Tuyên Xưng Chân Lý Kitô Giáo Trong Một Thế Giới Đa Nguyên Theo Quan
Điểm Của Đức Benedict XVI
(catechesis.net
13-01-2015)
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.
Được nhiều anh em thân mật đặt tên là “giáo sư Rôma”, vô tình biệt
hiệu này đã đi vào tiềm thức, trở nên phần nào secunda natura (bản tính thứ hai) của người đang nói. Vì thế khi
cha Giám đốc mời thuyết trình cho buổi khai mạc niên học 2006-2007, thì cả người
mời lẫn người được mời đều dễ gặp nhau khi xác định đề tài, đó là nói chuyện về
Rôma, và cụ thể hơn nữa, về đức Giám mục Rôma. Dĩ nhiên, đây không phải là kể
chuyện về các dinh thự giáo hoàng, cũng không phải là chứng minh quyền tối thượng
của đức giáo hoàng Rôma, nhưng là trình bày tư tưởng của đức đương kim giám mục
Rôma, mang danh hiệu là Bênêđictô XVI.
Làm thế nào trình bày tư tưởng của đức đương kim giáo hoàng, mới
lên ngôi chưa được một năm rưỡi (19/4/2005), và mới phát hành một thông điệp “Deus caritas est”? May thay, trước khi
được bầu lên chức vụ giám mục Rôma, ngài đã giữ chức vụ Tổng trưởng bộ Giáo lý
đức tin suốt gần 25 năm (từ ngày 25/11/1981), một cơ quan - nếu so sánh với bộ
máy chính quyền Việt Nam - tương đương với Bộ Chính trị hoặc Bộ Công an.
Có lẽ đó là bộ mặt của Hồng y Ratzinger còn lưu lại trong ký ức
của nhiều người. Tuy nhiên, từ khi được bầu làm giáo hoàng, người ta mới khám
phá rằng ngài là con người dễ thương và hơi nhát. Gọi là nhát, nhưng ai cũng phải
phục ngài ở chỗ dám đứng ở một vị thế chẳng có cảm tình, đó là phải bảo vệ chân
lý đức tin, và đôi khi buộc lòng phải dùng những biện pháp cứng rắn, chẳng hạn
như cảnh cáo nếu chưa đến nỗi cách chức các giáo sư, các nhà thần học. Dù sao,
từ khi Hồng y Ratzinger được bầu làm giáo hoàng, người ta mới chịu khó đi lục lọi
các tác phẩm ngài đã viết khi đứng đầu bộ Giáo lý đức tin và đã có một cái nhìn
mới về đường lối của ngài. Ngài không phải là một người chỉ ngồi trong văn
phòng để nghiên cứu những sai lầm của các nhà thần học, nhưng còn đi diễn thuyết
đây đó; ngài không chỉ nói với các gíam mục, và còn với các đại học quốc gia,
các nhà chính trị, các triết gia ngoài Kitô giáo, đó là chưa kể nhiều bài phỏng
vấn dành cho các ký giả. Dĩ nhiên, nội dung của những buổi gặp gỡ đó không thể
nào là đấu khẩu tranh biện, nhưng là để trình bày cho thấy Kitô giáo góp phần
như thế nào vào cuộc xây dựng nhân loại: phải chăng Kitô giáo chỉ là một tiếng
nói trên diễn đàn dư luận, hay Kitô giáo còn thực sự mang lại chân lý cho con
người thời nay, con người xét như là cá nhân cũng như xét như gia đình nhân loại?
Đó cũng là đề tài của buổi thuyết trình hôm nay, dưới tựa đề Tuyên xưng chân lý
Kitô giáo trong một thế giới đa nguyên, theo quan điểm của đức Bênêđictô XVI,
tuy rằng trên thực tế, như vừa nói, chúng ta sẽ chỉ nghiên cứu tư tưởng của ngài trong thời gian giữ chức vụ Tổng
trưởng bộ Giáo lý đức tin.[1]
Sau khi giới thiệu thư mục, chúng tôi xin trình bày ba phần như
sau:
I. Trong phần thứ nhất, chúng ta hãy rảo qua tình trạng đa
nguyên trong thế giới hôm nay: đa nguyên văn hoá, tín ngưỡng, chính trị, luân
lý, với những yêu sách của nó.
II. Sang phần thứ hai, chúng ta sẽ phân tích những lý thuyết phủ
nhận chân lý, và hậu nhiên, chống lại tham vọng của Kitô giáo muốn phát biểu
chân lý.
III. Phần thứ ba được dành cho việc trả lời các vấn nạn: chân lý
là gì? có thể có chân lý không? phải hiểu chân lý Kitô giáo như thế nào? việc
tuyên xưng chân lý có trái nghịch với thái độ đối thoại không? tuyên xưng chân
lý Kitô giáo như thế nào?
Hy vọng câu trả lời sẽ mang lại một hứng khởi cho niên học mới,
sao cho chân lý trở nênø đối tượng của học hỏi cũng như yêu mến và hành động.
Thư tịch
Vì thời giờ eo hẹp, chúng tôi chỉ xin giới hạn phạm vi khảo sát
vào mười bài phát biểu của Hồng y Ratzinger.
1/ Hội thảo với các chủ tịch uỷ ban đạo lý thuộc các hội đồng
giám mục Á châu, (Hongkong, tháng 3/1993).
2/ Hội thảo với các chủ tịch uỷ ban đạo lý thuộc các hội đồng
giám mục Mỹ châu latinh (Guadalajara, tháng 5/1996).
3/ Tự do và chân lý, bài viết trên tạp chí “Studi cattolici” ở Ý
số 430 (tháng 12/1996).
4/ Đối thoại giữa các tôn giáo và tương quan giữa đạo Do thái và
đạo Kitô. Thuyết trình tại Académie des Sciences Morales et Politiques, Paris
(1997), đăng trên Internationale Katholische Zeitschrift Communio 26 (1997), pp. 419-429.
5/ “Chân lý Kitô giáo?”. Thuyết trình tại đại học Sorbonne
(27/11/1999).
6/ “Chân lý ở đâu?”. Trao đổi với triết gia Vittorio Possenti
(Bressanone, hè 2001), đăng trên nhật báo “Avvenire” 11/5/2005.
7/ “Loan báo đức Kitô và đối thoại tôn giáo”. Gặp gỡ các ký giả
tại đại học San Antonio, Murcia, Tây-ban-nha (30/11/2002).
8/ “Tôn giáo dân sự và những vấn đề luân lý”. Thuyết trình tại
Thượng viện Italia (13/5/2004).
9/ “Cuộc khủng hoảng văn hoá tại châu Âu”. Thuyết trình tại đan
viện Subiaco (1/4/2005: một ngày trước khi đức Gioan Phaolô II băng hà).
10/ Bài giảng Thánh lễ khai mạc Mật hội bầu giáo hoàng
(18/4/2005).
Nguyên văn có thể tìm trên mạng internet ở các địa chỉ sau đây:
1) Tiếng Ý:
- Amici di
Ratzinger: www.ratzinger.it ;
- www.zenit.org (tiếng Ý, click vào ratzinger).
2) Tiếng Anh:
- www.crossroadsinitiative.com/library_author/114/cardinalRatzinger (Địa chỉ này cung cấp hai thư tịch các
sách và bài viết của giáo sư và hồng y Ratzinger).
- www.catholicculture.org (vào library, rồi “list of authors”:
Ratzinger)
***
Như quý vị có thể nhận thấy, các bài thuyết trình này được trình
bày trong những bối cảnh khác nhau: với các giám mục, với các nhà chính trị, với
các nhà trí thức. Thiết tưởng cũng nên ghi nhận thêm khung cảnh địa lý của
chúng: với các giám mục Á châu (mang mối quan tâm đến việc đối thoại với các
tôn giáo và văn hoá), với các giám mục Mỹ châu latinh (thần học giải phóng),
nhưng phần lớn là trao đổi về những vấn đề của Âu châu (với các trào lưu bài
tôn giáo, được biểu lộ qua dự thảo hiến pháp của lục địa này).
I. TÌNH TRẠNG ĐA NGUYÊN TRONG THẾ GIỚI
HIỆN ĐẠI
Ở Việt Nam, có lẽ nhiều người thường gắn “đa nguyên” với chế độ
chính trị: họ ước mong một chính sách “dân chủ đa nguyên” thay cho một chế độ độc
đảng như hiện nay. Tuy nhiên, nếu xét kỹ hơn, tính cách đa nguyên có thể áp dụng
vào nhiều lãnh vực khác nữa. Chúng ta không thể bỏ qua sự kiện là trên lãnh thổ
của nước Việt Nam có đến 54 dân tộc, nghĩa là 54 văn hóa ngôn ngữ. Mặt khác,
riêng về khía cạnh tôn giáo, chúng ta đã quá quen thuộc với từ “tam giáo hoà đồng”
(Khổng - Nho - Phật), không ai chiếm địa vị độc tôn. Từ nước Việt Nam, nếu
chúng ta nhìn ra thế giới, chắc chắn tầm áp dụng lãnh vực đa nguyên còn rộng
hơn nhiều. Chúng tôi chỉ giới hạn vào ba lãnh vực thường được đức hồng y
Ratzinger nhắc đến như là chống lại chủ trương độc quyền nắm giữ chân lý của
Kitô giáo: đa nguyên văn hoá tôn giáo, đa nguyên chính trị, đa nguyên luân lý.
A. Đa nguyên tôn giáo NA số 2
1/ Nhìn từ góc độ Á châu, có lẽ sự đa nguyên tôn giáo dễ nhận ra
hơn cả. Trên thế giới này có nhiều tôn giáo. Điều này chứng tỏ rằng chưa tôn
giáo nào nắm vững được chân lý có sức thuyết phục hết mọi người: mỗi tôn giáo
chỉ khám phá ra một góc cạnh của chân lý mà thôi.
Chúng ta đã hơn một lần nghe kể điển tích những anh mù sờ voi. Một
nhà vua cho mời các anh mù đến dinh, và cho họ sở một con voi. Anh thì sờ cái
tai, anh sờ ngà, vòi, chân, đuôi. Sau đó nhà vua hỏi ý kiến của họ về con voi.
Mỗi người mô tả con voi một cách, tuỳ theo cảm giác của mình: con voi giống như
cái thúng, giống như cái bình, giống như cái chổi, giống như cột đình, vân vân.
Điều tức cười là anh nào cũng khăng khăng bảo rằng chỉ có nhận định của mình là
đúng, và bài xích các ý kiến ngược lại. Đến lúc nào đó, họ mất tự chủ, từ chỗ đấu
khẩu quay sang đấm đá nhau. Lúc ấy nhà vua mới lên tiếng: “này các anh, các anh
đã quên rằng mình là người mù: mỗi người chỉ rờ được một phần của con voi, chứ
đâu có ai thấy được tất cả con voi đâu?”.
Bài học. Đứng trước mầu nhiệm của Vô biên, chúng ta chỉ là những
tên mù. Không ai nắm vững chân lý hoàn toàn; mỗi người chỉ khám phá được một
góc cạnh nhỏ bé. Chúng ta hãy đối thoại với nhau để cùng truy tầm chân lý, chứ
đừng ngạo nghễ tự hào mình biết hết chân lý, rồi lên mặt chê bai người khác. Tệ
hơn nữa, thái độ nắm chắc chân lý sẽ đưa đến bất bao dung, dẫn tới chiến tranh
tôn giáo.[2]
2/ Ngoài lập luận vừa rồi, còn một lý luận nữa nhằm riêng đến
Kitô giáo: Kitô giáo chỉ là một sản phẩm của văn hoá châu Âu. Làm thế nào lại
đòi mang tính cách phổ quát cho hết mọi dân tộc được? Nên biết là vấn nạn này
không do một triết gia Á châu đặt ra, nhưng là ông Ernst Troeltsch, một giáo sư
Tin lành người Đức vào đầu thế kỷ XX (trích dẫn ở bài số 5). Gần đây, hai tác
giả John Hick và Paul Knitter cũng cho rằng Đấng Tuyệt đối không thể nào xuất
hiện hoàn toàn nơi đức Giêsu Nadaret, một con người lịch sử được (bài số 2).
B. Đa nguyên chính trị
Có một tôn giáo chung cho toàn châu Á hay không? Câu trả lời dứt
khoát là không. Câu chuyện các anh mù sờ voi phát xuất từ châu Á, khác với châu
Âu, nơi mà Kitô giáo vốn giữ vai trò độc tôn. Thế nhưng tình hình ngày nay tại
châu Âu đã thay đổi rất nhiều.
Châu Âu cũng phải chấp nhận một thứ đa nguyên tôn giáo, bởi vì
trên đại lục này, con số những tín đồ ngoài Kitô giáo ngày càng gia tăng, cách
riêng là các tín đồ Hồi giáo. Tuy nhiên, nếu tình trạng đa nguyên tôn giáo xem
ra còn mới mẻ, nhưng châu Âu đã có một kinh nghiệm khác về đa nguyên, tạm đặt
tên là “đa nguyên chính trị”.
Từ thế kỷ XVIII, các quốc gia Âu châu đã bước sang chính thể dân
chủ: luật pháp do quốc hội (cơ quan đại diện cho nhân dân) biểu quyết theo sự
thỏa thuận của đa số, chứ không do một quyền bính nào từ trên cao ban bố, dù là
nhà vua hay là giáo hoàng, nhất là từ khi nguyên tắc phân chia Đạo - Đời (tôn
giáo / chính trị) đã được chấp nhận.
C. Đa nguyên luân lý
Bước tiến từ đa nguyên chính trị sang đa nguyên luân lý không xa
lắm. Việc sống chung trong xã hội đòi hỏi rằng không ai được phép áp đặt quan
điểm của mình lên trên người khác. Nhà nước không được phép áp đặt một chủ
nghĩa, một ý thức hệ lên toàn thể nhân dân. Các công dân đều được hưởng quyền tự
do tư tưởng, tự do tín ngưỡng. Vì thế, không tôn giáo nào được phép giữ vị thế
độc tôn. Tôn giáo là chuyện cá nhân, tư riêng của mỗi người. Chính quyền phải tạo
ra mọi điều kiện để cho tất cả mọi công dân đều được đối xử ngang hàng với
nhau, không phân biệt phái tính, màu da, ngôn ngữ, và dĩ nhiên càng không phân
biệt quan điểm chính trị (đầu óc tư bản hay mác xít) và nếp sống (hôn nhân đồng
tính hay dị tính). Nhà Nước phải bảo đảm tối đa quyền tự do của công dân, đặc
biệt là tự do tư tưởng. Nên biết là lãnh vực áp dụng của nguyên tắc này rất
khác biệt tuỳ nơi tuỳ thời. Nếu ở Việt Nam, chúng ta mong muốn rằng Nhà Nước đừng
xen vào chuyện nội bộ các tôn giáo, và nếu ở các quốc gia Hồi giáo, người tín hữu
Kitô ước mong Nhà Nước đừng áp đặt luật Coran cho hết mọi người, thì tại các quốc
gia châu Âu, nguyên tắc này có nghĩa là quốc hội có quyền biểu quyết luật phá
thai, luật trợ tử, luật hôn nhân đồng tính luyến ái, bởi vì những điều này chỉ
là xấu đối với luân lý Kitô giáo mà thôi, chứ không thể nào ràng buộc hết mọi
công dân.
II. NHỮNG CHỦ THUYẾT CHỐNG LẠI CHÂN
LÝ
Trong phần thứ nhất, chúng ta điểm qua tình hình đa nguyên trong
thế giới hiện đại. Tình trạng đa nguyên không chỉ là một hiện tượng mà còn là một
đòi hỏi của cuộc sống chung trong xã hội (dù đó là xã hội quốc gia hay xã hội của
của cộng đoàn nhân loại).
Nhận xét vừa rồi đòi buộc Kitô giáo phải xét lại lập trường của
mình vốn tự hào là nắm vững chân lý. Thế nhưng còn có những chủ trương đi xa
hơn nữa, đòi hỏi Kitô giáo phải loại trừ hoàn toàn mọi tham vọng truyền giảng
chân lý, lý do bởi vì trên đời này làm gì có chân lý. Việc rao truyền chân lý vừa
mang tính bịp bợm vừa trái ngược với phẩm giá con người. Thực vậy, xét về mặt
lý thuyết, có hai chủ trương chống lại chân lý Kitô giáo:
1/ thuyết tương đối: không có chân lý;
2/ thuyết nhân quyền: chân lý đi ngược với tự do.
Đức hồng y Ratzinger chú ý đến lịch sử tư tưởng của châu Âu. Tuy
nhiên, chúng ta đừng nên quên rằng những thuyết này đã ảnh hưởng đến tất cả văn
hoá của thế giới hiện nay, dù theo chủ nghĩa dân chủ tự do, hay chủ nghĩa
mác-xít, và tệ hơn nữa, chịu ảnh hưởng của trào lưu thực dụng.
A. Thuyết tương đối: không có chân lý
tuyệt đối
1. Những thuyết hoài nghi đã nảy sinh từ lâu đời nơi các triết
gia Hy-La, nhưng nói được là chỉ dừng lại trong phạm vi lý thuyết. Vào thời cận
đại, thuyết tương đối không chỉ nằm trên bình diện siêu hình (không có chân lý)
nhưng còn mang theo hệ luận đến tôn giáo nữa (tôn giáo không thể nào có chân
lý).
Tiến trình này có thể tóm tắt như sau. Triết gia Emmanuel Kant
phân biệt giữa lý trí thuần tuý và lý trí thực tiễn. Lý trí thuần tuý chỉ có thể
đạt tới các hiện tượng (phenomenon) chứ không đạt tới các chân lý siêu hình tựa
như bản tính (noumenon). Thiên Chúa vượt quá khả năng của lý trí, và được coi
như thỉnh đề của lý trí thực tiễn (luân lý). Dựa trên tiền đề này, các thế hệ
tiếp theo Kant cho rằng Thiên Chúa và tôn giáo không còn thuộc lãnh vực của lý
trí nữa. Tôn giáo là chuyện của tình cảm, chứ không phải của lý trí. Từ đó, vai
trò tuyệt đối của Thiên Chúa sẽ được chuyển sang cho Tinh thần (theo Hegel) hay
Tiến hoá lịch sử (theo Marx). Thiên Chúa đã bị loại ra khỏi thế giới.
2. Như vậy cuộc cách mạng tư tưởng thứ nhất loại Thiên Chúa ra
khỏi triết học. Cuộc cách mạng tư tưởng thứ hai loại luôn cả triết học ra khỏi
lý trí, dưới ảnh hưởng của thuyết ba thể trạng của ông Auguste Comte, nghĩa là
ba trạng thái tiến triển của nhân loại: tôn giáo, triết học, khoa học. Tôn giáo
và triết học (siêu hình) thuộc về quá khứ rồi, khi nhân loại còn ấu trĩ tìm
cách giải thích vũ trụ bằng thần thoại và suy diễn. Bây giờ đã đến thời của
khoa học thực nghiệm. Khoa học thực nghiệm dựa trên giả thuyết, thí nghiệm, kiểm
chứng. Chuyện “đúng” hay “sai” không dựa trên lý luận, nhưng dựa trên kết quả.
Cái gì làm được (khả thi) là đúng, cái gì bất khả thi là không đúng. Không có một
giới hạn nào khác nữa được đặt ra cho các công cuộc thí nghiệm khoa học.
B. Thuyết nhân quyền: chân lý là kẻ thù
của tự do
Trong phương diện luân lý, ông Kant đã nhắn nhủ ta rằng: mình
hãy làm theo điều thâm tín, chứ không phải vì tuân thủ một lệnh truyền. Tuy
nhiên, ông Kant muốn nói đến những luật lệ do con người đặt ra (dù là Nhà Nước
hay Giáo Hội). Dù sao, ông còn chấp nhận có Thiên Chúa, hay ít ra, là tin ở
tính khách quan của lý trí.
Về sau, những chủ thuyết tự do cảm hứng từ J.J. Rousseau thì
dành cho lương tâm sự quyết định tuyệt đối. Mình quyết định theo thâm tín của
mình, chứ không buộc theo quy tắc nào hết. Tự do mà còn bị ràng buộc bởi luật lệ
thì còn gì là tự do? Jean Paul Sartre đã đẩy quan điểm tự do này đến cùng cực,
một thứ tự do phi lý trí (Bài số 3).
III. CHÂN LÝ KITÔ GIÁO
Qua hai phần vừa trình bày, chúng ta thấy rằng ngày hôm nay việc
tuyên xưng chân lý gặp trở ngại về thực hành là tình trạng đa nguyên, và vấn nạn
lý thuyết là thuyết tương đối. Trong phần thứ ba, chúng ta phải tìm cách trả lời
cho câu hỏi: làm thế nào tuyên xưng chân lý Kitô giáo trong bối cảnh ấy? Câu trả
lời khởi đầu từ khía cạnh lý thuyết, xét lại những khái niệm về chân lý và chân
lý Kitô giáo, để đi đến khía cạnh thực hành: làm cách nào làm chứng cho chân lý
Kitô giáo?
A. Chân lý là gì?
Hẳn chúng ta còn nhớ câu hỏi mà quan tổng trấn Philatô đặt cho Đức
Giêsu: “chân lý là gì?” (Ga 18,38). Câu hỏi còn bỏ ngỏ, không biết tại vì ông
Philatô không muốn nghe, hay tại vì Chúa Giêsu không muốn đáp.
Thoạt tiên, xem ra khó định nghĩa “chân lý là gì”;[3] nhưng trên thực tế, nó đơn giản quá mức
tưởng tượng. Thực vậy, khi ai nói rằng: “trên đời này không có chân lý” thì tối
thiểu người đó mặc nhiên chấp nhận rằng có một chân lý, đó là “điều tôi nói là
đúng”! Quả vậy, đời nào ai lại la hét khản cổ: “tôi nói sai?” Ai cũng muốn được
người khác nhìn nhận rằng “tôi nói đúng”, nghĩa là chân lý về phía tôi. Bởi vậy,
nếu tôi nói rằng “trên đời này không có chân lý” tức là tôi tự mâu thuẫn với
chính mình, chẳng khác gì nói rằng: “thưa quý vị, trên đời này không có chân lý
đâu, quý vị đừng nghe tôi làm gì cho mệt óc!”.
Một cách tương tự như vậy, khi ai đó chủ trương rằng: “trên đời
này không có cái gì là tuyệt đối; tất cả đều là tương đối”, thì ông ta đã tự
mâu thuẩn ở một điểm, đó là ông không dám nhận rằng cái thuyết tương đối của
ông cũng chỉ có giá trị tương đối thôi, chứ làm sao tuyệt đối được! Thực tế cho
thấy rằng các nhà chủ trương thuyết tương đối đều muốn bắt buộc hết mọi người
phải tuân theo định luật của họ, và như thế là họ đã tuyệt-đối-hoá cái thuyết
tương đối.[4]
Bước sang lãnh vực luân lý, khi ai chủ trương rằng tự do có
nghĩa là mình muốn làm gì cũng được, bất cần chân lý, thì hãy coi chừng kẻo tự
mâu thuẫn. Một đàng, chúng ta biết rằng khả năng của con người bị giới hạn,
không ai có thể làm được bất cứ điều gì mình thích đâu! Đàng khác, vì sống
trong xã hội, tôi phải tìm cách dung hoà tự do của tôi với tự do của người
khác: tôi phải tôn trọng tính mạng, tài sản của họ, chứ không thể nào tôi cứ tự
tiện đòi giết người cướp của; và dĩ nhiên tôi không muốn cho họ tự tiện ăn cướp
hay giết tôi. Như vậy, gián tiếp tôi phải chấp nhận rằng cần có một quy luật ấn
định điều tốt điều xấu, điều gì được phép làm và điều gì không được phép làm. Dựa
vào đâu để xác định điều được phép và điều không được phép làm? Phải chăng dựa
trên ý kiến của đa số, hay ý kiến của thiểu số nắm quyền lực? Kinh nghiệm đau
thương dưới các chế độ độc tài cho thấy rằng những người phủ nhận chân lý không
phải bởi vì họ muốn bảo vệ tự do của con người nhưng là để áp đặt ý thức hệ của
họ. Chế độ phát-xít Đức tự cấp cho mình quyền sát sinh người Do thái, các chế độ
mác-xít cũng tự ban cho mình quyền khai trừ những thành phần nào làm cản bước
tiến của xã hội chủ nghĩa; chế độ tư bản ngày nay cũng dành quyền khai trừ
không những là những kẻ bị xếp vào hàng khủng bố, mà cả các thai nhi, các người
già lão, vì những người này không có lợi gì cho nền kinh tế! Nói khác đi, họ
thay thế tiêu chuẩn lượng định hành vi, từ cái “đúng / sai”, sang chỗ “lợi / hại”:
điều này có lợi hay có hại cho tôi? (Bài số 9).
Chúng ta cũng biết rằng Hiến pháp các quốc gia dân chủ đều mở đầu
bằng tuyên ngôn nhìn nhận các quyền tự do của công dân, hay còn gọi là “nhân
quyền” hay “dân quyền”. Nhưng một câu hỏi thường được nêu lên mà không ai trả lời
nổi là: nguồn gốc của nhân quyền do đâu mà có? Phải chăng là do Nhà nước ban cấp?
Nếu Nhà Nước cấp nhân quyền thì Nhà Nước có quyền lấy lại. Nhưng nếu nhân quyền
bắt nguồn từ một nguyên lý cao hơn Nhà Nước, thì chính nguyên lý đó sẽ phê phán
hành vi của Nhà Nước. Nguyên lý đó được gọi là Công Lý, chẳng qua cũng là một
danh xưng khác của Chân Lý mà thôi.
Luôn tiện nên ghi nhận một sự phân tích của hồng y Ratzinger về
nguồn gốc của thuyết mác-xít (trong bài thuyết trình số 3). Thuyết mác-xít phản
ứng lại quan niệm tự do rừng rú của các nước tư bản, trong đó chỉ một thiểu số
thống trị một đa số nghèo túng. Thuyết mác-xít chống lại tự do của thiểu số tư
bản bằng cách đưa ra một quan niệm mới về tự do: tự do cho tất cả mọi người, tự
do cho toàn thể nhân loại (một xã hội không giai cấp). Nhân dân phải vùng lên
dành lại tự do. Chủ thể của tự do là nhân dân, là tập thể, vì thế các cá nhân cần
biết hy sinh tự do của mình. Dù sao, chúng ta cũng đừng quên là trong quan điểm
của Marx, đích điểm của cuộc tiến hoá lịch sử không phải là Thiên Chúa của các
tôn giáo hay Tinh Thần của Hegel mà là Vật chất. Quy tắc hành động không do
luân lý xác định, nhưng thay đổi tuỳ theo hoàn cảnh thời thế (bài số 8).
Những nhận xét vừa rồi buộc chúng ta phải nói ngược lại: con người
có nhu cầu muốn biết chân lý, (cũng tựa như người mù mong tìm được ánh sáng);
con người tự do cũng cần có một quy chuẩn xác định đâu là điều tốt, đâu là điều
xấu. Con người khát khao chân lý, khát khao công lý. Liệu có thể tìm được chân
lý không? Câu trả lời của Kitô giáo là: có, chân lý đã được Thiên Chúa trao tặng
cho con người. Thiên Chúa đã mặc khải chân lý, đặc biệt nơi Đức Giêsu Kitô. Đến
đây chúng ta bước mục kế tiếp: Chân lý Kitô giáo.
B. Chân lý Kitô giáo là gì?
Nói đến chân lý Kitô giáo, chắc rằng nhiều người liên tưởng ngay
đến các tín điều, bộ sách Giáo lý Hội thánh Công giáo: tất cả chân lý nằm trong
bộ sách đó rồi; tất nhiên, ai không chấp nhận là sai lầm. Vấn đề không đơn giản
như vậy. Kitô giáo không phải là một ý thức hệ hoặc một triết thuyết, nhưng là
một tôn giáo. Chân lý Kitô giáo bao hàm nhiều khía cạnh. Trong bài thuyết trình
tại đại học Sorbonne năm 1999 (bài số 5), hồng y Ratzinger lấy một thí dụ từ
tác phẩm hộ giáo De vera religione
(luận về đạo thật) của thánh Augustinô để phân tích chân lý Kitô giáo.
1/ Trong tác phẩm này, thánh Augustinô đã đối chiếu Kitô giáo với
ba thứ tôn giáo thịnh hành trong xã hội cổ thời (nghĩa là Hy-lạp La-mã), dựa
theo sự phân tích ba hạng theologia của triết gia Rôma Marcus Terentius Varro
(116-27 trước công nguyên): theologia mythica, civilis (politica), naturalis
(physica).
a) Theologia mythica: tín ngưỡng thần thoại của các thi sĩ,
được diễn tả qua nghệ thuật sân khấu.
b) Theologia civilis : tín ngưỡng của nhân dân, nghĩa là tín
ngưỡng dân gian, chú trọng đến các việc cúng tế hội hè.
c) Theologia naturalis: các triết gia suy tư về bản chất các
thần linh, khởi từ việc quan sát thiên nhiên (natura). Tuy nhiên đối với các
triết gia, các thần linh chỉ là đối tượng của tư duy về nguồn gốc vũ trụ, chứ
không đưa đến sự phụng thờ; tệ hơn nữa, triết học có thể dẫn tới sự bài trừ các
huyền thoại và các mê tín của nhân dân.
Điều lý thú là thánh Augustinô xếp Kitô giáo vào loại thứ ba
(theologia naturalis), bởi vì bao hàm sự mặc khải của Logos (chân lý, chứ không
phải là huyền thoại); nhưng khác với các triết gia Hy-lạp, Kitô giáo còn hàm ngụ
sự thờ phượng và đời sống luân lý nữa. Chính nhờ chân lý mà Kitô giáo có thể vượt
lên các thần thoại, mê tín và tiếp nhận các tinh hoa của các tôn giáo khác.
Kitô giáo là đạo thật bởi vì Thiên Chúa được mặc khải trong Cựu ước cũng là
Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ mà các triết gia Hy-lạp tìm kiếm. Trước thánh
Augustinô, thánh Giustinô, một triết gia trở lại đạo (+167), cũng đã trình bày
Kitô giáo như một triết học, theo nghĩa là tôn giáo này không phải là thứ mê
tín dị đoan, nhưng chứa đựng chân lý, có khả năng đối thoại với mọi người. Dù
sao, Thiên Chúa của Kitô giáo khác với Thượng đế của triết học, bởi vì Ngài ở
trên thế giới nhưng đồng thời Ngài đi vào lịch sử để gặp gỡ con người. Con người
có thể gặp gỡ Ngài nhờ lòng tin và kinh nguyện. Thiên Chúa cũng cho con người
biết điều gì là tốt. Kitô giáo bao hàm vừa chân lý, vừa phụng tự, vừa luân lý.
2/ Hai năm trước đó (1997), trong bài bài thuyết trình trước Hàn
lâm viện Tôn giáo và Luân lý tại Paris (bài số 4), hồng y Ratzinger dùng một mô
hình khác để phân loại các tôn giáo hoàn cầu: các tôn giáo “hữu thần” (théiste)
và “huyền bí” (mystique).
Dĩ nhiên là Kitô giáo được xếp vào các tôn giáo “hữu thần”, nếu
đối chiếu với các tôn giáo “huyền bí” của Ấn giáo. Thừa hưởng truyền thống Do
thái, Kitô giáo tuyên xưng một Thiên Chúa khác biệt với vũ trụ. Điều này giúp
cho con người không những có thể tiếp xúc đối thoại với ngài nhờ kinh nguyện,
mà còn có thể gặp gỡ các thụ tạo khác (cách riêng là những con người khác), như
là những chủ thể. Mặt khác, Kitô giáo không thiếu chiều kích huyền bí, bởi vì
con người được kêu gọi được quay về nội tâm của mình, cùng với việc thờ lạy mầu
nhiệm khôn tả của Thiên Chúa. Thực vậy, Kitô giáo đã có chân lý, nhưng chưa nắm
hết chân lý sung mãn: Thiên Chúa vượt quá tầm mức hiểu biết và diễn tả của con
người.
3/ Như vậy khi nói đến chân lý Kitô giáo, có thể hiểu về ba điểm
căn bản như sau:
a) Kitô giáo là một chân lý, một
logos, chứ không phải là cảm tình vu vơ. Như sẽ thấy sau, đây là nền
tảng cho cuộc đối thoại với mọi người, dù thuộc văn hoá hay tín ngưỡng nào đi nữa.
Cuộc đối thoại dựa trên lý trí, nghĩa là bản tính con người: con người hãy gắng
hành động hợp với lý trí, với lẽ thật (recta ratio).
b) Kitô giáo mang một chân lý về
Thiên Chúa: Thiên Chúa
không đồng hoá với thiên nhiên, hay trật tự bất biến của vũ trụ. Thiên Chúa
cũng không phải là một quyền lực hay thần linh thịnh nộ. Thiên Chúa đã mặc khải
như một kẻ gần gũi với con người, như là một chủ thể mà tôi có thể thưa chuyện.
Cách riêng, Thiên Chúa đã biểu lộ khuôn mặt đích thực của mình nơi đức Giêsu
Kitô. Ngài không phải là một Thiên Chúa thống trị, nhưng là một Thiên Chúa yêu
thương, khiêm hạ, phục vụ. Qua mầu nhiệm Tử nạn và Phục sinh của đức Kitô,
Thiên Chúa mang lấy những nỗi đau khổ của chúng ta, chia sẻ cuộc sống chúng ta,
và mở đường cho con người đến sự sống vĩnh cửu (Bài số 7).
c) Kitô giáo mang một chân lý về con
người. Thiên Chúa tạo
dựng con người vì yêu thương con người. Thiên Chúa dựng nên con người cho Thiên
Chúa. Đây là nền tảng của phẩm giá con người: con người không phải là một dụng
cụ được sản xuất cho cho một mục tiêu khác. Không ai được phép đối xử người
khác như một đồ vật thí nghiệm. Điều này không những đòi hỏi phải tôn trọng mạng
sống con người, dù là bào thai hay người tàn tật, nhưng còn tôn trọng phẩm giá
con người (loại trừ mọi thứ khai thác bóc lột). Đi xa hơn nữa, chân lý về con
người đòi hỏi liên đới với những con người dốt nát, nghèo khổ, bệnh tật, tạo
cho họ điều kiện sống xứng với nhân phẩm.
Trên thực tế, lịch sử đã cho thấy chân lý về con người đã giúp bảo
vệ những thành phần yếu ớt trong xã hội khỏi sự đàn áp của bạo quyền. Kitô giáo
chủ trương rằng bên trên luật pháp của quốc gia còn có luật Trời nữa. Nhân phẩm
của con người dựa trên bản tính con người, chứ không do xã hội ban cấp.
Vì thế, khi mở rộng đến Thiên Chúa, con người mở rộng ra cõi vô
biên (thay vì bị nhốt trong cái cũi của cái tôi), vươn đến chân lý và tình yêu
tuyệt đối. Nói khác đi, chân lý không trái ngược với tự do, nhưng còn giúp cho
con người sống tự do đích thực, bởi vì sống hòa hợp với lý tính của mình chứ
không theo dục vọng. Lên cao hơn nữa, mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi cho ta thấy
thế nào là sống (tự do” đích thực: sống tự do có nghĩa là sống “cho” (Cha), sống
“bởi” (Con), sống “với” (Thánh Thần) nhau (bài số 3).
C. Tuyên xưng chân lý và đối thoại
Kitô giáo vừa là chân lý, vừa là yêu thương, vừa là phụng thờ, vừa
là hành động. Việc tuyên xưng chân lý Kitô giáo bao hàm nhiều lãnh vực, chứ
không riêng gì khía cạnh trí thức hiểu biết. Tuy nhiên, vì thời giờ eo hẹp,
chúng tôi chỉ xin giới hạn vào một vấn đề: làm thế nào dung hoà tuyên xưng chân
lý với đối thoại?
Không ít người nghĩ rằng việc tuyên xưng chân lý làm cản trở cuộc
đối thoại với các tôn giáo: nó đưa tới thái độ bất bao dung, cuồng tín. Hồng y
Ratzinger đã hơn một lần trả lời cho vấn nạn này, đặc biệt khi bàn đến những cuộc
xung đột hiện nay tại miền Trung đông. Nhiều người không ngần ngại đặt tên cho
nó là một cuộc thánh chiến, hay một cuộc đụng độ giữa hai tôn giáo độc thần
(Kitô giáo và Hồi giáo). Tuy nhiên, đây là một cái nhìn quá giản lược. Một
đàng, ngay cả các lãnh tụ các quốc gia Hồi giáo cũng sợ những nhóm cuồng tín nữa.
Đàng khác, đây không phải là cuộc đụng độ giữa Hồi giáo và Kitô giáo, nhưng là
giữa những người muốn bảo vệ những giá trị văn hoá cổ truyền của Hồi giáo, chống
lại chủ nghĩa duy vật vô thần (và vô luân) của Tây phương. (Chủ nghĩa duy vật
vô thần nói đây không phải là chủ nghĩa mác xít cho bằng chủ nghĩa tục hoá và kỹ
thuật của các nước tư bản).
Tuy nhiên, nếu chúng ta hiểu “chân lý” theo đúng nghĩa của nó,
thì nó không làm cản trở nhưng còn thăng tiến cuộc đối thoại tôn giáo. Thực vậy,
đối thoại (dialogus) giả thiết một sự trao đổi về “logos”. Mỗi bên phát biểu
cái logos của mình, và lắng nghe bên kia. Kitô giáo không thể nào đối thoại nếu
thiếu logos. Kitô giáo tin rằng mọi người đều muốn đi tìm logos, và sẵn sàng cởi
mởi đến logos, bởi vì xét cho cùng, logos phù hợp với bản tính và khát vọng của
con người.
Phần lớn các bài thuyết trình được trưng dẫn trong thư tịch nhằm
đến cuộc đối thoại với những khuynh hướng vô tri vô thần tại châu Âu hơn là các
cuộc đối thoại với các tôn giáo ở các đại lục khác. Tuy nhiên, thiết tưởng nên
ghi nhận nhiều điều hữu ích cho chúng ta, những người sống tại Á châu (đặc biệt
là các bài thuyết trình số 1 và số 4).
Việc tuyên xưng chân lý Kitô giáo giúp cho công cuộc đối thoại
(kể cả với người vô thần) bởi vì Kitô giáo có logos, nghĩa là có một học thuyết,
một triết lý: điều này giúp cho chúng ta trao đổi với những người đang truy tầm
chân lý. Giả như Kitô giáo chỉ là một mớ cảm nghiệm thần linh mà thôi, thì nó sẽ
mang tính cách chủ quan, chứ không thể nào vươn đến tầm phổ quát được.
Trên thực tế, trải qua lịch sử, Kitô giáo đã có khả năng đối thoại
với các nền văn hoá thế giới. Kitô giáo không phải là một tôn giáo của châu Âu.
Nó ra đời tại vùng Á châu, và trong những thế kỷ đầu tiên, nó phát triển mạnh tại
Á châu cũng như tại Âu châu. Sự bành trướng Kitô giáo tại Á châu đã bị chặn lại
khi miền này rơi vào tay Hồi giáo. Hơn thế nữa, chúng ta cũng đừng nên quên rằng
Kinh thánh (Cựu ước và Tân ước) phản ánh vết tích của nhiều văn hoá khác nhau
(Do thái, Ai cập, Hittit, Sumeria, Babylonia, Batư, Hylạp) (bài thuyết trình số
1).
Xét vì Kitô giáo là logos, chân lý, nó có khả năng để phê bình
tôn giáo, tránh cho nó khỏi rơi vào tình trạng mê tín, cuồng tín. Sự phê bình
này không chỉ nhắm đến các tôn giáo khác mà áp dụng ngay cả cho chính các Kitô
hữu, khi mà còn tồn tại nhiều lối sống, phong tục không phù hợp với chân lý.
Chúng ta đừng quên rằng chân lý (sự thật) không chỉ đối nghịch với sai lầm mà
còn đối nghịch với giả dối nữa, và Lời Chúa không ngừng kêu gọi chúng ta hãy cải
hoán, thay đổi não trạng (metanoia).
Đối thoại không có nghĩa là ù lì, mỗi người giữ nguyên trạng
thái của mình. Làm như thế là “bảo thủ”, ngoan cố. Điều này không chỉ áp dụng
cho việc đối thoại với các tôn giáo mà cả với triết học, khoa học nữa.
Ngày nay, tất cả mọi người (cách riêng là các tôn giáo) có trách
nhiệm đối thoại hợp tác với nhau để xây dựng hoà bình (trước hiểm hoạ chiến
tranh), công lý (trước những tranh chấp giữa những người giàu và người nghèo),
bảo vệ môi sinh (trước những khai thác bừa bãi của kỹ thuật). Tuy nhiên, hồng y
Ratzinger đã lưu ý đến một sự nhận xét của cha J. A. Cuttat[5]: có người mời gọi chúng ta
hãy khước từ đức tin của mình đi, để tiến tới một tôn giáo hoàn cầu (đây là một
thủ đoạn xảo quyệt của ma quỷ, và chắc chắn không thể nào thực hiện được); điều
mà chúng ta cần nhắm tới là van xin cho hết mọi người được đoàn kết yêu thương
nhau trong tình yêu của Thiên Chúa.
Kết luận
Phải tuyên xưng chân lý Kitô giáo như thế nào?
Từ đầu đến giờ, chúng ta mãi bận tâm với việc tuyên xưng Kitô
giáo trước mặt thế giới đa nguyên, tìm cách trình bày Kitô giáo cho những người
không cùng quan điểm với mình. Nhưng chúng ta đừng nên quên bổn phận của chúng
ta đối với chân lý Kitô giáo. Trước khi nói đến việc rao giảng chân lý cho thế
giới, cần phải nói đến thái độ của chúng ta đối với chân lý. Thực vậy, chúng ta
có nghĩa vụ phụng sự chân lý và để cho chân lý chất vấn chúng ta. Thời giờ
không cho phép kéo dài hơn, vì thế chỉ xin trích dẫn hai đoạn nằm ở kết luận
hai bài thuyết trình cuối cùng của hồng y Ratzinger.
Trước hết, chúng ta hãy nghe đoạn kết luận của buổi thuyết trình
tại Subiaco ngày 1/4/2005 (một ngày trước khi đức thánh cha Gioan Phaolô II qua
đời)
“Vào thời buổi lịch sử này, điều mà chúng ta đang cần hơn cả là
những con người, nhờ một đức tin sáng suốt và sống động, có thể làm cho Thiên
Chúa khả tín trong thế giới này. Chứng tá tiêu cực của những Kitô hữu nói về
Thiên Chúa và sống trái nghịch với Chúa đã làm cho hình ảnh Thiên Chúa thành mờ
tối và mở cửa cho thái độ vô tín ngưỡng. Chúng ta cần đến những người có đôi mắt
nhìn cắm vào Chúa để có thể hiểu được loài người. Chúng ta cần những người với
trí tuệ được soi sáng nhờ ánh sáng của Thiên Chúa, với con tim được Thiên Chúa
mở ra, ngõ hầu trí tuệ của họ có thể nói với trí tuệ của người khác, ngõ hầu
con tim của họ có thể mở ra tới con tim của người khác. Duy chỉ nhờ những con
người đã được Chúa chạm tới thì Chúa có thể đến gần gũi con người, tựa như
thánh Biển Đức”.
Bài kết luận thứ hai, trích từ bài giảng thánh lễ trước khi bầu
cử giáo hoàng (ngày 18/4/2005), do đức hồng y Ratzinger chủ tọa trong tư cách
niên trưởng hồng y đoàn. Khi chú giải bài đọc trích từ thư gửi Ephêsô 4, 11-16
(“Chúng ta sẽ không còn là những trẻ nhỏ, bị sóng đánh trôi theo mọi chiều gió
đạo lý ... những sống theo sự thật và trong tình bác ái, chúng ta sẽ lớn lên về
mọi phương diện, vươn tới Đức Kitô vì Người là đầu”), ngài nói:
Chúng ta đã chứng kiến biết bao nhiều
luồng gió, bao nhiêu ý thức hệ, bao nhiêu luồng tư tưởng... Macxit, tự do, tập
thể, vô tri, thần bí... Còn chúng ta, chúng ta có một tiêu chuẩn khác: đức Kitô
là Con Thiên Chúa, và là con người thực sự. Đức tin trưởng thành là một đức tin
không bị lôi cuốn theo phong trào, thời trang; đức tin trưởng thành là đức tin
cắm rễ trong tình bạn hữu với Chúa Kitô. Chính tình bạn này mở cho chúng ta thấy
cái gì là tốt và cho chúng ta tiêu chuẩn để phân biệt điều đúng điều sai, chân
lý và phỉnh gạt... Thánh Phaolô đã cống hiến một công thức tuyệt đẹp: làm chân
lý trong bác ái. Trong đức Kitô, chân lý và bác ái đồng tụ với nhau. Trong mức
độ chúng ta tiến lại gần đức Kitô thì chân lý và bác ái cũng sẽ quyện với nhau
trong cuộc đời chúng ta. Bác ái không có chân lý thì mù quáng; chân lý mà không
có bác ái thì chỉ là “thinh la inh ỏi” (1 Cr 13,1). Chúng ta hãy để cho mình bị
ám ảnh bởi một nỗi thao thức: thao thức muốn mang lại cho hết mọi người hồng ân
đức tin, tình bạn với Đức Kitô. Thực vậy, tình yêu, tình bạn với Thiên Chúa được
ban cho chúng ta để được mang đến cho người khác. Chúng ta đã lãnh nhận đức tin
để trao tặng cho người khác. Và chúng ta phải mang về hoa trái còn tồn tại (x.
Ga 15,16). Ai ai cũng muốn để lại một dấu vết tồn tại mãi. Nhưng cái gì tồn tại
mãi được? Tiền bạc ư? Không. Các nhà cửa cũng không tồn tại; sách vở cũng không
tồn tại. Sau một thời gian, dài ngắn hơn kém, tất cả những cái đó sẽ không tồn
tại. Điều duy nhất tồn tại mãi mãi là linh hồn con người, con người được Chúa dựng
nên cho vĩnh hằng. Vì thế hoa trái tồn tại là điều mà chúng ta đã gieo vào lòng
con người - tình yêu, sự hiểu biết; một cử chỉ có sức lay động trái tim, một lời
nói mở cửa cho linh hồn được hưởng niềm vui của Chúa.... Chỉ có như vậy trái đất
mới có thể biến đổi từ vũng nước mắt thành hoa viên của Chúa.
Thiết tưởng những lời ấy đủ để giải thích vì sao, khi thụ phong
giám mục, ngài đã chọn khẩu hiệu “cooperatores veritatis” (cộng sự viên của
chân lý: 3 Ga 8), khi đắc cử giáo hoàng, ngài đã chọn danh hiệu là Bênêđictô,
và vì sao thông điệp đầu tiên mang tựa đề “Deus caritas est”. Như đã nói ở đầu,
chúng tôi chỉ dừng lại ở các bài thuyết trình, phỏng vấn của ngài trước khi đắc
cử giáo hoàng. Những ai muốn tìm hiểu thêm trong giai đoạn tiếp theo có thể
truy cập trên mạng, cách riêng là những bài giảng nhân đại hội giới trẻ vào
tháng 8 năm ngoái tại Cologne, và gần đây hơn cả là cuộc phỏng vấn tại Castel
Gandolfo (ngày 5/8/2006), dành cho các đài phát thanh "Bayerischer
Rundfunk" (ARD); "ZDF"; "Deutsche Welle"; "Radio
Vaticana" trước khi lên đường viếng thăm nước Đức sắp tới (9-14/9).
(*) Bài nói chuyện trên đây đã được
Cha Giuse Phan Tấn Thành, OP. trình bày trong ngày khai giảng niên học
2006-2007 tại TTHVĐM. Thiết nghĩ chúng ta đang ở trong Năm Đức Tin, do đó Học
Viện Đaminh xin được giới thiệu với quý đọc giả.
[1] Tuy nhiên, chúng tôi không trích dẫn
các văn kiện do Bộ phát hành, chẳng hạn như Tuyên ngôn Dominus Iesus
(6/8/2000), hoặc "Nhận định về sự dấn thân và thái độ của các người công
giáo trong đời sống chính trị" (24/11/2002).
[2] Câu chuyện được trích dẫn trong bài số
5.
[3] Chúng ta có thể tìm thấy sự phân tích
khái niệm chân lý trong Huấn thị về vai trò của thần học gia trong Giáo hội
(24/5/1990), bắt đầu bằng hai từ Donum veritatis (quà tặng chân lý), và trình
bày những khía cạnh chân lý từ số 1-8. Ngắn gọn hơn nữa là sách Giáo lý Hội
thánh công giáo, khi giải thích điều răn thứ tám (Chớ làm chứng dối) đã mở đầu
với việc trình bày khái niệm về sự thật và giả dối. Sự thật bao hàm ba lãnh vực:
biết - làm - sống (số 2465-2474).
[4] Tình trạng này được hồng y Ratzinger đặt
tên là “giáo điều của thuyết tương đối” (dogmatism of relativism, bài số 1 và 9)
hay “độc tài của thuyết tương đối” (dictatorship of relativism, bài số 10),
nghĩa là hai bài thuyết trình cuối cùng trước khi đắc cử giáo hoàng.
[5] J. A. Cuttat, Begegnung der
Religionen, Einsiedeln 1956, trích ở chú thích số 11 của bài thuyết trình số 4.