
9/11.
6. "Chúng ta được nên công chính nhờ công
trình cứu chuộc thực hiện trong Đức Kitô Giêsu" (Rm 3,24) "Chính
Thiên Chúa tác động đến ý chí cũng như hành động của anh em do lòng yêu thương
của Ngài" (Pl 2,13). "Thiên Chúa Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ
lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Ngài đối với nhân loại. Không phải vì tự
sức mình chúng ta đã làm nên những việc công chính, nhưng vì Ngài thương xót,
nên Ngài đã cứu chúng ta nhờ phép rửa ban ơn Thánh Linh, để chúng ta được tái
sinh và đổi mới" (Tt 3,5).
7. "Qui creavit te sine te, non
iustificabit sine te" (Sermones ad populum 169, c.11: PL 38,923)
8. Dịch sát là: nền tảng, bản thể của những
điều mà ta hy vọng (hypostasis elpisoménôn / substantia sperandorum). Nên biết
là Đức thánh cha Benedicto XVI đã chú giải đoạn văn này trong thông điệp Spe
salvi (30/11/2007) số 7.
9. Dịch sát: luận chứng chắc chắn của những
điều mà ta không thấy (elenchos ou blepoménon / argumentum non apparentium).
(tonggiaophanhanoi.org)