Hãy Mở Cánh Cửa Đức Tin – Thoát Ly Hoang Địa Tâm Linh
6/2/2013
Chủ đề của Ngày Giáo Lý năm 2013 của Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ là “Hãy
Mở Cánh Cửa Đức Tin.” Chúng tôi xin gửi đến quý bạn, đặc biệt là quý Giáo Lý
Viên một loạt bài suy niệm về Tông Thư Porta Fidei dựa trên Sách Giáo Lý của
Hội Thánh Công Giáo, các văn kiện của Công Đồng Vaticanô II và của Huấn Quyền.
Được biết Năm Đức Tin cũng là trọng tâm của Đại Hội Giáo Lý Việt Nam
Toàn Quốc Hoa Kỳ lần thứ XII được tổ chức tại Baton Rouge, Louisiana từ ngày 21
đến 23 tháng 6, 2013. Muốn ghi danh tham dự Đại Hội hoặc muốn biết thêm chi
tiết xin vào
www.giaoly.org/vn/ghi-danh hoặc www.nhatinhtamlethithanh.org/ghidanhdhgl.html.
“Ngay từ khi bắt đầu sứ vụ của tôi như người Kế Vị Thánh Phêrô, tôi đã
nhắc nhở mọi người về sự cần thiết phải tái khám phá cuộc hành trình đức tin để
càng ngày càng làm sáng tỏ niềm vui và lòng nhiệt thành được đổi mới nhờ gặp gỡ
Đức Kitô. Trong bài giảng trong Thánh Lễ khai mạc triều đại Giáo Hoàng của tôi,
tôi đã nói: ‘Hội Thánh nói chung và tất cả các Mục Tử trong Hội Thánh, như Đức
Kitô, phải lên đường để dẫn đưa con người ra khỏi hoang địa, đi về nơi có sự
sống, về phía tình bằng hữu với Con Thiên Chúa, về Đấng ban cho chúng ta sự
sống, sự sống sung mãn’ ….” (Porta
Fidei, 2).
Đối với người Công Giáo, đức tin là một “cuộc hành trình kéo dài suốt
đời” (Porta Fidei, 1) Cuộc hành trình này rất đòi hỏi và khó khăn cùng phải
trải qua nhiều thử thách như Dân Do Thái xưa trong hoang địa. Sách Giáo Lý của
Hội Thánh Công Giáo xác nhận rằng “Đức tin có thể bị thử thách. Trần gian mà
chúng ta đang sống thường được coi như xa vời với những gì đức tin tuyên xưng;
những kinh nghiệm về sự dữ và đau khổ, về những bất công và cái chết, dường như
mâu thuẫn với Tin Mừng; những điều đó có thể làm cho đức tin bị nao núng và trờ
thành một cám dỗ đối với đức tin” (GLCG 164).
Chúng ta đang sống trong một “Nền Văn Hóa Sự Chết,” một nền văn hóa thủ
nghịch với Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI viết trong Tông Thư Ubicumque et semper rằng những tiến bộ về khoa học, kỹ
thuật... đã góp phần không nhỏ trong việc thăng tiến cuộc sống con người, nhưng
“cũng làm mất mát một cách đáng ngại ý thức về sự thánh thiêng, là điều đưa đến
nghi ngờ ngay cả những nền tảng được coi là không thể lay chuyển nổi như đức
tin vào một Thiên Chúa tạo hóa quan phòng, mặc khải về Chúa Giêsu Kitô như Đấng
Cứu Độ duy nhất,. .. Chẳng bao lâu … sẽ dẫn đến một ‘hoang địa nội tâm.’”
Quan tâm lớn nhất của Đức Bênêđictô là ảnh hưởng của “thuyết Tương Đối”
trên đức tin. Thuyết tương đối là thuyết cho rằng không có gì là Chân
Lý tuyệt đối cả. Những chủ thuyết như thả lỏng vế luân lý, đa nguyên về tôn
giáo..., là những tà thuyết nảy sinh ngay trong lòng Hội Thánh và đang được phổ
biến rộng rãi trong giới trí thức và các đại học Công Giáo trong 50 năm qua.
Những thuyết này là hậu quả của Chủ Nghĩa Hiện Đại và một chủ thuyết mà năm
1899 Đức Thánh Cha Lêô XIII đã gọi là Americanism trong Thông Điệp Testem Benevolentiae. Chủ thuyết ấy cho
rằng: “Hội Thánh phải thích nghi với nền văn hóa tân tiến và nới lỏng sự nghiêm
khắc cổ xưa không những về những quy luật sống mà còn cả về kho tàng đức tin,
và phải bỏ qua hay giảm thiểu một số điểm về đức tin, hoặc gán cho chúng những
ý nghĩa mà từ trước đến giờ Hội Thánh chưa từng bao giờ nghĩ đến.” (Tự Điển Bách Khoa Công Giáo).
Do ảnh hưởng của chủ thuyết này mà 20 Đại Học Công Giáo lớn ở Mỹ, trong
đó có Notre Dame, đã tuyên bố độc lập với Huấn Quyền Hội Thánh vào năm 1967
tại Land O’Lakes; nhiều thần học gia Công Giáo đã bóp méo “tinh
thần” của Công Đồng Vaticanô II cùng phản đối Thông Điệp Humanae Vitae; nhiều Đại Học và Thần Học
Gia Công Giáo Hoa Kỳ đang cực lực phản đối Tông Hiến Ex Corde Ecclesiae. Tất cả cùng với chủ
trương chú giải Thánh Kinh hoàn toàn theo phương pháp khoa học đã tạo ra một ”hoang địa tâm linh” cho nhiều người Công Giáo Hoa Kỳ khiến
người ta như lạc vào mê hồn trận mà không còn thấy đâu là Chân Lý!
Hậu quả là nhiều người Công Giáo ở Hoa Kỳ, đặc biệt là các chính trị
gia và các học giả, đã và đang tách rời đức tin ra khỏi đời sống hằng ngày. Họ
chỉ chấp nhận những giáo huấn nào hợp với quan điểm của họ, những giáo huấn nào
bùi tai họ, những giáo huấn nào không đòi họ phải từ bỏ ý riêng, phải vác thập
giá mà theo Chúa. Họ mất cảm thức về tội lỗi, mất định hướng về chân lý, và
đang lang thang trong một hoang địa tâm linh vô tận. Cho nên chúng ta không
ngạc nhiên khi có rất nhiểu chính khách vỗ ngực tự nhận là người Công Giáo
nhưng lại công khai ủng hộ những đạo luật vô luân như phá thai, ngừa thai và
hôn nhân đồng tính.
Để giúp chúng ta “ra khỏi hoang địa, đi về nơi có sự sống, về phía tình
bằng hữu với Con Thiên Chúa,” Hội Thánh không những chỉ có Thánh Kinh và Thánh
Truyền mà còn có Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo như những “quy luật vững
chắc để truyền dạy đức tin.” Ngoài ra còn có Huấn Quyền là “quyền giáo huấn
được Chúa Giêsu ủy thác cho Đức Thánh Cha và các Giám Mục hiệp thông với ngài.
Huấn quyền này không ở trên Lời Chúa, nhưng phục vụ Lời Chúa và chỉ giảng dạy
những điều được truyền lại” (GLCG 85,86).
Ở đây cần phải nói rõ về ơn Bất Khả Ngộ của Huấn Quyền Hội Thánh. Nhiều
người nghĩ rằng chỉ có một số tín điều về luân lý hay đức tin được Đức Thánh
Cha long trong công bố cho toàn thể Hội Thánh khi ngồi trên tòa Thánh Phêrô mới
không sai lầm và chúng ta phải tin, còn những giáo huấn khác chúng ta không
buộc phải vâng theo. Thực ra có ba trường hợp mà Huấn Quyền được ơn bất khả
ngộ:
1. Đức Thánh Cha ngồi trên tòa Thánh Phêrô long trọng công bố tín điều
mà toàn thể Hội Thánh phải tin.
2. Huấn Quyền Đặc Biệt là quyền giáo huấn của Đức Thánh Cha và các Giám
Mục họp ở một Công Đồng, hay một mình Đức Thánh Cha, quyết định một điều gì dứt
khoát về luân lý hay tín lý, như giáo huấn của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô về
việc truyền chức Linh Mục cho nam giới trong Tông Thư Ordinatio Sacerdotalis,
hay giáo huấn về ngừa thai của Đức Thánh Cha Phaolô VI trong Thông Điệp Humanae
Vitae.
3. Huấn Quyền Thông Thường Phổ Quát là những giáo huấn về luân lý hay
tín lý không được long trọng công bố nhưng được Đức Thánh Cha và đại đa số các
Giám Mục khắp nơi đồng thanh giảng dạy, như vấn đề ngừa thai, phá thai, ly dị,
hôn nhân đồng tính…
Như thế để chắc chắn không lạc đường trong hoang địa, chúng ta phải tham chiếu sách Giáo Lý và giáo
huấn của Huấn Quyền ngõ hầu phân
biệt được đâu là chân lý, đâu là sai lạc. Không phải bất cứ điều gì được dạy ở
Đại Học Công Giáo, hay ngay cả trong các chủng viện, đều đúng. Chỉ có những gì
không nghịch với Giáo Lý và Huấn Quyền mới đúng. Bởi vì theo Đức Bênêđictô XVI
thì ”thực sự có một thần học đặt
sự uyên bác lên trên, để tỏ ra khoa học mà quên thực tại sống còn là sự hiện
diện của Thiên Chúa, sự hiện diện của Ngài giữa chúng ta, việc Ngài nói hôm
nay, chứ không chỉ trong quá khứ…. Đó chính là lạm dụng thần học, là sự kiêu
căng của lý trý, điều đó không nuôi dưỡng đức tin mà che khuất sự hiện diện của
Thiên Chúa trong thế gian” (Hỏi Đáp cuối năm Linh Mục – Phần II).
Theo Reuter ngày 18 -9-2007 thì Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI cũng
đã cảnh giác các thần học gia Công Giáo về việc trở nên kiêu căng trong một bài
giảng trong Thánh Lễ dành riêng cho các học trò của ngài.
Chúa Giêsu đến để mặc khải cho chúng ta Chân Lý. Trên Thánh Giá, Người
đã trao cho chúng ta Mẹ Người. Sau khi về Trời Người đã gửi Chúa Thánh Thần
xuống để hướng dẫn chúng ta đến toàn thể Chân Lý. Chân Lý ấy là chỉ nam dẫn
chúng ta ra khỏi hoang địa thế gian mà về Quê Trời. Chân Lý ấy được cắt nghĩa
và lưu truyền trong Hội Thánh, được Huấn Quyền bảo vệ và giải thích. cùng được
cô đọng trong Sách Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo. Không một cá nhân hay một nhóm
người nào, dù uyên bác đến đâu có thể tự cho là mình biết trọn chân lý và đúng
hơn Hội Thánh, vì Chúa ThánhThần chỉ ban cho mỗi người khả năng hiểu biết một
phần chân lý. Còn kho tàng khôn ngoan của Hội Thánh đã được Chúa Thánh Thần
hướng dẫn và chứng thực, cùng tích lũy sự hiểu biết của rất nhiều người trong
hơn 2.000 năm qua. Những kiến thức của các học giả hiện đại chỉ là hạt cát so
với kho tàng này. Ai đi tìm Chân Lý mà coi thường Giáo Lý và Huấn Quyền của Hội
Thánh thì chẳng khác gì Philatô hỏi Chúa Giêsu “Chân Lý là gì?” rồi bỏ ra ngoài
mà không nghe Chúa trả lời. Đức Mẹ là mẫu gương của người khiêm nhường đón nhận
chân lý vì Mẹ lắng nghe, Mẹ tin Lời Chúa, Mẹ giữ Lời ấy và suy đi nghĩ lại
trong lòng. Nhờ thế Mẹ đã vượt qua được hoang địa đau thương nơi Thánh Giá để
được vui mừng khi Chúa Phục Sinh. Có thể nói cả đời của Mẹ từ lúc Truyền Tin
cho đến khi Chúa Sống Lại là một hoang địa tâm linh, nhưng nhờ đồng hành với
Chúa mà Mẹ không mất niềm tin.
Để kết luận chúng tôi xin mượn lời của Sứ Điệp Kết Thúc Thượng Hội Đồng Giám Mục về Tân Phúc Âm
Hóa: ”Đức Mẹ
Maria là Đấng dẫn chúng ta trên đường. Công việc của chúng ta, như Đức Thánh
Cha Bênêđictô nói, có vẻ như một đường mòn qua hoang địa; chúng ta biết rằng
mình phải lên đường, mang theo mình những gì là cần thiết: sự đồng hành của
Chúa Giêsu, chân lý của Lời Người, Bánh Thánh Thể là lương thực nuôi dưỡng
chúng ta, tình hiệp thông Hội Thánh, động lực của Đức Ái. Đó là nước của giếng
làm cho hoang địa nở hoa. Như những vì sao sáng hơn trong đêm nơi hoang địa,
thì ánh sáng của Đức Mẹ, Ngôi Sao của Tân Phúc Âm Hóa, cũng từ Trời chiếu sáng
con đường của chúng ta. Chúng ta hãy tin tưởng phó thác nơi Mẹ” (câu 14).
Câu hỏi để suy nghĩ và thảo luận:
1. Tôi đang gặp những khó khăn gì trong cuộc hành trình đức tin của
tôi? Tôi giải quyết thế nào?
2. Tôi đang làm gì và sẽ làm gì để hiểu biết thêm về đức tin?
3. Làm sao tôi có thể phân biệt được những gì là đúng, những gì là sai
khi đọc các bài viết về tôn giáo hay luân lý?