CÔNG ĐỒNG VATICANÔ 2 (TIẾP THEO)
MỘT KHÓE NHÌN TỔNG HỢP
(giaolyductin.net
29/10/13, 9:48 am)
[B] SECOND
MỘT KHÓE NHÌN TỔNG HỢP
R. Trisco and J. Komonchak
Bài trình bày khá
dài này mang đến một tóm lược toàn diện về Công đồng chung Vatican II. Sau một
dẫn nhập ngắn gọn, chất liệu được bày ra trong bốn phần chính: I. Những ủy ban chuẩn bị; II. Những qui luật và tiến hành; III. Những thời kỳ [Những khóa họp
Công đồng: 1962-1965]; IV.
Những công bố của công đồng.
Dẫn Nhập. Vào ngày 25 tháng Giêng, 1959, chưa đầy 100 ngày sau khi được
tuyển chọn, trong một diễn từ phác họa những đường nét lớn cho triều giáo hoàng
của mình, Đức Giáo hoàng Gioan XXIII nói cho một nhóm Hồng y tụ họp tại Nhà Thờ
Thánh Phaolô ở Ngoại Thành rằng ngài muốn làm sống lại hai hình thức cổ xưa để
phát biểu giáo lý và sắp đặt trật tự: ngài muốn triệu tập một hội nghị các Giám
mục cho địa phận Roma và một công đồng chung cho GH phổ quát. Hai biến cố sẽ
được theo sau bằng một cuộc cải cách Bộ Giáo Luật. Lời tuyên bố về một công
đồng gây ngạc nhiên cho nhiều người Công giáo. Không có công đồng chung nào
được triệu tập từ Công đồng
Trong những diễn văn
và sứ điệp khác nhau suốt năm tới, Đức Gioan XXIII đặt ra ba mục đích tổng quát cho Công đồng: (1) ngài muốn công đồng là một cơ hội canh
tân thiêng liêng và sinh động lại GH để trung thành hơn với ý định của Đức Kitô
và (2) để canh tân (aggiornamento) những thái
độ mục vụ, thói quen, và những thể chế của GH để làm chúng nên hữu hiệu hơn
trong những điều kiện thay đổi của thế giới tân tiến. Nếu hai mục tiêu này có
thể thành đạt, thì Công đồng cũng có thể (3) mãnh liệt cổ xúy khôi phục sự hiệp
nhất giữa các Kitô hữu.
I. Những Ủy ban
Chuẩn bị. Vào Chúa Nhật lễ Hiện Xuống,
ngày 17 tháng Năm, 1959, Đức Giáo hoàng thiết lập một Ủy ban tiền chuẩn bị đứng
đầu do Hồng y Tardini, với Đức ông Pericle Felici là thư ký, và gồm mười giáo
sĩ giữ những chức vụ quan trọng trong Giáo triều Roma. Trách vụ của ủy ban này
là tham khảo các giám mục của thế giới, những văn phòng của Giáo triều, và
những phân khoa thần học và giáo luật của các đại học Công giáo để nghe họ cho
ý kiến và đề xướng về nghị sự của công đồng. Họ cũng phải phác thảo những đường
nét tổng quát cho những đề tài phải được thảo luận tại Công đồng và đề xướng
những cơ quan khác nhau chuẩn bị chất liệu cho công đồng biểu quyết. Các giám
mục và những người được tham khảo khác được hoàn toàn tự do đưa ra những đề
nghị trong những lãnh vực giáo thuyết, kỷ luật, hoạt động mục vụ, và những vấn
đề đương thời. Trên 75% những người được mời đã trả lời; những trả lời của họ đầy 15 tập
sách lớn chia thành bốn bộ. Thật ý nghĩa, những đề xướng trải
rộng từ những điều cao cả đến những chuyện tầm thường và phản ánh một tầm rất
rộng gồm những viễn cảnh thần học và mục vụ; có những đề xướng chống lại bất kỳ
thay đổi nào và những đề xướng lại mong đợi Công đồng sẽ là một cơ hội để cải
cách lớn lao. Nếu phần đa các giám mục khá cẩn trọng và cụ thể (earth-bound)
trong những đề xuất của mình, thì một phần bởi vì thời hạn ấn định cho những đệ
trình của họ, và cũng một phần vì không rõ ràng gì mấy Đức Giáo hoàng Gioan
muốn Công đồng phải ra sao (là gì) và làm gì.
Với đống chất liệu
khổng lồ nhận được, ủy ban tiền chuẩn bị tìm được không dưới 9338 đề nghị; Để
dễ dàng qui chiếu, ủy ban tổ chức theo những phân chia truyền thống về thần học
tín lý và luân lý và cũng theo những sách và đề tài của Bộ Giáo Luật. Người ta
niêm phong những đề xướng nhận được và chỉ những người được chính thức can dự
vào việc chuẩn bị Công đồng mới được tham khảo mà thôi. Khi cấu trúc của sự
chuẩn bị hình thành, những chất liệu được phân chia một lần nữa, được giản lược
quyết liệt theo số lượng, và được trình bày theo hình thức những câu hỏi để học
hỏi thêm nữa.
Vào lễ Hiện Xuống,
ngày 5 tháng Sáu, 1960, Đức Gioan XXIII công bố cơ cấu của thời kỳ chuẩn bị. Mười ủy ban được thành lập để soạn thảo
những bản văn cho Công đồng xem xét: (1) về những vấn đề đức tin và luân lý (ủy
ban thần học); (2) về giám mục và sự cai quản các địa phận; (3) về kỷ luật của
giáo sĩ và dân Kitô hữu; (4) về các tu sĩ; (5) về kỷ luật các bí tích; (6) về
phụng vụ; (7) về nghiên cứu và các chủng viện; (8) về các giáo hội đông phương;
(9) về truyền giáo; (10) về việc tông đồ giáo dân. Hơn nữa, Đức Giáo hoàng
thiết lập hai văn phòng thư ký (secretariat), một dành cho những
phương tiện truyền thông và một để cổ xúy sự hiệp nhất của các Kitô hữu mà,
người ta nói, làm cho những người ngoài Công giáo có thể theo dõi công việc của
Công đồng.Một
Ủy ban Trung ương cũng
được thiết lập để giám sát và điều phối công việc của các ủy ban khác, để duyệt
lại những bản văn mà họ chuẩn bị và đệ trình chúng lên Giáo hoàng để thành nghị
sự của công đồng, và để soạn thảo những qui luật để điều hành công việc của
Công đồng.
Mười ủy ban ấy được
chủ trì do những Hồng y-đứng đầu những văn phòng tương ứng trong Giáo triều
Roma; những người trong giáo triều cũng phục vụ như các thư ký trong hầu hềt
các ủy ban ấy. Những nhân sự của các ủy ban bao gồm những thành viên và những
tham vấn viên; những người trước (thành viên) có quyền bỏ phiếu, còn những
người sau góp ý khi được hỏi đến. Ta ghi nhận, giữa những thành viên và tham
vấn viên có một số thần học gia đã từng bị xoi mói hay là những người chịu
những biện pháp kỷ luật suốt thập niên trước. Giữa họ là Yves Congar, Henri de
Lubac, Bernard Haring, và Karl Rahner. Không phụ nữ hay người
giáo dân nào được chỉ
định vào những ủy ban chuẩn bị.
Những ủy ban bố trí
làm việc dựa trên những câu hỏi được ủy ban tiền chuẩn bị đề xướng, mặc dù họ
được phép đề nghị thêm những câu hỏi khác. Công việc chuẩn bị gặp phải sự thiếu
giám sát và hầu hết các ủy ban thất bại để cộng tác vào những vấn đề chung hay
có liên hệ. Ủy ban Thần học, được Hồng y Alfredo Ottaviani đứng đầu, tăng thêm
vấn đề bằng cách nhấn mạnh rằng chỉ một mình ủy ban đó có trách nhiệm đối với những câu hỏi giáo lý mà thôi. Vì không đi vào những vấn đề
mục vụ thực tiễn, nên ủy ban này hy vọng tất cả các ủy ban khác phải đệ trình
cho mình bất kỳ và tất cả những vấn đề về giáo lý. Khi diễn đạt khác nữa về
quan điểm liên quan đến quyền tối cao của mình, Ủy ban Thần học từ chối cộng tác
với những ủy ban khác và cách riêng với Văn phòng thư ký cho sự hiệp nhất Kitô
hữu. Khi làm ngơ sự thiếu phối hợp này, người ta đồng hiểu ngầm cái bí quyết
thuộc giáo hoàng vốn được giả định vây quanh công việc của các ủy ban là cấm
nói về công việc của ủy ban mình, thậm chí với những thành viên của các ủy ban
khác.
Các ủy ban mang đến
trước Ủy ban Trung ương cả thảy 75 bản văn được chọn ra sau này, một số
được gởi trả lại cho việc cải cách giáo luật sau công đồng, một số được nối kết
với những bản văn khác, hầu cuối cùng tổng cộng có 22 lược đồ được coi là thích hợp cho công đồng
thảo luận. Những bản văn được các ủy ban mục vụ chuẩn bị nói chung rất gần sát
với thực tại; chúng đề nghị những thay đổi nhỏ trong những nguyên tắc giáo luật
và kỷ luật thôi; rất ít hiển nhiên rằng các ủy ban đã xem xét những thảo luận
nghiêm trọng về xã hội học và thần học của hoạt động mục vụ mà đang tiếp tục
xẩy ra trong ba thập niên. Một luật trừ cho bản miêu tả này là Ủy ban về Phụng
vụ thánh mà các thành viên của nó gồm nhiều học giả quan trọng nhất trong phong
trào phụng vụ; họ quyết định đảm nhận nghiên cứu nghiêm chỉnh về lịch sử và
thần học về những đề tài khác nhau mà họ đề cập và vì vậy có thể chống đỡ những
đề nghị của họ về cuộc cải cách ý nghĩa về phụng vụ bằng những luận chứng hữu
hiệu.
Ủy ban Thần học
chuẩn bị tám bản văn: một văn thức tuyên xưng đức
tin mới, muốn được dùng vào lúc khai mạc công đồng, và bẩy hiến chế: (1) về
những nguồn mạc khải, (2) về trật tự luân lý, (3) về việc bảo vệ kho tàng ký
gởi đức tin, (4) về thanh khiết, đời trinh khiết, hôn nhân và gia đình, (5) về
GH, (6) về Đức Trinh Nữ Maria, và (7) về cộng đoàn các quốc gia và trật
tự xã hội. Chung chung, những bản văn này muốn xác quyết với quyền bính cao
nhất của công đồng những định hướng và những nhấn mạnh vốn làm đặc trưng huấn
quyền của giáo hoàng suốt một thế kỷ rưỡi trước, cách riêng khi những điều này
được diễn đạt tại Vatican I, trong những văn kiện chống chủ thuyết tân đại
(modernism), Pascendi và lamentabili,
và trong thông điệp Humani generis.
Cung điệu chung của chúng rất tự vệ, nghi ngờ hầu hết những phong trào mới đây
của việc canh tân thần học trong thần học tín lý và luân lý và trong những
nghiên cứu kinh thánh, và may mắn, dửng dưng với những hàm ẩn đại kết.
Suốt thời kỳ chuẩn
bị, văn phòng Thư ký về sự Hiệp nhất Kitô hữu, được Hồng y Augustin Bea chủ
trì; ngài đại diện một khái niệm khác về điều mà công đồng có thể làm và cách
thức công đồng có thể làm. Rất sớm, văn phòng này được Đức Giáo hoàng Gioan cho
phép chuẩn bị các bản văn hầu thức tỉnh các ủy ban khác tới những chiều kích
đại kết trong những chủ đề khác nhau. Khi những nỗ lực của văn phòng này để
cộng tác với Ủy ban Thần học bị cự tuyệt, văn phòng bắt đầu chuẩn bị các bản
văn mà Đức Giáo hoàng đã nói rốt cục có thể mang tới cho chính Công đồng. Một
số trong những băn văn của văn phòng thư ký này bàn những vấn đề cũng được Ủy
ban thần học xem xét; giữa chúng là những bản văn về Lời Chúa, tư cách thành
viên trong GH, quyền bính phẩm trật, và tự do tôn giáo. Những bản văn này được
viết nhằm vượt thắng những hiểu lầm về giáo lý công giáo về phía những Kitô hữu
khác, nhằm khai phá những khóe nhìn của họ với sự đồng cảm, và nhằm đề xướng
những cách hiểu và xác quyết giáo lý Kitô hữu mà đi xa hơn những ngõ cụt luận
chiến.
Tất cả những bản văn
này do các ủy ban chuẩn bị viết bị đem ra duyệt xét trước Ủy Ban Trung Ương,
gồm những Hồng y và Tổng giám mục từ khắp thế giới và gặp trong sáu cuộc họp
giữa ngày 12 tháng Sáu, 1961 và ngày 20 tháng Sáu, 1962.
Những thành viên của ủy ban này miễn cưỡng không phê bình những bản văn được
chuẩn bị và cống hiến những sửa đổi. Nếu người ta biết phẩm chất và sự mạnh mẽ
của những cuộc thảo luận trong Ủy Ban Trung Ương, công chúng có thể dự liệu
trước bi kịch mở ra khi một vài bản văn này được đưa ra diễn đàn công đồng.
Người ta đề xướng những phê bình và sửa đổi; tất cả được quy về cho một tiểu
ban; rồi công việc của tiểu ban này lại phải được toàn thể Ủy Ban Trung Ương
duyệt lại; thời giờ không cho phép bước cuối cùng này và như vậy bản văn đưa ra
trước Công đồng như được thay đổi hay không được thay đổi do tiểu ban đó.
II. Những Qui Luật
và Bước tiến hành. Nhờ vào motu proprio [tự sắc] Appropinquante Concilio(ngày
6 tháng Tám, 1962), Đức Gioan XXIII đặt ra những quy luật điều hành bước sắp
đặt của Công đồng. Đối với việc điều khiển những hội nghị chung, mà trong đó
phải thảo luận và bỏ phiếu những sắc lệnh được đề xướng, ngài thiết lập một ban
gồm 10 chủ tịch, tất cả đều là Hồng y; họ
phải giám sát cuộc thảo luận và gìn giữ kỷ luật, mỗi ngày một người chủ tọa.
Ngài cũng thiết lập 10ủy ban
vốn là như nhau với những ủy ban trong giai đoạn chuẩn bị, mặc dù ủy ban đầu
tiên nay được gọi là Ủy ban về Học thuyết Đức tin và Luân lý, và ủy ban cuối
cùng nay phụ trách những vấn đề không chỉ thuộc về tông đồ giáo dân nhưng còn
cả các phương tiện đại chúng và giải trí. Văn Phòng Thư ký cổ xúy Hiệp Nhất
Kitô hữu, Ủy ban kỹ thuật-tổ chức, và Văn phòng thư ký tài chánh được mang
sang, và vào phút chót Giáo hoàng thêm một Văn phòng về những việc lạ thường
vốn sẽ xem xét những vấn nạn mới được các nghị phụ đề xướng. Ngoài vị chủ tịch
được Đức Giáo hoàng bổ nhiệm, mỗi ủy ban công đồng gồm 24 thành viên, hai phần
ba được các nghị phụ chọn và phần còn lại do Giáo hoàng tuyển lựa; điều này
biểu thị một sự thay đổi với Vaitan I, ở đó tất cả các thành viên của các ủy
ban công đồng đều được hội nghị chọn lựa. Tiếng Latinh được dùng trong những
khóa họp công cộng và những hội nghị chung. Những diễn từ của từng nghị phụ
không được kéo dài quá 10 phút. Cần phải được đa số gồm hai phần
ba số người hiện diện phê chuẩn cho mọi vấn đề. Một vài điều khoản này sau này
sẽ được thay đổi theo ánh sáng kinh nghiệm của công đồng.
Vào ngày 23 tháng
Bẩy, 1962, Văn phòng Tổng thư ký của Công đồng, với Tổng Giám Mục Pericle
Felici tiếp tục đứng đầu, gởi đến các nghị phụ tập sách thứ nhất chứa đựng
những bản văn sẽ được thảo luận vào khóa họp thứ nhất của Vatican II. Nó chứa
đựng những bản nháp sau đây: (1) về những hiến chế tín lý về các nguồn mạc
khải. (2) về việc bảo vệ kho Đức tin, (3) về trật tự luân lý Kitô hữu, (4) về
đức thanh khiết, hôn nhân, gia đình và khiết tịnh, (5) về phụng vụ thánh, (6)
về phương tiện đại chúng, và (7) về sự hiệp nhất của GH (bàn đến những GH công
giáo Đông phương). Người ta không được biết tại sao từ đống chất liệu được chuẩn
bị bẩy bản văn này được chọn cho nghị sự đầu tiên của công đồng. Người ta giải
thích ở đây không có bản nháp về một hiến chế tín lý về GH và về Nữ Trinh Maria
bằng sự kiện rằng những duyệt xét cuối cùng và biên soạn hai bản văn này không
được hoàn tất khi Công đồng khai mạc. Một tập sách thứ hai sẽ được phân phát
cho các nghị phụ chỉ vào đầu tháng Mười Một.
Mục đích đại kết của
công đồng được phản ánh bằng những lời mời được gởi tới những GH và cộng đoàn
Kitô hữu lớn. Những đại diện của họ được phép tham dự không chỉ những khóa họp
công khai song cả những hội nghị chung (khoáng đại); tuy thế, họ không có quyền
bỏ phiếu và phát biểu; dẫu sao, họ có thể góp quan điểm cho những ủy ban qua
Văn phòng về Hiệp Nhất Kitô hữu và qua những tiếp xúc cá nhân với các nghị phụ.
Thật là thất vọng lớn khi phần nhiều các GH chính thống không được đại diện
trong khóa họp đầu tiên, nhưng một quyết định được thực hiện ở cuộc họp liên
các GH chính thống ở Rhodes năm 1961 đã quyết định một trả lời chung. Tuy
nhiên, vào chính ngày trước công đồng, tòa Thượng Phụ Moscow đã "phá
rào" và quyết định gởi đại biểu. Những đại biểu của Thương Phụ
Constantinople không tham dự Công đồng cho tới khóa họp thứ ba. Đại diện Đại
kết tại công đồng gia tăng từng năm; 17 nhóm Chính Thống và Tin Lành được đại
biểu bằng 35 quan sát viên và khách mời ở khóa thứ nhất, trong khi ở khóa thứ
tư có tới 93 đại biểu cho 28 nhóm.
Lời công bố Công
đồng và những năm chuẩn bị tạo nên mối quan tâm rộng khắp cả trong lẫn ngoài GH
công giáo. Một khối lượng những khảo sát và nghiên cứu lịch sử về 20 công đồng
trước kia rộ lên mạnh mẽ, cùng với những công trình biên khảo về những đề tài
có thể được thảo luận tại Vatican II, đặc biệt trong những lãnh vực phụng vụ và
GH học. Những khảo sát về những ước ao và mong mỏi của những người Công giáo
với Công đồng được xuất bản, và một vài tác giả xuất bản những đề xướng cho một
nghị sự cải cách.
Mùa xuân 1962, một
vài thành viên quan trọng của Ủy Ban Trung Ương, giữa họ là các hồng y Suenens
(Maline-Brussels) và Leger (Montreal) và Tổng Giám mục Dennis Hurley (Durban,
South Africa) [xem bài viết liên quan đến cuộc phỏng vấn ngài năm 2000], viết
cho Đức Giáo hoàng Gioan và diễn đạt họ lo rằng những mục tiêu mục vụ và đại
kết mà ngài phác họa cho Công đồng có thể không được đáp ứng dựa trên những bản
văn của Ủy Ban Trung Ương đã duyệt xét. Những lo sợ như thế lan truyền khi đặc
tính của những bản văn chính thức trở nên được biết đến rộng rãi hơn. Có một sự
hiểu biết nào đó rằng Công đồng, mà người ta không mong kéo dài hơn hai khóa,
sẽ chấp nhận mau chóng những văn kiện được đặt trước các nghị phụ. Khi các giám
mục bắt đầu tụ họp tại Roma vào tuần thứ hai của tháng Mười, 1962, những lo sợ
và hy vọng đối nghịch nhau chia rẽ họ.
III. Những Thời kỳ. Công đồng Vatican II nhóm họp thành bốn thời kỳ hay bốn khóa họp: từ 11 tháng Mười đến mồng 8
tháng Mười Hai, 1962; từ 29 tháng Chín tới mồng 4 tháng Mười Hai, 1963; từ 14
tháng Chín tới 21 tháng Mười Một, 1964; và từ 14 tháng Chín đến mồng 8 tháng
Mười Hai, 1965.
Suốt bốn năm của
Vatican II, 3058 nghị phụ tham gia, cho đến nay là con
số lớn nhất trong lịch sử của các công đồng chung. Ngoài 129 bề trên tổng quyền
của những dòng tu giáo sĩ, con số của họ và phần trăm của những người hiện
diện, được xếp loại theo lục địa là: Âu châu 1060 (36%); Nam Mỹ 531 (18%); Bắc
Mỹ 416) (14%); Á châu 408 (14%); Phi châu 351(12%); Trung Mỹ 89 (3%); và Châu
Đại dương 74 (3%). Sự tham gia của những người có quyền tham dự thay đổi. Mức
cao nhất ở vào khóa một (84.34%) và khóa bốn (84.88%); 82.34% tham dự khóa hai
và 80.23% khóa ba. Những con số này lẽ ra cao hơn nữa nếu nhiều giám mục từ các
quốc gia dưới sự cai trị của Công Sản được phép tham dự.
A. Thời kỳ thứ nhất. Thời kỳ sâu sắc nhất trong bốn thời kỳ của Công đồng khai mạc với
nghi thức long trọng được các đại biểu tham dự của 86 chính phủ và cơ quan quốc
tế. Trong diễn từ khai mạc Đức Giáo hoàng Gioan XXIII không đồng ý với
"những ngôn sứ bi quan luôn tiên báo tai ương"; trái lại, ngài khuyên
nhủ các nghị phụ xem xét lại, không thể coi xem TC không ban những cơ hội mới
cho GH hay sao. Ngài muốn Công đồng không chỉ bảo vệ nhưng còn xem cách nào để
hiểu và trình bày gia sản đức tin cho người đương thời; vì mục đích này ngài
phân biệt giữa bản chất đức tin và cách thức trong đó đức tin được kết nối
(articulate); ngài thúc đẩy một mục tiêu mục vụ và sử dụng những phương pháp
khảo cứu và những hình thức văn chương của tư duy tân tiến. Đối diện với những
sai lầm ngài khuyên các nghị phụ tránh kết án; thay vào đó, minh chứng giáo lý
của Giáo hội có giá trị tích cực. Ngài nhấn mạnh đến bổn phận phải làm việc
tích cực để hoàn thành mầu nhiệm hiệp nhất với những Kitô hữu khác cũng như với
những người ngoài Kitô giáo. Đối với những người quen thuộc với chất liệu chuẩn
bị, có vẻ Đức Giáo hoàng tuyên bố ngài không mãn nguyện với những lược đồ chính
thức và đề xướng rằng Công đồng phải thừa hưởng một lối tiếp cận khác [x. W.
Abbott, ed., The Documents of Vatican
II, diễn từ khai mạc của Đức Gioan XXIII, pp. 710-719.]
Hội nghị chung đầu
tiên (13 tháng
Mười, 1962) có những hệ quả vĩnh viễn đối với Công đồng. Bởi lẽ,
thay vì tiến hành ngay, như đã được hoạch định, để chọn 16 thành viên cho mỗi
ủy ban với những danh sách gồm những thành viên và tham khảo viên của những ủy
ban chuẩn bị đã chết rồi để hướng dẫn mình, thì theo đề nghị của Hồng y Achille
Liénart (Lille) và của Hồng y Josef Frings (Cologne), Công đồng đã ngừng họp
sau một ít phút để cho phép có nhiều giờ hơn để tham khảo giữa những giám mục
của nhiều quốc gia hay vùng khác nhau. Do vậy, những hội đồng giám mục quốc gia
hay vùng quyết định để tiến cử một hay hai ứng viên của mình cho mỗi ủy ban.
Trong hội nghị chung lần thứ hai (16 tháng Mười), trước khi các nghị phụ bỏ
thăm, một danh sách hỗn hợp của tất cả những ngưởi được chỉ định. Bằng cách này
các ủy ban trở nên hầu như đại diện của toàn hội nghị và không chỉ vĩnh viễn
hóa não trạng của các ủy ban chuẩn bị mà đã phần lớn được thống trị do những
người của Giáo triều và đã có thể được kỳ vọng chỉ là bảo vệ những bản văn mà
nhiều nghị phụ coi là không thể chấp nhận được. Tuy nhiên, tính nối tiếp được
đảm bảo bởi Giáo hoàng chỉ định một số Hồng y trong giáo triều vốn đã từng chủ
sự những ủy ban chuẩn bị tương ứng làm chủ tịch của những ủy ban công đồng. Sự
trì hoãn những cuộc bầu cử này là một tín hiệu đầu tiên rằng các nghị phụ sẽ
lãnh trách nhiệm của mình đối với Công đồng, và những tham vấn được đảm nhận
thiết lập tầm quan trọng của sự cộng tác trong và giữa những hội đồng giám mục
đối với Công đồng.
Trong thời kỳ đầu
tiên, Công đồng thảo luận những lược đồ về phụng vụ, về những nguồn mạc khải,
về phương tiện đại chúng, về sự hiệp nhất của GH, và về GH. Những cuộc thảo
luận sôi nổi xẩy ra về những đề xuất của lược đồ phụng vụ cho phép dùng nhiều
hơn những ngôn ngữ mẹ đẻ, thực hành việc hiệp lễ dưới hai hình thức cũng như
đồng tế nhiều hơn, và cho những hội đồng giám mục thẩm quyền lớn lao hơn trong
những vấn đề phụng vụ. Cuộc tranh cãi lâu dài đi tới kết thúc bằng một cuộc bỏ
phiếu về những nguyên lý tổng quát được đặt ra trong bản nháp. Đa số áp đảo của
các nghị phụ (2162 thuận trước 46 chống) cho thấy chính họ sẵn sàng khởi sự
cuộc cải cách Giáo hội có ý nghĩa.
Cuộc tranh cãi quan
trọng thứ hai liên quan đến lược đồ về những nguồn mạc khải vốn tập trung vào
hai câu hỏi: mối tương quan giữa Kinh thánh và Truyền thống cũng như giá trị
của những phương pháp phê bình lịch sử tân thời trong việc giải thích Kinh
thánh. Bản văn đó bị phê bình mạnh mẽ vì cung điệu tiêu cực của nó cũng như
thiếu bén nhạy về đại kết và mục vụ, vì việc làm lắng dịu một cách không trưởng
thành vấn đề tranh cãi hợp pháp xem có phải tất cả những chân lý mạc khải được
tìm thấy trong Kinh thánh hay không và do việc nhìn xem với sự nghi ngờ (soi
mói) như thế những vấn đề được phát hiện do giới học giả kinh thánh tân thời
vốn sẽ ngăn cản bất kỳ sự đóng góp hiệu quả nào của Công giáo. Những người bảo
vệ bản văn này lý luận rằng vấn đề tín lý đã được ổn định tại Công đồng Trentô
và do giáo huấn chung sau đó; họ lý luận rằng đức tin bị nguy hiểm do những
sách và bài viết nghi vấn sử tính của Cựu ước và Tân ước. Một cuộc bỏ phiếu xẩy
ra xem nên gián đoạn cuộc tranh cãi hay tiếp tục nó với những thảo luận về từng
chương. Mặc dù cuộc bỏ phiếu không tiếp tục (1368 trên 822) không đạt tới đa số
hai phần ba cần thiết, thì để tránh cuộc tranh cãi kéo dài có lẽ vô bổ, Đức
Giáo hoàng đã dừng cuộc thảo luận và gửi bản văn lại cho một ủy bản đặc biệt để
viết lại dưới sự chủ tọa liên kết của các Hồng y Ottaviani và Bea. Quá rõ là
một đa số đáng kể của các nghị phụ muốn soạn thảo những bản văn khác có hướng
chiều và mục đích khác với những gì được Ủy Ban Thần học soạn thảo. Giáo hoàng
đã ủng hộ họ.
Bởi chưng Công đồng
đã minh chứng rõ ràng những quan tâm mục vụ và giáo thuyết, nên phần còn lại
của giai đoạn một cách nào đó hạ nhiệt. Vào cuối [giai đoạn I] một ít ngày được
dành cho một cuộc thảo luận sơ khởi về lược đồ về GH, được chung chung coi là
công việc chính và chủ đề cốt lõi của toàn Công đồng. Bản văn chính thức chịu
cả một loạt những phàn nàn vốn nay đã thành quen thuộc, và thậm chí không có
một sự bỏ phiếu chính thức, người ta cũng hiểu rằng bản văn sẽ phải duyệt lại
cách cốt yếu. Thực thế, điều đó minh chứng số phận của tất cả mọi lược đồ đã
được chuẩn bị là thế. Vào ngày 6 tháng Mười Hai, 1962, được loan báo rằng Đức
Giáo hoàng chỉ định một ủy ban điều phối, đứng đầu là Hồng y Amleto Cicogna;
ngài có trách vụ duyệt lại những bản văn nháp được chuẩn bị cho Công
đồng, và theo ánh sáng của những mục tiêu của công đồng như được Giáo hoàng
Gioan xác quyết và được phê duyệt bởi những đầu phiếu của Công đồng, để quyết
định cái gì phải được giữ lại trong nghị sự của công đồng, cái gì có thể được
để lại cho những quyết định hậu-công đồng, và cái gì thay đổi trong nội dung,
phương pháp, hay giọng điệu cần thiết phải được thực hiện. "Thứ siêu ủy
ban" này mau chóng giản lược những bản văn phải được giữ lại là 17 [lược đồ], lược đồ cuối cùng của chúng
là một lược đồ mới, được Hồng y Suenens bảo vệ cách đặc biệt, để bàn đến sự
hiện diện của GH trong thế giới tân tiến. Suốt thời gian nghỉ gián đoạn ở giữa,
những ủy ban công đồng đảm trách điều được gọi là "một cuộc chuẩn bị thứ
hai" của Vatican II.
Thời kỳ thứ nhất
chấm dứt mà không phê chuẩn một lược đồ nào, nhưng những quyết định được làm
tại công đồng quyết định hướng chiều của toàn thể dòng Vatican II. Những người
và mục đích vốn đã phần lớn thống trị việc chuẩn bị Công đồng đã được thay thế;
những nhà lãnh đạo mới nay theo đuổi những mục tiêu phần lớn bị lãng quên suốt
thời gian chuẩn bị.
Với cái chết của Đức
Gioan XXIII vào ngày mồng 3 tháng Sáu, 1963,
Công đồng và tất cả những hoạt động liên quan đến công đồng tự động bị treo
lại. Nhưng, ngày sau khi được tuyển chọn (ngày 22 tháng Sáu), Đức Giáo hoàng
Phaolô VI hứa rằng Công đồng sẽ lại tiếp tục và theo đuổi những mục tiêu được
vị tiền nhiệm của mình đặt ra. Năm ngày sau ngài xác định ngày khai mạc thời kỳ
thứ hai vào ngày 29 tháng Chín.
B. Thời Kỳ thứ hai. Trước khi các nghị phụ được triệu tập lại, Đức Phaolô VI phát hành
một bản hiệu đính về Ordo Concilii ...
celebrandi hầu sửa
chữa một số khuyết điểm trong tổ chức và tiến hành được nhìn ra trong thời kỳ
thứ nhất và giải quyết những lao nhọc và đảm bảo sự tự do của những người tham
dự. Ngài bỏ đi Văn Phòng Thư Ký (Secretariat) về những vụ việc phi thường và
khuyếch đại tới 12 thành viên của ban chủ tịch. Họ có bổn
phẩn là coi xem những quy luật được tuân giữ đúng đắn và giải quyết bất kỳ
những nghi ngờ cuối cùng nào và loại đi những khó khăn. Ngài cũng chỉ định bốn
Hồng y Agagianian, Chủ tịch (Prefect) của Bộ Truyền bá Đức tin; Giacomo Lercaro
(Bologna); Julius Dopfner (Munich và Freising); và Leo Joseph Suenens
(Malines-Brussels) làm điều hành viên, để thay phiên hướng dẫn những cuộc thảo
luận trong những phiên họp chung. Đức Giáo hoàng cũng làm một vài thay đổi khác
trong những qui luật tiến hành, chẳng hạn giảm xuống tới 50 phần trăm cộng một
đa số cần thiết để chống lại hay trì hoãn một lược đồ hay một phần của lược đồ,
và cho phép một nghị phụ nói nhân danh những nghị phụ khác.
Để cải tiến và trải
rộng những dịch vụ thông tin, mà về điều ấy đã có nhiều phàn nàn suốt thời kỳ thứ
nhất, Đức Phaolô VI chỉ định một Ủy Ban Báo Chí (Press Commission) được Tổng
Giám Mục Martin J. O'Connor lãnh đạo. Giáo hoàng gia tăng con số của những quan
sát viên không Công giáo được mời tới Công đồng, và hơn 31 người hiện diện ở thời kỳ thứ hai so với
thời kỳ thứ nhất. Đức Gioan XXIII đã mời một người giáo dân Công giáo, Jean
Guitton, tới phần sau của thời kỳ thứ nhất; Đức Phaolô VI cung cấp một số dự
thính viên giáo dân tham dự trong những phiên họp chung và xin họ giúp đỡ các
ủy viên; thêm vào Guitton, 10 giáo dân khác từ những quốc gia khác nhau, mà
phần lớn đại diện những cơ quan Công giáo quốc tế, được chào đón ở đầu thời kỳ
mới ấy.
Vào khóa họp chung
đã khai mạc thời kỳ thứ hai vào ngày 29 tháng Chín, 1963, Đức Phaolô VI đọc một
diễn từ đáng nhớ trong đó ngài nhấn mạnh bản chất mục vụ của phiên họp và biệt
định bốn mục tiêu của nó: (1) xác định đầy đủ hơn
ý niệm GH, cách riêng về vị trí của các giám mục; (2) canh tân GH; (3) cổ võ
khôi phục sự hiệp nhất giữa hết thảy các Kitô hữu [ngài xin những người không
phải Công giáo tha thứ cho những người Công giáo vì lỗi của họ trong những cuộc
ly khai và bỏ qua những tổn hại được làm cho những người Công giáo]; và (4)
khởi sự cuộc đối thoại với thế giới đương thời.
Những thảo luận của
công đồng bắt đầu với lược đồ đã được hiệu đính về GH. Cuộc tranh cãi sôi nổi
nảy sinh từ cuộc thảo luận về tính tập đoàn của các giám mục và mối tương quan
của nó với quyền tối thượng của Giáo hoàng đã được định tín tại
Cũng về lược đồ GH,
một sự phân rẽ nữa giữa các nghị phụ xuất hiện về câu hỏi xem lược đồ về Đức Nữ
Trinh Maria nên là một bản văn riêng hay được tháp vào trong lược đồ GH. Sau
một cuộc tranh cãi mạnh mẽ, câu hỏi phải được bỏ phiếu vào ngày 29 tháng Mười
và bằng số chênh lệch suýt soát nhất trong tất cả những nghị quyết (1114 với
1074), hội nghị quyết định tháp nhập nó vào trong hiến chế về
GH.
Trong cuộc thảo luận
về lược đồ về các giám mục và cai quản địa phận (ngày 5-15 tháng Mười Một), một
trong những đối kháng sâu sắc hiếm hoi của Công đồng xẩy ra khi Hồng y Frings
thẳng thắn phê bình những phương pháp của Tòa Thánh; Hồng y Ottaviani, thư ký
của văn kiện, kịch liệt bảo vệ chúng. Ba chương đầu của lược đồ về đại kết được
thảo luận (18 tháng Mười Một đến mồng 2 tháng Mười Hai) và được phê chuẩn với
điều kiện duyệt lại, nhưng, nhiều nghị phụ sửng sốt, mọi hoạt động trên chương
bốn (về thái độ của GH đối với những người ngoài Kitô hữu và cách riêng với
người Do thái) và chương năm (về tự do tôn giáo) được hoãn lại tới thời kỳ thứ
ba, được vịn vào lý do thiếu giờ xem xét cách chín chắn.
Ngày 21 tháng Mười
Một, Đức Giáo hoàng công bố rằng số thành viên của mỗi ủy ban sẽ được tăng lên
30. Sau khi những hội đồng giám mục đề cử những ứng viên, các nghị phụ lại lựa
chọn phần lớn hơn của những thành viên mới vào ngày 28 tháng Mười Một, và Giáo
hoàng chỉ định phần còn lại. Các ủy ban lựa chọn phó chủ tịch và thư ký mới.
Mục đích được công khai nhìn nhận của những thay đổi này là để giải quyết những
lao nhọc của các ủy ban, nhưng dường như chúng cũng nhằm giúp mang một số ủy
ban ngoan cố vào trong sự hòa hợp lớn lao hơn với những ước muốn của phần đa
công đồng.
Trong nghi thức kỷ
niệm ngày kết thúc Công đồng Trentô (mồng 3 tháng Mười Hai) Đức Phaolô VI cho
mọi người biết motu proprio (tự sắc)
Pastorale Munus của
mình (30 tháng Mười Một), trong đó ngài hoặc chấp nhận hoặc cống bố khôi phục
(ngôn ngữ của ngài hàm hồ) cho các giám mục một vài năng quyền (faculties) và
đặc ân, nhiều điều trong đó đã được đề xướng trong một phụ lục vào lược đồ về
giám mục và việc cai quản địa phận. Theo nhiều nghị phụ và quan sát viên, đặc
tính tương đối không quan trọng của nhiều trong những khả năng và đặc ân này
nhấn mạnh tới mức độ mà chức giám mục đã có trong quá khứ trở nên lệ thuộc vào
quyền giáo hoàng.
Mồng 4 tháng Mười
Hai, khóa họp công khai kết thúc của thời kỳ thứ hai được tiến hành. Các nghị
phụ nhất định thông qua hiến chế về Phụng vụ bằng cuộc bỏ phiếu gồm 2147 thuận
đối với 4 chống và sắc lệnh về những phương tiện truyền thông bằng cuộc bỏ
phiếu gồm 1980 thuận đối với 164 chống. Chống lại sắc lệnh sau, sự chống đối
được nêu lên vào phút chót trong nội bộ rằng nó không đáp lại kỳ vọng của các
Kitô hữu và sẽ làm tổn thương thẩm quyền của Công đồng; cuộc bỏ phiếu chung cục
trong một hội nghị chung vào ngày 25 tháng Mười Một đã thấy 500 giám mục bỏ
phiếu chống lại nó. Đang khi sử dụng một công thức nhấn mạnh đến sự hiệp
nhất của ngài với các nghị phục công đồng khác, Đức Giáo hoàng phê chuẩn
và công bố hai bản văn ấy; đấy là hai bản văn đầu tiên trong những văn kiện
chung cục của Công đồng. Vào ngày 25 tháng Giêng, 1964 ngài phát hành motu prorpio Sacram Liturgiam nhờ đó ngài thiết lập một ủy ban để
thực thi hiến chế phụng vụ.
Trong diễn văn kết
thúc Đức Phaolô VI cám ơn những nghị phụ đã đóng góp cho những phí tổn của Công
đồng hay đã giúp đỡ những anh em thiếu thốn của mình, ghi nhận rằng Công đồng
đã được ghi dấu bằng sự lao nhọc cần cù và tự do diễn đạt, diễn tả hy vọng rằng
công đồng có thể hoàn thành công việc của mình trong một thời kỳ thứ ba và loan
báo ngài sắp hành hương sắp tới tới Đất Thánh.
Suốt thời gian gián
đoạn giữa những thời kỳ hai và ba, các nghị phụ được mời gọi để đệ trình những
phê bình về công việc còn dang dở, và với sự trợ giúp của sự bản thảo này các
ủy ban tiếp tục duyệt lại những lược đồ. Theo hướng của Ủy ban Điều phối và hợp
với những ước muốn của Giáo hoàng, họ giản lược một vài đề tài, nghĩa là, những
đề tài về linh mục, tu sĩ, giáo dục vào đời sống linh mục, hoạt động truyền
giáo, hôn nhân và giáo dục công giáo, vào một loạt những nguyên tắc ngắn gọn và
căn bản mà các nghị phụ được kỳ vọng để mau chóng và dễ dàng đồng ý với chúng,
và không có thảo luận công khai, trong thời kỳ thứ ba; sự trau chuốt đầy đủ hơn
và sự thực hiện những nguyên tắc này có thể được dành cho những cơ quan hậu
công đồng. Sự giản lược nghị sự công đồng này, được biết đến như "kế hoạch
Dopfner", nhằm để đảm bảo rằng Công đồng sẽ kết thúc công việc của mình
với khóa họp thứ ba; và để đẩy mạnh mục đích này, người ta cũng thực hiện những
thay đổi trong cách tiến hành của công đồng để ngăn cản những lập lại và xúc
tiến những quyết định.
Ngay trước khi thời
kỳ thứ ba được khai mạc, Giáo hoàng công bố rằng những phụ nữ nay gia nhập
những giáo dân như những dự thính viên của Công đồng. Giữa con số ủy viên-quan
sát viên gia tăng, lần đầu tiên, là những đại biểu của tòa Thượng Phụ
Constantinople.
C. Thời kỳ thứ ba. Đức Giáo hoàng Phaolô khai mạc thời kỳ thứ ba vào ngày 14 tháng
Chín, 1964, với một khóa họp công cộng ở đó ngài dâng lễ đồng tế với 24 nghị
phụ, một diễn tả đầu tiên của công đồng về những cải cách cụ thể được phê chuẩn
trong hiến thế về phụng vụ vào cuối thời kỳ hai. Những cuộc thảo luận của công
đồng bắt đầu với những chương của lược đồ về GH chưa được phê chuẩn nói chung
và rồi với những bỏ phiếu tiếp theo sau trên tám chương như đã được sửa chữa.
Trong cuộc thảo luận về Đức Nữ Trinh Maria, cuộc tranh cãi tập trung vào việc
có dành cho ngài tước hiệu "Đấng Trung Gian" (Mediatrix)
và "Mẹ GH" hay không. Sự quan tâm rất lớn dành để bỏ phiếu chương ba,
về sự thiết lập phẩm trật của GH với sự qui chiếu đặc biệt đến các giám mục.
Cuộc chiến về mối tương quan giữa quyền tối thượng của Giáo hoàng và giám mục
đoàn đã không trở nên kém dữ dội, và thực sự, vào chính ngày áp của thời kỳ thứ
ba, Đức Phaolô VI đã nhận được một ghi nhận kín từ những Hồng y xuất chúng và
những vị lãnh đạo của những dòng tu xin ngài không cho phép giáo lý của chương
đó được bỏ phiếu và rất không tinh tế hàm ý rằng nếu ngài làm thế, ngài sẽ có
tội lãng phí quyền bính của tác vụ ngài. Sau bốn tường trình chính thức về
chương đó được đọc cho hội nghị, cuộc đầu phiếu tiến hành, và về những vấn đề
lớn đang bàn cãi những lá phiếu đã tán thành vượt bực.
Tuy nhiên, những
cuộc thảo luận tiếp theo về lược đồ về tác vụ mục vụ của giám mục, mà bước tiến
hành của nó bị cản trở bởi cần phải đợi những kết quả của việc bỏ phiếu về lược
đồ về GH. Những lược đồ về sự tự do tôn giáo và về những người Do thái, mà
nguyên thủy đã thiết thân với lược đồ về đại kết, nay phải trở thành những văn
kiện riêng biệt; cuộc tranh cãi về chúng thật mạnh mẽ và được ghi dấu bởi những
quan tâm thần học lẫn chính trị. Bản văn về tự do tôn giáo bị phê bình vì tách
khỏi sự nhấn mạnh truyền thống của GH về những quyền độc nhất của tôn giáo chân
thật; bản văn được bảo vệ là phản ánh sự phát triển của những thực tại chính
trị, kính trọng phẩm giá và tự do của nhân vị, và một điều kiện tiên quyết
(prerequisite) cho bất kỳ cuộc đối thoại đại kết hay liên tôn nghiêm chỉnh nào.
Lược đồ về mối tương quan của GH với người Do thái tiếp tục bị phê bình bởi vì
những hệ quả chính trị mà người ta sợ nó sẽ có đối với những Kitô hữu tại Trung
Đông. Một bản văn được tu sửa (hiệu đính) về mạc khải của TC cũng được thảo
luận như một lược đồ về việc tông đồ giáo dân. Đầu tháng Mười lược đồ được hiệu
đính về đại kết được đưa ra trong một loại các cuộc đầu phiếu và được phê chuẩn.
Sự đối nghịch với
chương trình Dopfner và một kết thúc sớm của Công đồng trở nên trong những tuần
đầu của thời kỳ thứ ba, và nó tỏ lộ chính mình khi những lược đồ được giản lược
cách ấn tượng và được ta gọi là "những lược đồ nhỏ" đưa ra trước các
nghị phụ. Vào ngày 12 tháng Mười một lược đồ được hiệu đính về 12 đề xướng
"về đời sống và tác vụ linh mục" được mang ra trước Công đồng; nó bị
tấn công do nhiều nghị phụ là không thích hợp, hời hợt, tẻ nhạt, và chán ngán;
với số phiếu 930 trên 1199 nó được gởilại cho ủy ban thẩm quyền để viết lại
hoàn toàn. Cuộc thảo luận về lược đồ hoạt động truyền giáo của GH được chính
Đức Phaolô VI sáng kiến; nhưng dù ngài xét nó thích đáng, nhiều phát ngôn viên
thấy nó không thỏa mãn bởi vì tính chất ngắn gọn và sơ lược (skeletal) của nó.
Do đề xướng của ủy ban, các nghị phụ bỏ phiếu 1601 trước 311 gởi nó lại để viết
lại hoàn toàn. Lược đồ của 19 đề xướng về sự canh tân đời sống tu trì cũng bị
phê bình song được chấp nhận bởi một đa số suýt soát (1155 trước 882) với điều
kiện nó được thay đổi rộng rãi để lưu tâm tới hàng ngàn nghi ngại (modi) được
diễn đạt. Lược đồ của những 22 đề nghị về giáo dục cho đời sống linh mục được
tiếp nhận cách tán thưởng hơn và được thừa nhận cách cốt yếu (substantially).
Lược đồ về giáo dục Kitô hữu, được khai triển từ những lược đồ không thích hợp
trước kia về những đề xướng về các trường Công giáo, đã cốt yếu được phê chuẩn
mặc dù 419 phiếu chống. Một tài liệu ngắn (votum) về bí tích hôn nhân, dành để
hướng dẫn ủy ban cho việc duyệt xét Bộ Giáo Luật được thảo luận, và bằng đầu
phiếu các nghị phụ chấp nhận đề nghị của các điều hành viên là đệ trình lược đồ
cho Đức Giáo hoàng hành động theo cuộc họp hai ngày của họ.
Công đồng cũng thảo
luận lược đồ về các GH Công giáo Đông phương và lược đồ được mong đợi từ lâu là
một hiến chế về GH trong thế giới ngày nay, thông thường được gọi là Lược đồ 13 từ số chỗ đứng của nó theo nghị sự làm
việc. Cuộc thảo luận về lược đồ sau được tập trung vào phương pháp luận của lược đồ, vào việc nó có phân biệt
và liên hệ thích đáng với những lãnh vực của tự nhiên và siêu nhiên hay không,
về sự thích đáng của một công đồng bàn những vấn đề rất bất tất được thảo luận
trong những phụ lục của lược đồ đó. Các nghị phụ được khuyên phải tránh đề tài
về ngừa thai nhân tạo; Đức Giáo hoàng phải dành việc ấy cho một nhóm đặc biệt
gồm những chuyên viên giáo sĩ và giáo dân nghiên cứu và cho phán quyết chung
cục của chính ngài.
Bốn biến cố trong
những ngày cuối cùng của thời kỳ thứ ba được tiếp nhận một cách rất nghèo nàn
do số đáng kể của những nghị phụ đến nỗi họ nói về "tuần lễ đen." Bởi
vì một thiểu số khăng khăng trong những chống đối của mình đối vói chương ba
của lược đồ về GH, Đức Giáo hoàng ra lệnh rằng "một ghi chú cắt
nghĩa" phải được đặt trước để giải thích về những duyệt xét cuối cùng của
Ủy Ban Tín Lý; được soạn thảo để làm dịu đi những nỗi sợ của nhóm thiểu số, bản
văn này được công bố để cung cấp lời giải thích có thẩm quyền về giáo lý được
chứa đựng trong chương ba. Mặc dù Công đồng không bao giờ được cho cơ hội để
thảo luận hay phê chuẩn ghi chú này, công đồng thành công trong mục đích của
mình. Trong một cuộc bỏ phiếu vào ngày 17 tháng Mười Một chỉ có 47 trên 2146
nghị phụ chống đối bản văn.
Vào ngày 20 tháng
Mười Một, bản văn được hiệu đính về mối liên hệ của GH với những tôn giáo không
phải Kitô giáo được Công đồng phê chuẩn với sự dự liệu vốn đề nghị những sửa
chữa cần phải lưu ý đến. Lược đồ được duyệt xét về tự do tôn giáo chịu một định
mệnh khác. Nó được phân phát cho các nghị phụ vào ngày 17 tháng Mười Một và,
theo quyết định của những điều hành viên, phải được bỏ phiếu vào hai ngày sau.
Vì lược đồ mới khác một cách đáng kể trong cấu trúc, độ dài, và lý luận từ bản
văn được thảo luận trước kia trong thời kỳ ấy, một nghị phụ yêu cầu nhiều thời
gian hơn để nghiên cứu và tham khảo; để giúp họ, các điều hành viên và các chủ
tịch quyết định để lấy một đầu phiếu sơ khởi để quyết định xem các nghị phụ
muốn tiến hành ngay lập tức đối với việc đầu phiếu theo chương trình hay không.
Nhưng vào ngày được chỉ định (ngày 19 tháng Mười Một) Hồng y Tisserant nhân
danh các chủ tịch loan báo rằng không có cuộc bỏ phiếu trong thời kỳ ấy. Giữa
những tình cảm thất vọng và tức giận mạnh mẽ, một lời kêu nài khẩn cấp phải bỏ
phiếu ngay, được các Giám mục Hoa kỳ soạn thảo, rồi được lưu hành trong phòng
hội của Công đồng và được 441 nghị phụ (và sau này cả hàng trăm) ký nhận; đoạn
nó được các Hồng y Albert Meyer (Chicago), Joseph Ritter (Saint Louis), và Paul
Leger (Montreal) trình bày cho Đức Phaolô VI. Đức Giáo hoàng ủng hộ hoãn lại
cuộc bỏ phiếu với những lý lẽ rằng Ordo cần thiết nhiều giờ hơn, nhưng ngài
hứa rằng lược đồ về tự do tôn giáo sẽ là đề tài đầu tiên trong nghị sự làm việc
của thời kỳ thứ tư.
Cùng ngày, ngày 19
tháng Mười Một, 19 thay đổi mà vào phút chót do lệnh của giáo hoàng được đưa
vào lược đồ về đại kết do Văn Phòng Hiệp Nhất Kitô hữu được phân phát cho các
nghị phụ; chúng được các ngài chấp nhận ngày hôm sau trong cuộc bỏ phiếu chung
cục về toàn lược đồ, thì cái khác là chống lại toàn lược đồ. Những thay đổi
được nhằm để minh tỏ bản văn, nhưng nhiều thay đổi lại thấy là công kích lại
Tin lành và do Tin lành.
Vào phiên họp công
cộng kết thúc thời kỳ thứ ba, Đức Phaolô VI đồng tế với 24 linh mục có những
thánh đường lớn về Đức Maria trong lãnh địa của họ. Đoạn các nghị phụ thông qua
hiến chế về GH (2151 đối với 5), sắc lệnh về các Giáo hội Công giáo Đông phương
(2110 đối với 39), và sắc lệnh về đại kết (2137 đối với 11), và GH công bố
chúng. Trong diễn từ kết thúc Đức giáo hoàng sau khi đã diễn tả niềm vui sướng
về giáo lý liên quan đến chức giám mục và GH nói chung, công bố trên thẩm quyền
của chính mình Đức Maria là "Mẹ GH," nghĩa là, của tất cả tín hữu và
mục tử. Công đồng đã theo lời khuyên của Ủy Ban Tín Lý và từ chối ban cho mẹ
tước hiệu này một cách minh nhiên và đã bằng lòng với việc trình bày ý tưởng ấy
theo những hạn từ tương đương. Nhiều người thấy hành động của Giáo hoàng như
muốn tái khẳng định thẩm quyền giáo hoàng riêng biệt của mình.
D. Thời kỳ thứ tư. Phaolô VI khai mạc thời kỳ thứ tư và cuối cùng tại một buổi họp
công công vào ngày 14 tháng Chín, 1965, ở đó ngài lại đồng tế với 24 nghị phụ.
Ngài loan báo rằng ngài thiết lập (do Motu proprio Apostolica Sollicitudo, đề ngày 15
tháng Chín, một Thượng Hội Đồng các Giám mục như đã hứa trước và như các nghị
phụ đã yêu cầu trong lược đồ chưa hoàn tất về chức vụ mục tử của các giám mục;
bằng cách này một sự cộng tác mật thiết giữa giáo hoàng và các giám mục có thể
tiếp tục để sinh ích cho GH ngay cả sau khi công đồng kết thúc.
11 trong số 16 văn
kiện chung cục của Vatican II đã được hoàn tất, phê chuẩn và công bố vào những
buổi họp công cộng suốt bốn thời kỳ; 5 bản văn được công bố vào ngày 15 tháng
Mười, 2 bản văn vào ngày 18 tháng Mười Một, và 4 bản văn vào ngày 7 tháng Mười
Hai. Tiến độ của những khai triển là nhanh chóng và việc xúc tiến những cơ hội
về những vấn đề đối với các giám mục để can thiệp bằng lời nói trong phòng hội
bị giản lược thậm chí hơn cả trong thời kỳ thứ ba.
Như giáo hoàng đã
hứa, lược đồ về tự do tôn giáo được thảo luận đầu tiên, và khi sự chống đối nó
tiếp tục được nói lên, thì một cuộc bỏ phiếu sơ khởi về nó được làm vào ngày 21
tháng Chín cho thấy rằng một đa số 1997 trên 224 đã chấp nhận nó như nền tảng
cho một bản văn dứt khoát. Sự thành công vượt trội này biểu thị một trong những
cao điểm đối với các giám mục Hoa kỳ và đối với cố vấn chính của họ về vấn đề
này, John Courtney Murray, SJ. Được sửa chữa nữa, và với một vai thay đổi vào
phút cuối từ Giáo hoàng, nó được phê chuẩn vào ngày 15 tháng Mười với số phiếu
1954 đối với 249.
Lược đồ về GH trong
thế giới tân tiến đã được nới rộng lớn lao bằng cách bao gồm những phụ lục đối
với bản thảo đầu trước. Những khác nhau giữa những người cấp tiến xuất hiện về
bản văn này với một vài nghị phụ, đặc biệt người Đức, lý luận rằng nó thực quá tích
cực, bỏ quên những thực tại tội lỗi và lẫn lộn những lãnh vực tự nhiên và siêu
nhiên. Những giám mục và thần học gia nói tiếng Pháp bảo vệ lối tiếp cận có
tính nhập thể. Một tiếp cận mang tính cách khá là tin mừng, được trau chuốt do
Hồng y Lercaro, bị rối loạn cách đặc biệt rằng bản văn không mạnh mẽ hơn trong
phần về chiến tranh và hòa bình. Phần này cũng bị phê bình, nhưng trên những
nền tảng hầu như đối nghịch, do một số giám mục Hoa kỳ trên nền tảng rằng nó bỏ
quên vai trò làm nhụt chí của các khí giới nguyên tử và hàm ẩn lời phê bình về
những chính sách tự vệ của phương Tây. Một cuộc tranh cãi nào đó cũng nẩy sinh
về những phần về hôn nhân và những mối liên hệ giữa mục đích của nó và sự điều
hòa sinh sản. Một phần lớn các giám mục cũng bị bối rối rằng lời nài nỉ của họ
về việc minh nhiên kết án chủ nghĩa cộng sản không được xem xét nghiêm chỉnh.
Vào mồng 6 tháng Mười hai, lược đồ được phê chuẩn với số phiếu 2111 so với 251.
Lược đồ được hiệu
đính về mạc khải tiếp tục là đề tài thảo luận, đặc biệt về vấn đề liên hệ giữa
kinh thánh và truyền thống, về tính không sai lầm, và về sử tính của các tin
mừng. Những can thiệp vào phút chót của giáo hoàng lại một lần nữa giảm thiểu
sự chống đối, và bản văn được phê chuẩn vào ngày 29 tháng Mười với cuộc bỏ phiếu
2081 so với 27.
Tất cả những bản văn
khác trải qua những giai đoạn chung cục của việc soạn thảo và phê chuẩn mà
không có tranh luận lớn; những lược đồ ấy là về chức vụ mục tử của các
giám mục, canh tân đời tu, đào luyện linh mục, giáo dục Kitô hữu, mối tương
quan của GH với các tôn giáo không phải Kitô hữu, việc tông đồ giáo dân, hoạt
động truyền giáo của GH, cũng như tác vụ và đời sống linh mục.
Trong một biến cố
gây xúc động vào ngày mồng 7 tháng Mười Hai, ngày trước khi Công đồng kết thúc,
để bỏ đi rào cản tâm lý tới sự hòa giải, Đức Phaolô VI và Thượng phụ
Athenagoras I diễn đạt họ ân hận vì đã ra vạ lẫn nhau giữa Tòa Thánh Roma và
tòa thượng phụ Constantinople vào năm 1054 và vì những lời công kích, những
trách móc vô văn cứ, và những cử chỉ đáng bị khiển trách vốn đi theo những hành
động của cả hai phía. Họ cũng diễn đạt ước muốn bỏ đi ký ức về những biến cố ấy
từ giữa GH và cam kết quên chúng đi. Cuối cùng, họ ân hận những xô xát khiếm
nhã đi trước và theo sau mà, rốt cục dẫn đến sự sụp đổ thật sự hiệp thông của
GH, dưới ảnh hưởng của những yếu tố khác nhau kể cả sự thiếu thông cảm và tin
tưởng lẫn nhau.
Khóa họp công khai
cuối cùng của Công đồng được tổ chức ngoài trời trước Vương cung Thánh Đường
thánh Phêrô vào ngày mồng 8 tháng Mười Hai, 1965. Sau thánh lễ được một mình
Đức Giáo hoàng cử hành, một loạt các sứ điệp cho thế giới, được soạn bằng tiếng
Pháp, được đọc lớn: cho các vị lãnh đạo, học giả, nghệ sĩ, phụ nữ, công nhân,
người nghèo và ốm yếu, và giới trẻ. Đoạn tài liệu vắn gọn của Tông tòa In Spiritu Sancto kết thúc Công đồng được vị Tổng Thư ký
đọc lên và những lời tung hô truyền thống tại các công đồng chung từ thế kỷ V
được hát lên, và các nghị phụ tuyên xưng sự vâng phục đối với những sắc lệnh
công đồng.
Để làm cho các tín
hữu quen thuộc với những giáo huấn của Công đồng và để khích lệ họ tiếp nhận
các sắc lệnh công đồng, để kích thích họ ao ước canh tân thiêng liêng trong đời
sống riêng tư, gia đình, công cộng và xã hội và tri ân TC vì Công đồng, và để
phát triển nơi họ một tình cảm cũng như sự ý thức về GH, Đức Phaolô VI, bằng
Tông hiến Mirificus Eventus (mồng 7 tháng Mười Hai, 1965) công bố
một năm thánh ngoại thường phải được cử hành trong tất cả các địa phận trong
thế giới từ mồng 1 tháng Giêng đến ngày 29 tháng Năm (lễ Ngũ Tuần), 1966. Qua Motu proprioIntegrae Servandae (ngày7 tháng Mười Hai, 1965), ngài
thay đổi tên Tòa Thánh thành Bộ giáo lý Đức tin và thay đổi thủ tục của nó.
Rồi, bằng motu proprio Finis
Concilii (ngày 11
tháng Giêng, 1966) ngài thiết lập những ủy ban hậu công đồng về (1) giám mục và
việc cai quản các địa phận, (2) tu sĩ, (3) truyền giáo, (4) giáo dục Kitô hữu,
và (5) việc tông đồ giáo dân, tất cả đều được bao gồm cùng những chủ tịch,
những thành viên và các thư ký như các ủy ban tương ứng của công đồng, và được
trợ giúp bởi những chuyên viên được chọn cách riêng từ giữa những periti công đồng. Ngài cũng thiết lập một ủy
ban trung ương nhằm coi sóc công việc của năm ủy ban khác và để giải nghĩa
những tài liệu công đồng. Cuối cùng ngài xác quyết sự hiện hữu vĩnh viễn của ba
văn phòng thư ký: cổ võ sự hiệp nhất Kitô hữu, lo đến các Tôn giáo ngoài Kitô
giáo, và những người vô tín.
IV. Những công bố
của công đồng
Công đồng đưa ra tất
cả 16 văn kiện: 4 hiến
chế, 9 sắc lệnh, và 3 tuyên
ngôn
A. Hiến chế. Bốn văn kiện này bàn đến GH, mạc khải TC, phụng vụ, và GH
trong thế giới tân tiến.
1. Hiến chế tín lý
về GH (Lumen Gentium). Khi các nghị phụ bàn luận về hiến chế
này, các điểm chính tập trung vào: những hình ảnh kinh thánh về GH; GH như một
Mầu nhiệm; những khía cạnh thần học, thiêng liêng, và pháp lý của GH; mối liên
hệ giữa GH Đức Kitô và GH Công giáo Rôma; vị thế của những Kitô hữu ly khai và
của những người ngoài Kitô giáo đối với GH; thẩm quyền của đoàn Giám mục (tập
thể tính) và những mối liên hệ với quyền tối thượng của giáo hoàng; việc khôi
phục chức phó tế vĩnh viễn có và không có đời sống độc thân; chức tư tế phổ
quát của các tín hữu; những chức năng của giáo dân và mối tương quan của họ với
phẩm trật; sự hiện hữu và vai trò của các đoàn sủng; sự quân bình giữa tính bình
đẳng và quyền bính; mối quan tâm đến người nghèo và những kẻ sầu khổ và
đến công bằng xã hội; bổn phận truyền giáo của GH; mối tương quan giữa GH và
nhà Nước; và Đức Nữ Trinh Maria như đấng trung gian ân sủng và như mẹ GH.
Hiến chế đó có những
chương sau: (1) "mầu nhiệm GH," (2) "Dân TC," (3) "Cơ
cấu phẩm trật của GH và cách riêng chức giám mục," (4) "giáo
dân," (5) "lời kêu gọi mọi người nên thánh trong GH," (6)
"Tu sĩ," (7) "Bản chất cánh chung của GH lữ hành và sự kết hiệp
của GH với GH trên trời," và "Đức Nữ Trinh Maria, Mẹ TC, trong mầu
nhiệm Đức Kitô và GH."
2. Hiến chế tín lý
về Mạc khải của TC (Dei Verbum). Cuộc thảo luận tập trung vào bản tính
của truyền thống và mối tương quan của nó với Kinh thánh; tất cả mạc khải có
được chứa đựng trong Kinh thánh một cách nào đó hay không; sự không sai lầm của
Kinh thánh, sử tính của các Phúc âm; và việc đọc, phân phát, và giải thích Kinh
thánh. Những chương của Hiến chế này là: (1) "chính Mạc khải," (2)
"Việc trao truyền Mạc khải của TC," (3) Kinh thánh," (4)
"Cựu ước," (5) "Tân ước," và (6) Kinh thánh trong đời sống
GH."
3. Hiến chế về Phụng
vụ thánh (Sacrosanctum Concilium). Cuộc thảo luận của Công đồng chạm đến những nền tảng kinh thánh,
Kitô học, và GH học về phụng vụ; giá trị giáo huấn của phụng vụ; phụng vụ như
một yếu tố hiệp nhất; những cách thức tốt nhất để đảm bảo sự tham gia tích cực
và ý thức; việc đơn giản hóa những nghi thức; sử dụng latinh và những ngôn ngữ
hiện đại; việc tháp nhập vào những phong tục hay truyền thống địa phương hoặc
quốc gia; làm cho phụng vụ thành một ảnh hưởng hữu hiệu trong xã hội; thẩm
quyền của các hội đồng Giám mục và của từng giám mục; thánh lễ đồng tế; hiệp lễ
dưới hai hình thức; việc xức dầu bệnh nhân; sự kéo dài, ngôn ngữ và soạn thảo
kinh Nhật tụng.
Thêm vào một dẫn nhập
vốn nói rằng phụng vụ là phương thế nổi bật mà nhờ đó các tín hữu diễn đạt
trong đời sống của mình và tỏ lộ cho người khác mầu nhiệm Đức Kitô và bản chất
thật sự của GH chân thật, hiến chế chứa đựng những chương sau: (1) "những
nguyên tắc tổng quát về sự khôi phục và cổ xúy Phụng vụ Thánh," (2)
"Mầu nhiệm cực thánh của Thánh Thể," (3) "những bí tích kh1c và
những Á bí tích," (4) "Thần vụ," (5) "Năm phụng vụ,"
(6) "Thánh nhạc," và (7) "Nghệ thuật Thánh và những trang trí
thánh," Một phụ lục chứa đựng "một tuyên ngôn về việc duyệt lại Niên
lịch."
4. Hiến chế Mục vụ
về GH trong thế giới tân tiến (Gaudium et Spes). Các nghị phụ thảo luận ý nghĩa và giá trị của hoạt động trần thế;
phẩm giá con người; sự đối chọi trong thế giới giữa thiện và ác; sự hiện diện của
tội lỗi; vai trò của phụ nữ trong xã hội; sự phân biệt chủng tộc; những vấn đề
của thế giới thứ ba; sự nghèo đói của thế giới; những vấn đề di dân; vô thần,
Chủ nghĩa Mac-xít, và cộng sản chủ nghĩa; tự do và sự khích lệ cuộc khảo cứu có
tính học giả; ảnh hưởng của GH trên văn hóa; nhân bản thuyết và khoa nhân học
Kitô hữu; sự bình đẳng của mọi con người; sự cần thiết cho các người Công giáo
phải làm việc với tất cả mọi người thiện chí; tình liên đới của GH với thế
giới; ánh sáng mà mạc khải tỏa chiếu trên não trạng, vần đề và những lực lượng
của thời đại chúng ta; những lợi ích (phúc lợi) của tôn giáo đối với văn minh;
bản tính , những mục đích, hành vi và tính bất khả phân ly của hôn nhân; đời
sống gia đình; phá thai; sản xuất kinh tế; những điều kiện của công nhân; những
tương quan giữa GH và xã hội chính tri; cuộc chay đua vũ trang; sự sở hữu và sử
dụng những vũ khí nguyên tử; quân dịch bắt buộc và sự chống đối có ý thức;
những bổn phận của quốc gia đối với thẩm quyền quốc tế; sự gia tăng dân số thế giói;
sự trợ giúp những quốc gia chậm phát triển.
Hiến chế gồm một lời
giới thiệu về "tình trạng dân chúng trong thế giới đương thời." Phần
I, với tựa đề, "GH và ơn gọi của nhân vị" bao gồm bốn chương:
"phẩm giá nhân vị," "Cộng đồng nhân loại," "Hoạt động
của con người khắp thế giới," "và "Vai trò của GH trong thế giới
tân thời." Phần II được đề tựa "một số vấn đề khẩn cấp đặc
biệt", có năm chương: "Hôn nhân và gia đình,", "Phát triển
văn hóa," "Đời sống kinh tế và xã hội," "Cộng đồng chính
trị," và ""Hòa bình và cộng đồng các quốc gia." Một phần
kết luận nói rằng GH ước muốn đối thoại thẳng thắn giữa các phần tử của mình,
với những anh chị em và cộng đoàn ly khai, với tất cả những ai tin nhận TC, với
những ai vun trồng những phẩm tính cao thượng của tinh thần nhân loại nhưng
không tin vào TC, và ngay cả với những ai đàn áp GH.
B. Các Sắc lệnh. Công đồng phát hành 9 sắc lệnh có tầm rộng lớn về đề tài.
1. Sắc lệnh về chức
vụ mục vụ của các giám mục (Christus Dominus). Những cuộc thảo luận tập trung vào chức vụ Giám mục và những uy
quyền cần thiết để thực t6hi nó; Giáo triều Roma và những liên hệ với các giám
mục; sự nội tại hóa của Giáo triều; những uy quyền cần thiết để tháo gỡ những
nhiệm vụ của các giám mục; tự do trong viêc chỉ định các giám mục; sự hưu trí bó
buộc của các giám mục; sự lệ thuộc của tu sĩ đối với Giám mục địa phương (bản
quyền sở tại, Local ordinary); sự chăm sóc cho những người di dân;
những địa phận đối nhân (personal) cho những người thuộc một nghi thức hay quốc
tịch riêng; những uy quyền của các hội đồng giámmục; và cơ quan trung tâm
(trung ương) của các giám mục để giúp giáo hoàng trong việc cai quản
GH.
2. Sắc lệnh về Đại
kết (Unitatis Redintegratio). Những điểm thảo luận gồm: nhu cầu phải
khiêm nhường, bác ái, tha thứ, và thừa nhận những sai lầm và sai lỗi của mọi
bên; đảm bảo rằng hiệp nhất không có nghĩa là đồng phục; không phải "sự
quay trở lại" suông của những anh chị em ly khai; ý nghĩa và sử dụng từ
ngữ "Đại kết"; sự thích đáng của việc gọi một số cộng đoàn Tin lành
là "các Giáo hội"; mối nguy hiểm của việc gây ra sự lộn xộn và chủ
thuyết trung lập (indifferentism, dửng dưng) trong tâm trí của các tín hữu; sự
tham gia vào những buổi lễ (cử hành) tôn giáo với những người Kitô hữu không
phải Công giáo; tính hiệu lực của những hôn nhân được cử hành trước những thừa
tác viên không phải Công giáo; những cách thức điều hành cuộc đối thoại; ước
muốn khôi phục sự hiệp nhất giữa tất cả những người theo (môn đệ) Đức Kitô. Để
kết luận, sắc lệnh khuyến khích những người Công giáo kìm chế khỏi sự hời hợt
và sự hăng say không thận trọng, để trung thành với chân lý nhận được từ các
Tông đồ và các Giáo phụ, và để hành động liên kết với những anh chị em ly khai
hầu không cản trở nào được đặt ra trên những đường lối của Chúa Quan Phòng, và
không một phán đoán tiên kiến nào làm hư hoại những khởi hứng tương lai của
Thánh Thần.
3. Sắc lệnh về các
GH Công giáo Đông phương (Orientalium Ecclesiarum). Cuộc thảo luận bàn đến cấu trúc của GH; những quyền lợi và những
đặc quyền của các Thượng tòa; những sự dữ của một sự latinh hóa cưỡng bức; sự
quyết định về nghi thức của những anh chị em Đông Phương trở lại với GH Công
giáo; sự tham gia của những người Công giáo Đông phương vào những buổi lễ tôn
giáo của những người không phải Công giáo bên Đông phương và ngược lại
(communicatio in sacris); và những hôn nhân giữa những người Công giáo Đông
phương và những người không phải Công giáo. Sắc lệnh diễn tả sự kính trọng của
GH Công giáo đối với những thể chế, những nghi thức phụng vụ, những truyền
thống GH, và những tiêu chuẩn được thiết lập về đời sống Kitô hữu của những
người Công giáo Đông phương.
4. Sắc lệnh về Tác
vụ và đời sống Linh mục (Presbyterorum Ordinis). Những điểm cốt yếu của cuộc thảo luận gồm: phẩm giá và sự tuyệt hảo
của tư cách linh mục (đời linh mục, priesthood); lối thiêng và sự thánh thiện
của các linh mục; sự liên kết giữa đời sống thiêng liêng và tác vụ của họ; sự
tham gia của họ vào tư cách linh mục của Đức Kitô; sự vâng phục và nghèo khó;
tầm quan trọng của đời độc thân; đời sống chung; các hiệp hội linh mục; những
tương quan của họ với các giám mục và giá dân; một hội đồng tư vấn cho Giám
mục; những quyền lợi của linh mục; những bổn phận của họ đối với những người
không phải Công giáo; những việc tông đồ ngoài xứ đạo; huấn luyện giảng dạy;
hoạt động tri thức của họ và nền giáo dục liên tục trong tác vụ; việc ban bí
tích sám hối; chiều kích truyền giáo của tư cách linh mục; sự phân phối cân
bằng các linh mục khắp thế giới; tiền thù lao và sự bình đẳng về tài chánh của
các linh mục; việc bãi bỏ hệ thống tài sản (benefices) và những tước vị danh
dự; và sự chăm sóc cho những linh mục ốm yếu, già cả và sa ngã. Lời nói đầu của
sắc lệnh xác quyết rằng sắc lệnh áp dụng cho tất cả các linh
mục.
5. Sắc lệnh về Giáo
dục cho đời (tư cách) linh mục (Optatam Totius). Những điểm thảo luận gồm: ý niệm về ơn gọi tới đời linh mục và
những phương thế nuôi dưỡng nól bản chất và mục đích của tiểu chủng viện; thích
ứng của kỷ luật chủng viện vào thời đại tân tiến và đời sống trong thế giới; sự
hiệp nhất hữu cơ trong việc đào luyện thiêng liêng, tri thức, và mục vụ của các
ứng sinh cho đời linh mục; sai phái họ từ những miền khác nhau của thế giới để
học hành ở Âu châu; vai trò của kinh viện, cách riêng thuyết Toma, trong việc
dạy triết học và thần học; cần những nhân đức tự nhiên, nhân bản nơi các ứng
sinh; một thời kỳ thủ đắc kinh nghiệm sơ khởi trong tác vụ đó hay một sự tập
tành mục vụ sau thụ phong; và cải cách của Bộ lo về các chủng
viện.
6. Sắc lệnh về canh
tân đời tu (Perfectae Caritatis). Canh tân theo Tin mừng được thảo
luận cũng như thái độ đối với những thực hành truyền thống; thần học về các lời
khấn; vai trò của những người chiêm niệm; vai trò của việc tông đồ trong đời
tu; thích nghi với những nhu cầu đương thời; linh đạo của đời sống hoạt động;
và những hội nghị của các bề trên cả. Sắc lệnh xác định rằng sự canh tân được
thích ứng bao gồm một cuộc trở về nguồn của đời sống Kitô hữu và tinh thần
nguyên thủy của các tu hội và sự thích ứng của các tu hội đối với những điều
kiện thay đổi và những nhu cầu của GH. Đời tu là một bậc sống đầy đủ nơi chính
mình và phải được kính trọng lớn lao. Các lời khấn thanh khiết, nghèo khó và
vâng phục được liên kết với sự hiến mình cho tình yêu và sự phục vụ TC và những
công cuộc của việc tông đồ. Linh mục và những nhà giáo dục tôn giáo phải cổ xúy
ơn gọi tu sĩ.
7. Sắc lệnh về hoạt
động truyền giáo của GH (Ad Gentes). Cuộc thảo luận của công đồng nhắm vào: thần học về truyền giáo; bản
chất của ơn gọi truyền giáo; tính uyển chuyển và thích ứng vào những nền văn hóa
khác với những tập tụng và giá trị riêng của chúng; tạo dựng một ủy ban truyền
giáo trung ương; vai trò mới của Bộ Truyền bá Đức tin; lý lẽ cho hoạt động
truyền giáo; cần truyền giáo vì phần rỗi của những người không phải Kitô hữu;
liên kết hoạt động truyền giáo với đại kết; sự trải rộng của khu vực truyền
giáo tới những lãnh thổ khác; tình trạng của "những GH mới"; địa vị
của những giáo sĩ nullius; những liên hệ giữa các hội tuyề giáo và quyền tài
thẩm của giáo sĩ địa phương; huấn luyện tông đồ của các vị truyền giáo và những
giáo lý viên; vay mượn các linh mục; những nhà truyền giáo giáo dân; sự hỗ trợ
Truyền giáo; và việc sinh đôi hay kết đôi của một địa phận cổ xưa hơn với một
quyền tài thẩm mới (juridiction).
8. Sắc lệnh về tông
đồ giáo dân (Apostolicam Actuositatem).Những điểm được thảo
luận gồm: nền tảng tín lý của việc tông đồ này và những mục tiêu của nó; linh
đạo giáo dân; đào luyện để họa động tông đồ; những liên hệ với phẩm trật; Công
giáo Tiến hành; sáng kiến giáo dân và chủ nghĩa giáo sĩ; việc tông đồ của giới
trẻ; hoạt động xã hội; sự cộng tác với những người ngoài Công giáo và ngoài
Kitô giáo; và một văn phòg trong giáo triều Roma.
9. Sắc lệnh về những
phương tiện truyền thông xã hội (Inter Mirifica). Trách nhiệm của giáo dân trong lãnh vực này được thảo luận cũng như
việc sử dụng phương tiện này để tin mừng hóa; cần sự trợ giúp cụ thể về nhân sự
và trang bị trong những quốc gia truyền giáo; đào luyện ý kiến công chúng lành
mạnh; thiết lập văn phòng đặc biệt trong Giáo triều Roma hay bành trướng ủy ban
Giáo hoàng sẽ có; và, thiết lập một hãng thông tấn tin tức công giáo quốc tế.
Công đồng xin Giáo hoàng trải rộng bổn phận và uy tín của văn phòng lo về giám
thị những xuất bản và giải trí để ôm ấp mọi phương tiện, bao gồm in ấn, và để
chỉ định cho nó những chuyên viên từ những quốc gia khác nhau, gồm cả giáo
dân.
C. Tuyên ngôn. Công đồng đưa ra ba tuyên ngôn.
1. Tuyên ngôn về tự
do tôn giáo (Dignitatis Humanae). Những điểm thảo luận gồm: những
lý luận triết học và pháp lý và/hay tín lý và thần học; sự liên kết giữa tự do
bên trong, cá nhân với tự do bên ngoài, xã hội; những giới hạn; sự phát triển
giáo lý xưa hơn của GH, cách riêng giáo lý của những giáo hoàng trước; những
hiệu quả trên các quốc gia công giáo và trên những khế ước; "những quyền
sai lầm"; nguy hiểm của việc đưa ra lời bào chữa cho những chính phủ chống
tôn giáo; tự do hay sự khoan thứ; quyền loan báo tin mừng hay của việc cải đạo;
nguy hiểm của việc cổ xúy chủ nghĩa dửng dưng; quyền lợi của GH công gáo; và,
ứng dụng cho những quốc gia chủ yếu không công giáo và những quốc gia dưới sự
thống trị của cộng sản.
Phần I của tuyên
ngôn, "những nguyên tắc tổng quát của tự do tôn giáo" nói rằng nhân
vị có một quyền đối với sự miễn áp chế về phía cá nhân, nhóm xã hội, hay bất kỳ
quyền lực nhân loại nào. Chính phủ phải kính trọng và tán thưởng đời sống tôn
giáo của người dân chứ không được ra lệnh hay ngăn cấm những hành vi tôn giáo;
trong việc ngăn cản những lạm dụng, nó phải hành động theo những chuẩn mực pháp
lý đối với việc gìn giữ trật tự công cộng. Phần II, "Tự do tôn giáo theo
ánh sáng mạc khải" xác quyết rằng câu trả lời của nhân vị đối với TC trong
đức tin phải tự do. GH phải hưởng được tự do và tự lập. Công đồng cáo giác và
tiếc xót những chính sách đàn áp của một số chính phủ và nhấn mạnh tính tất yếu
của tự do tôn giáo, vốn phải được cung cấp ở mọi nơi với sự bảo đảm của Hiến
pháp một cách hiệu quả.
2. Tuyên ngôn về
thái độ của GH đối với các tôn giáo không phải Kitô giáo (Nostra Aetate). Thảo luận bao gồm: những động cơ tôn giáo, chứ không phải chính trị
cho một lời công bố nhắm sự chống đối của Ả rập; gia sản tôn giáo chung của
Kitô hữu và Do thái; tội ác tập thể của dân Do thái về cái chết của Đức Kitô
(lời cáo tội về việc giết Chúa) mà ta thường vin vào; việc Thiên Chúa loại bỏ
họ mà được ta vin vào; dự đoán về sự hoán cải sau cùng của họ về Kitô giáo; sự
khẩn cấp của việc kết án chống Do thái; và những dây liên hệ với Hồi giáo và
những tôn giáo thế giới khác. Tuyên ngôn xác quyết rằng tất cả các dân tộc có
một cộng đoàn, nguồn cội và mục đích. Dân chúng hỏi những câu hỏi tôn giáo cơ
bản. GH phàn nàn sự thù ghét và bách hại người Do thái và tất cả phô bày của
chủ nghĩa chống Do thái và khiển trách bất kỳ sự phân biệt đối xử hay sự quấy
rối nào dựa trên chủng tộc, mầu da, địa vị xã hội hay tôn
giáo.
3. Tuyên ngôn về
Giáo dục Kitô giáo (Gravissimum Educationis). Cuộc thảo luận bao gồm: những mục tiêu; vai trò của gia đình, những
bổn phận và giới hạn của nhà nước; cha mẹ có quyền lợi tự do chọn trường học;
tự do trong các trường công giáo và tự do nghiên cứu, cách riêng trog khoa học
thánh; những bổn phận của ủy ban hậu công đồng. Tuyên ngôn nhận biết tầm quan
trọng của giáo dục; trẻ em có quyền được dạy dỗ về luân lý. GH buộc giáo dục
con cái của mình, và GH dùng tất cả những trợ giúp thích hợp, chẳng hạn việc
dạy giáo lý, nhưng cách riêng trường học. Trong các trường cao đẳng và đại học
công giáo những môn học riêng phải được theo đuổi theo những nguyên lý và
phương pháp của chúng và với sự tự do nghiên cứu, và phải có, nếu không phải là
một phân khoa, ít nhất một viện hay một ghế của thần học với những khóa học cho
sinh viên đời. [GHI CHÚ: bài trình bày này đã được biên soạn do J. Kroeger; bài
được lấy từ New Catholic
Encyclopedia, Second Edition (2003)
XIV: 407-418; reprint permission requested.]
(Còn tiếp)
Lm Giuse
Nguyễn Văn Am, SDB.