CÔNG ĐỒNG VATICANÔ 2
(giaolyductin.net 21/10/13,
4:25 pm)
FABC Papers No.117
THE SECOND VATICAN COUNCIL AND THE CHURCH IN
James H. Kroeger, M.M.
(General Editor)
Ngày 20 tháng Tư,
2005, ngày sau khi được chọn làm Giáo chủ của GH công giáo Roma, Đức Giáo hoàng
Bênêđictô XVI đã nói một sứ điệp cho các hồng y, tín hữu, và tất cả những người
nam nữ thiện chí; ngài phác thảo nhãn giới cho triều giáo hoàng của mình. Ngài
nói sẽ nhất tâm "làm cho ánh sáng Đức Kitô chiếu tỏa trước con người hôm
nay." Ngài cũng nói nhiều về mẫu gương của Đức Gioan Phaolô II và tầm quan
trọng của Công đồng Vatican II.
Vị Tân Giáo hoàng
mãnh mẽ ghi nhận: "Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đúng đắn chỉ ra Công
đồng như một 'chiếc la bàn' nhờ đó xác định phương hướng của chúng ta trong đại
dương mênh mông của Thiên niên kỷ thứ ba (NMI 57-58). . . Trong chúc thư thiêng
liêng, ngài cũng ghi nhận, "Tôi thâm tín rằng công đồng được ban cho những
thế hệ mới để rút từ những kho tàng mà công đồng thế kỷ XX này đã ban rộng rãi
trên chúng ta . . .' Do vậy, khi tự chuẩn bị để phục vụ cách thích hợp như Đấng
Kế vị Phêrô, tôi cũng muốn xác quyết là tôi muốn tiếp tục đem Công đồng Vatican
II ra thực hiện, theo chân những vị tiền nhiệm của tôi và trong sự tiếp nối
trung thành với truyền thống 2000 năm của GH. Năm nay ghi dấu kỷ niệm 40 năm
kết thúc công đồng này (8 tháng Mười Hai, 1965). Khi thời gian qua đi, những
văn kiện công đồng vẫn không mất đi tính hợp thời; thực thế, những giáo lý của
chúng đang minh chứng là thích đáng cho tình trạng mới của GH và xã hội toàn
cầu hóa hiện hành" (OR-EE, 27-04-05, p. 3).
Ấn bản FABC này thâu
họp bẩy bài mấu chốt trình bày một sơ lược về công đồng và ảnh hưởng của công
đồng trên các GH Á châu. Tóm lại, sau một cái nhìn sơ lược nổi tiếng về Công
đồng (Kroeger), ta trình bày ba bài giới thiệu tổng quát (Trisco-Komonchak,
Dules, và Hurley); những bài này được theo sau bằng ba bài nữa trong bối cảnh
hóa Công đồng tại Á châu (Claver, Neo, và Phan). Trình bày theo một hình thức
sơ đồ, nội dung như sau:
I. Dẫn nhập vào Vatican II
[A] Tổng quát
chung (Kroeger)
II. Trình bày tổng quát về Vatican II
[B] Tổng quát
toàn diện (Trisco-Komonchak)
[C] Những nguyên
tắc căn bản (Dulles)
[D] Những kinh
nghiệm cá nhân (Hurley)
III. Vatican II và Á châu
[E] Những suy tư
từ Á châu (Claver)
[F] Đời sống thánh hiến tại Á châu (Neo)
[G] Tiếp nhận
Công đồng ở Á châu (Phan)
Khi GH cử hành kỷ
niệm 40 năm ngày kết thúc Công đồng (8 tháng Mười Hai, 1965-2005), ta hy vọng
rằng bảy bài được chọn này sẽ canh tân mối quan tâm của những người Công Giáo Á
châu (trẻ cũng như già) để trân trọng và làm cho những sự phong phú của Vatican
II thành của mình - vì tiếp tục sự canh tân được Thần khí khởi hứng nơi các
giáo hội địa phương khắp Á châu.
[A] CÔNG ĐỒNG
Một Tặng phẩm Kỳ
diệu và Quảng đại
James H. Kroeger,
M.M.
Vào ngày 8 tháng
Mười Hai, 2005, những người Công giáo cử hành kỷ niệm 40 năm kết thúc công đồng
Vatican II; nhà giáo hội học Komonchak chí lý coi sự qui tụ lớn lao ấy của các
giám mục trên thế giới là biến cố quan trọng nhất của lịch sử GH Công giáo Roma
từ thời Cải cách Tin lành. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã gọi công đồng này
là biến cố tôn giáo quan trọng nhất của thế kỷ XX. Một vài người trong chúng ta
đã lớn tuổi đủ để nhớ rõ Công đồng [Tôi là một đại chủng sinh vào thời gian đó
(1962-1965)]! Tuy nhiên, bất kỳ ai viết về Công đồng ấy ngày hôm nay, ngay cả
thần học gia hay học giả có thẩm quyền nhất, biết rằng may lắm, ông chỉ mới
cống hiến được một trực giác nhỏ bé vào một hiện tượng trọng yếu mà thôi.
Người viết đây sẽ
đơn giản cống hiến ba cái nhìn thoáng qua ngắn gọn, phổ thông về Vatican II.
Tất cả, dù nghiêm chỉnh hay hóm hỉnh, đều nhằm khuấy lên nơi độc giả sự tò mò,
mối quan tâm và hiến thân để bắt tay vào một hành trình cá nhân hầu khám phá
những chiều sâu chính nơi Công đồng cũng như nơi tác động biến đổi mà "lễ
Ngũ Tuần mới" này thực thi trên các GH địa phương khắp thế
giới.
Một toàn cảnh về
Công Đồng. Vào ngày lễ thánh Phaolô trở lại (ngày
5 tháng Giêng, 1959), chưa đầy 100 ngày sau khi được chọn, Đức Giáo hoàng Gioan
XXIII loan báo ngài có kế hoạch triệu tập tất cả các giám mục khắp thế giới cho
một công đồng chung. Nhiều người ngạc nhiên rằng vị giáo hoàng "như người
chăm nom nhà cửa" thôi (đã 77 tuổi rồi) lại muốn đảm trách một dự phóng
khổng lồ như thế. Một vài người nghĩ rằng Đức Giáo hoàng ấy chỉ triệu tập một
công đồng để hoàn tất những công việc dang dở của
Suốt những giai đoạn
chuẩn bị, motu proprio [tự sắc] của Giáo hoàng thiết lập một
vài ủy ban và văn phòng Tổng Thư ký (secretariats), dưới thẩm quyền cá nhân của
Giáo hoàng. Những ủy ban làm việc để biết được những đề xướng về những đề tài
thảo luận; người ta nhận được trên 9.300 đề xướng. Chất liệu được xếp bảng chú
dẫn (index)
và phân phối cho mười một ủy ban được Đức Gioan XXIII chỉ định vào tháng Sáu,
1960 để nháp những tài liệu thảo luận. Những nhóm này bao gồm
các giám mục, linh mục, thần học gia, một giáo dân song không có nữ giới.
Những ủy ban gặp nhau giữa tháng Mười Một, 1960 và tháng Sáu, 1962 rồi đưa ra 70 văn kiện. Những văn kiện này
lần lượt được giản lược thành 20 bản văn riêng rẽ và đệ trình cho Đức
Giáo hoàng. Vào tháng Bảy 1962 bẩy trong những tài liệu này được lưu hành giữa
các giám mục trên thế giới để chuẩn bị cho ngày khai mạc công đồng vào tháng
Mười.
Vào lễ Giáng sinh
1961 Đức Gioan XXIII đã chính thức triệu tập Công đồng với Tông hiếnHumanae Salutis. Vatican II khai mạc ngày 11 tháng Mười, 1962.
Người ta có thể gợi nhắc vài thời khắc ý nghĩa của khóa họp đầu tiên này: diễn
từ của Đức Gioan XXIII,Gaudet Mater Ecclesia, (Mẹ Giáo hội vui lên) mang tính thị kiến
và chương trình; các Giám mục khước từ chấp nhận việc Giáo triều Roma tổ chức
các ủy ban; những tranh luận về phụng vụ, mạc khải, và GH; chống lại tài liệu
nháp của Giáo triều về Giáo hội. Những làn gió mới hiển nhiên đang thổi qua
GH.
“Đức Giáo hoàng tốt
lành Gioan qua đời ngày 3 tháng
Sáu, 1963; Đức Phaolô VI lên kế vị; ngài tuyên bố dứt khoát muốn
tiếp tục Công đồng. Diễn từ của Đức Phaolô VI khai mạc khóa thứ hai (ngày 29
tháng Chín) liệt kê bốn mục đích: khai triển một ý tưởng sâu xa hơn về GH, canh tân
GH, hiệp nhất các Kitô hữu, và đối thoại giữa GH và thế giới. Vào
cuối khóa họp thứ hai này (mồng 4 tháng Mười Hai), hai văn kiện đầu tiên được
công đồng chính thức phê chuẩn (Phụng vụ thánh và truyền thông xã
hội.)
Trong tám tháng nghỉ
giữa những khóa họp của Công đồng, Đức Phaolô VI có một vài sáng kiến chủ chốt:
ngài thăm viếng Thượng Phụ Athenagoras ở Đất Thánh (tháng Giêng, 1964); vào
Chúa Nhật lễ Hiện Xuống (tháng Năm, 1964), ngài thiết lập văn phòng thư ký
(Secretariat) cho những người ngoài Kitô giáo [được đổi lại thành Hội đồng Giáo
hoàng về Đối thoại Liên Tôn năm 1988]; tháng Tám, ngài công bố thông điệp đầu
tiên, Ecclesiam Suam; hơn một nửa của
văn kiện này tập trung vào "đối thoại" như chìa khóa quan trọng cho
căn tính của GH.
Khóa họp thứ ba của
Công đồng trải dài từ 14 tháng Chín tới 21 tháng Mười Một, 1964. Có những cuộc thảo luận về những đề tài phức tạp khác nhau rộng
lớn: tự do tôn giáo, những người Do thái, giáo dân, GH trong thế giới tân tiến,
hôn nhân, văn hóa, truyền giáo, và đào tạo các linh mục. Ba văn kiện được công
bố (GH, các GH Công giáo Đông phương, và Đại kết).
Những tháng xen giữa
khóa họp thứ ba và thứ tư của Công đồng chứng kiến những biến cố quan trọng:
Đức Phaolô VI dự Hội Nghị Thánh Thể ở Ấn độ (tháng Mười Một, 1964); Hồng y Béa
thăm Công hội Thế giới của các Giáo hội tại Geneva (tháng Hai, 1965); Đức
Phaolô VI cử hành Thánh lễ bằng tiếng mẹ đẻ vào chính ngày đầu tiên điều này
được cho phép (tháng Ba, 1965); Đức Phaolô VI công bố thông điệp Mysterium fidei (tháng Chín, 1965).
Khóa họp thứ tư và
cuối cùng của Công đồng bắt đầu vào ngày 14 tháng Chín, 1965.
Chính ngày kế tiếp Đức Phaolô VI thiết lập Thượng Hội Đồng các Giám mục đã được
mong đợi từ lâu. Các nghị phụ Công đồng tranh cãi về những văn kiện về truyền
giáo, đời tu, đào luyện linh mục, đời sống và tác vụ linh mục, và những tôn
giáo ngoài Kitô giáo. Trong khóa họp này dành Nhiều giờ thảo luận cặn kẽ về văn
kiện GH trong thế giới tân tiến. Mười một văn kiện nữa đã được công bố, bốn
trong chúng đề ngày 7 tháng Mười Hai, 1965, khóa họp công khai cuối cùng của
Công đồng. Nghi thức kết thúc được tổ chức ở Quảng Trường thánh Phêrô vào ngày 8 tháng Mười Hai, 1965.Mười sáu văn kiện Công đồng bao gồm: 4 Hiến chế, 9 Sắc lệnh, và 3 Tuyên ngôn.
Bản văn chính thức tiếng Latinh, không kể 992 ghi chú dài ngắn khác nhau, lên
tới gần 103.011 chữ. Một công trình phi thường!
Những thống kê gây
sửng sốt. Trong khi biết rằng ta phải tìm ý
nghĩa của công đồng Vatican II trong mười sáu văn kiện công đồng cũng như trong
việc canh tân GH được tác động của Thánh Thần thực hiện, ta có thể thích thú
nhìn vào một vài sự kiện "ấn tượng" của toàn thể dự phóng Vatican
II.
Theo thống kê, Đài
Những thống kê hấp
dẫn khác nữa (với một ít thay đổi nhỏ) được Ralph Wiltgen, SVD cống hiến (The
Rhine Flows into the
Ốm yếu, già lão, hay
những hạn chế bị chính quyền áp đặt khiến 274 Nghị phụ không tham dự được. Giữa
những ngày khai mạc và kết thúc có 253 Nghị phụ qua đời, và 296 Nghị phụ mới
được thêm vào. Giữa 98 Hồng y tham dự, có 11 vị chết trước khi công đồng kết
thúc; chỉ một hồng y không tham dự được là Hồng y Josef Mindszenty của
Hunggari. Tuổi trung bình của các Nghị phụ là 60. Hai phần ba thuộc giáo sĩ
triều, số còn lại là các phần tử của những dòng tu.
Những hồ sơ của Công
đồng được chứa đựng trong 200 bộ sách lớn và có bản liệt kê theo thứ tự abc của
các Nghị phụ, chỉ cho thấy mỗi người nói chung bỏ 544 phiếu kín. Hơn nữa có tất
cả những tài liệu tập tin, công hàm chứa đựng một băng đĩa đầy đủ thu lại tất
cả 168 những hội họp chung, đầy 712 cuộn, mỗi cuộn dài 1300 feet, chạy ra 542
giờ. Đức Phaolô VI ca ngợi văn phòng Tổng Thư Ký của Công đồng vì làm việc cung
cấp một lưu trữ đầy đủ về thần học, tổ chức và quản trị của Công đồng. Thống kê
không nói đầy đủ về Công đồng, nhưng chắc chắn cho thấy chiều kích phong phú
khác của dự phóng đầy tham vọng của Đức Gioan XXIII.
“Thiên tài của Cõi
lòng.” Suốt lúc sinh thời Đức Giáo hoàng Gioan XXIII đã nổi tiếng rộng rãi
với dân chúng thuộc mọi tầng lớp; Người ta thường gán cho ngài thường
"những tước hiệu" khác nhau. Người ta biết ngài như "Vị Giáo
hoàng của Dân chúng" và như "Đức Giáo hoàng Gioan tốt lành". Khi
ngài chết ngày 3 tháng Sáu, 1963 (Thứ hai lễ Hiện xuống) một đề tựa của tờ báo
lớn như sau: "A Death in the Family" (Cái chết trong gia đình). Từ
khi được phong Á thánh ngày 3 tháng Chín, 2000, ngài là "Chân phước Giáo
hoàng Gioan." Nay người ta nhìn thấy thi thể không rữa nát của ngài qua
một quan tài kiếng gần gian chính của Vương cung thánh đường thánh
Phêrô.
Người viết đây thích
trao tặng cho Đức Gioan XXIII một tước hiệu khác, là một "thiên tài của
cõi lòng." Ngài đã sống và yêu đời - thật sung mãn. Là một người cư xử dịu
dàng, ngài vui thích con người, chẳng hạn, dừng lại trò chuyện với những người
làm vườn khi tản bộ. Ngài mời những tân binh của Đội Bảo Vệ Thụy Sĩ ngồi uống
nước với ngài để có thể biết họ. Ngài dành lễ Giáng sinh đầu tiên của mình như
một Giáo hoàng với những ốm trong hai nhà thương tại Roma; ngày hôm sau ngài
thăm các tù nhân tại nhà tù
Mọi người yêu mến
tài hóm hỉnh của Đức Giáo hoàng Gioan, sự say mê của ngài đối với cuộc sống.
Ngài có dư tràn một phẩm chất phi thường trong một giáo hoàng - một cảm thức
khôi hài chân thật. Một ít giai thoại và lời nói cho thấy chiều kích này nơi
"người cha của Vatican II."
Một nhà ngoại giao
mới được chính thức công nhận tới Vatican được Đức Giáo hoàng đón tiếp, và ông
hỏi: "Có bao nhiêu người làm việc ở
Trong những cuộc
rước, Đức Giáo hoàng thường được mang trên sedia gestatoria (tòa có thể đi chuyển được) để dân
chúng có thể thấy ngài rõ hơn. Đức Gioan XXIII thấy khó chịu, nói rằng nó làm
ngài chóng mặt; ngài nói: "Đây là chiếc ghế khó chịu nhất mà cha
biết!" Một dịp ngài nghe lỏm hai người phụ nữ Ý nói về vẻ bề ngoài của
mình. Họ nói ngài xấu trai; ngài quá mập, còn lỗ mũi lại quá lớn. Đức Giáo
hoàng châm chọc họ: "Là giáo hoàng không phải một cuộc thi sắc đẹp!"
Khi là Khâm sứ Tòa
thánh (Apostolic
Nuncio) tại Pháp, vị Giáo hoàng tương lai được hỏi trong một dạ
tiệc: "Thưa Đức ông, ngài có bối rối khi có những phụ nữ diện những bộ áo
để cổ trần không? Nó thường là một vấp phạm mà." Đức ông Roncalli trả lời:
"cớ vấp phạm ư? Ồ, không! Khi có một phụ nữ mặc hở cổ, các khách mời không
nhìn vào nàng. Họ nhìn vào vị Khâm sứ xem coi ông phản ứng làm
sao."
Đức Gioan XXIII nói
về Công đồng trong vài dịp khác nhau. Ngài nói khi tiến tới cửa sổ như thể muốn
mở ra: "Tôi mong hít được làn gió mát từ đó . . . Chúng ta phải rũ bỏ
những bụi bặm hoàng vương đã phủ đầy ngai tòa thánh Phêrô từ Constantin."
Những ý định của Đức Gioan rất rõ: "Chúng tôi tiên vàn muốn rằng Công đồng
phải là một hành vi nhân hậu." Sẽ không có những kết án trong Công đồng,
bởi vì ngày nay GH ưa thích "dầu xót thương hơn là cánh tay nghiêm
khắc." Khi một Hồng y trong Giáo triều nói cho vị Giáo hoàng rằng tuyệt
đối không thể mở Công Đồng vào năm 1963, ngài trả lời: "Đúng, chúng ta sẽ
khai mạc công đồng vào năm 1962!"
Đức Giáo hoàng Gioan
thú nhận rằng ngài gặp khó ngủ vào đêm sau khi công bố Công đồng. Ngài nói rằng
ngài tự nhủ như thế này: "Gioan này, tại sao lại không ngủ? Giáo hoàng hay
Thánh Thần, ai cai quản GH? Chính Thánh Thần phải không? Vậy, Gioan, hãy ngủ
đi!" Một lần, trong khóa họp thứ nhất của Công đồng, ngài khôi hài:
"Cha rất muốn Chúa hiện ra cho mình để nói khi nào Công Đồng kết thúc. Để
Công đồng bắt đầu, cha ra lệnh, nhưng để kết thúc . . ." Vào buổi chiều
tối của ngày khai mạc Công đồng năm 1962, Giáo hoàng nói cho những người Roma
tụ họp tại Quảng Trường thánh Phêrô: "Khi anh chị em trở về nhà, hãy ôm
hôn con cái của anh chị em dùm cha. Hãy nói với chúng đây là cái ôm hôn yêu dấu
từ Đức Giáo hoàng." Hẳn nhiên, dân chúng khắp thế giới dành một chỗ đặc biệt
trong lòng mình cho Đức Gioan XXIII; ngài là một người đáng yêu và nhân hậu.
Bây giờ, như vị chân phước, Đức Giáo hoàng Gioan chuyển cầu cho chúng
ta.
Suy tư. Khi GH cử hành kỷ niệm 40 năm kết thúc Công đồng (1965-2005), GH
cần lượng giá ảnh hưởng của Vatican II. Một câu hỏi thiết yếu tập trung vào
"sự tiếp nhận" Công Đồng ở Á châu. Viễn cảnh và kinh nghiệm của Công
đồng đã thay đổi và canh tân các Giáo hội địa phương tại Á châu như thế nào?
"Làn gió Thần khí" có được cảm nhận sâu xa, thay đổi ý thức, thái độ,
và lối cư xử của dân chúng không? Chúng ta đang ở đâu bốn thập niên sau khi Đức
Gioan XXIII bắt đầu chương trình canh tân, aggiornamento, của mình? Đâu là những đường lối mới
của Thần khí mà những người Công giáo Á châu chúng ta bị thách đố để phân định
và bước theo - hoàn toàn trung thành với Công đồng?
(Còn tiếp)