CHỨNG MINH SỰ HIỆN HỮU CỦA
THIÊN CHÚA
Vấn Đề 09: Bạn là người công giáo, nghĩa
là bạn tin có Thiên Chúa. Vậy bạn hãy chứng minh có Thiên
Chúa đi xem.
ĐÁP:
1.LỜI CHÚA: “Trời xanh tường thuật
vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp tay Ngài” (Tv 18,2).
2.SUY NIỆM:
Khoa học không bàn đến vấn đề Thiên Chúa, không thể quả quyết có
Thiên Chúa hay không, vì đây không thuộc lãnh vực nghiên cứu tìm hiểu của nó.
Tuy nhiên Khoa học vẫn có thể giúp các tín hữu chúng ta dễ dàng nhận biết sự hiện
hữu của Thiên Chúa nhờ những khám phá của nó về vũ trụ thiên nhiên, về những định
luật chi phối hoạt động của các sinh vật và nhất là loài người, những sự điều
tra khách quan về các hiện tượng lạ thường trái với định luật thiên nhiên cho
thấy có sự can thiệp của một quyền lực siêu nhiên… như sau:
I.VŨ TRỤ MINH CHỨNG CÓ THIÊN CHÚA
1.Đại vũ trụ minh chứng có
Thiên Chúa:
Mở mắt nhìn xung quanh, ta thấy vũ trụ bao la vô hạn. Khoa học giúp chúng ta hiểu rõ các hiện tượng và
sức chuyển động trật tự của mọi vật trong đó. Với con mắt thường, ta có
thể đếm được khoảng 5000 ngôi sao lấp lánh trên bầu trời bao la. Nhưng nhờ viễn vọng kính đặt trên núi
Những vì tinh tú to lớn làm sao, mấy hành tinh ở gần chúng ta như
Uranus đã lớn hơn trái đất 14 lần, Neptune to hơn 17 lần, Saturne 93 lần,
Jupiter 1279 lần, và mặt trời to hơn những 1.300.000 lần. Sao Sirius còn to hơn
mặt trời 12 lần, còn nhiều sao khác còn to hơn sao Sirius nữa…
Những vì tinh tú ở cách xa nhau đến nỗi ta không thể đọc bằng con số
thường, mà phải lấy đơn vị là quang niên (năm ánh sáng) như sau: Vận tốc ánh
sáng trong một giây đồng hồ là 299.792.458km, tương đương 300.000 km/ giây. Mỗi
phút có 60 giây, mỗi giờ có 60 phút, mỗi ngày có 24 giờ, mỗi năm có 365 ngày ¼.
Vậy một quang niên sẽ là 299.792.458km x 60 x 60 x 24 x 365,1/4
sẽ thành 9460 tỷ cây số. Ánh sáng từ mặt trời đến trái đất chúng ta phải mất thời
gian 8 phút 20 giây, từ trái đất đến mặt trăng phải mất hơn 1 phút. Nhưng nếu từ
trái đất vượt qua thái dương hệ đến ngôi sao gần nhất trong chòm sao Nhân Mã phải
mất thời gian 4 năm (4 quang niên ). Nhờ thiên lý kính ta biết được những tinh vân xa 140 triệu quang
niên. Càng ngày với những kính viễn vọng kính tối tân
hơn, người ta lại càng xem thấy xa hơn nữa.
Trái đất mỗi ngày quay chung quanh mình một vòng, đang khi nó vẫn
chạy theo quỹ đạo mặt trời với vận tốc 30 km/giây, hoặc 108 ngàn km/giờ không
bao giờ sai trật, đến nỗi các nhà bác học có thể tính trước được ngày giờ của
các hiện tượng nhật thực, nguyệt thực.
Bầu trời rộng rãi bao la vô hạn thế mà mấy phi công lái máy bay thỉnh
thoảng lại đụng nhau gây nên biết bao tang tóc! Vậy mà từ tạo
thiên lập địa đến nay vẫn chưa có một hành tinh nào chạm nhau giữa bầu trời nhiều
tinh tú như thế.
Vậy thì vũ trụ bao la với trật tự kỳ diệu, tuân theo
những định luật lạ lùng chính xác như thế lại không phải là bằng chứng chắc chắn
có sự sắp đặt an bài của Đấng Tạo Hóa hay sao? Becquerel đã nói: “ Chính các công cuộc khảo cứu khoa học của tôi đã đưa tôi đến
chỗ nhận biết có Thiên Chúa tạo hóa và làm cho tôi có đức tin.”
2.Tiểu vũ trụ cũng chứng minh có
Thiên Chúa:
Vũ trụ tinh tú khổng lồ thật là một kỳ công. Nhưng vũ trụ nguyên tử tý hon cũng không kém phần
lạ lùng kỳ diệu. Nếu đem phân tích vật chất, ta sẽ thấy như sau:
-Đơn chất: Mọi vật chất trong vũ trụ thiên nhiên đều được cấu thành bởi những
đơn chất. Chẳng hạn: Cái bàn do nhiều đơn chất gỗ
hợp lại thành. Chiếc nhẫn là do nhiều đơn chất vàng cấu tạo nên… Những đơn chất
này rất nhỏ, nhỏ đến nỗi mắt thường của chúng ta không thể phân biệt được chúng
với nhau.
-Nguyên tử: Mỗi đơn chất nói trên lại được cấu tạo bởi một số nguyên tử nhất định.
Chẳng hạn: Chất nước gồm một nguyên tử Ôxy và 2 nguyên tử Hyđrô kết hợp thành
đơn chất H2O.
Các nguyên tử đều khác nhau tùy theo mỗi vật:
nguyên tử đồng khác nguyên tử sắt; nguyên tử vàng khác nguyên tử gỗ…Những
nguyên tử này ở rải rác khắp nơi trong vũ trụ, khi thì kết cấu với cái này, khi
thì với cái khác làm thành sự biến hóa vật chất không ngừng trong thiên nhiên.
Ta có thể ví các nguyên tử giống như 24 chữ cái a,b,c…hợp
tan, tan hợp, làm thành các tiếng. Đến nay các nhà bác học đã
xác định được 92 nguyên tử khác nhau.
Nguyên tử nhỏ lắm, nhỏ đến nỗi những kính hiển vi
phóng đại mạnh nhất cũng không thể nhìn ra được. người
ta chỉ căn cứ vào dấu vết nó đi qua để nhận biết sự hiện hữu của nó. Hiện nay
những kính hiển vi tối tân nhất có thể nhìn những vât
nhỏ bằng 2 phần 10 triệu milimét. Nhưng như thế vẫn còn lớn hơn nguyên tử hằng
mấy triệu lần!
Mỗi nguyên tử là một thái dương hệ, có một nhân ở trung tâm
giống như mặt trời, gồm các dương điện tử (Proton) và trung hòa tử (Neutron)
liên kết với nhau. Lượn chung
quanh nhân là chi chít những âm điện tử (Electron). Các âm điện tử này chạy chung quanh trung tâm với tốc độ 297.000km/giây. Thật không
khác gì các hành tinh lượn chung quanh mặt trời và
cách xa nhau tương đối cũng bằng khoảng cách của các hành tinh đối với mặt trời
vậy.
Khoảng giữa các nguyên tử, có gì không? Thực không có gì hết. Nếu các nguyên tử
sát lại với nhau thì ta không thể nâng nổi đầu của một cái kim
khâu. Trọng lượng của các vật nặng nhẹ khác nhau là vì cách xếp
đặt nguyên tử của các vật đều khác nhau. Nếu người ta có thể dồn ép các
nhân dương điện tử trong một nguyên tử, và các nguyên tử trong thân thể con người
khít lại gần nhau, thì thân thể ta chưa chắc to bằng một hột đậu, mà vẫn cân nặng
như hiện nay!
Có một sức lực ghê gớm đã giữ cho trái đất và các hành tinh quay chung quanh mặt trời, thì cũng có một sức lực tương tự giữ
âm điện tử quay chung quanh trung tâm nguyên tử như vậy. Nếu
lợi dụng được sức mạnh mẽ đó, thì người ta sẽ có một sức mạnh kinh khủng.
Đó là điều các nhà bác học đã làm để chế tác bom nguyên tử với
chất Uranium. (Bom nguyên tử là một thứ khí giới tối tân nhất có sức tàn
phá do những hạt nguyên tử bị tách ra, Radium luôn luôn chiếu ra những quang
tuyến “ A.B.Y” và quang tuyến Y luôn luôn phát ra những
chất cực nhỏ có thể xuyên qua những tấm sắt dầy 20cm. Chỉ có lớp chì dày mới có
thể cản được sức tàn phá của nó).
Những điều nói trên cho ta thấy có sự xếp đặt, an
bài trật tự từ cái cực to đến cái cực nhỏ, trật tự ấy lại rất hoàn hảo không thể
làm khác đi được. Nếu cố tình làm sai thì sẽ gây nên những hậu quả tai hại khôn lường.
Một câu chuyện xảy ra chứng minh trật tự thiên nhiên hoàn hảo đến độ
nào: một con ong dù không có trí khôn, nhưng nó luôn phải bó buộc làm theo bản năng thúc đẩy. Theo bản năng thiên phú, khi làm tổ
chứa mật, ong tự nhiên xây bình chứa hình lục lăng.
Các nhà bác học đã quan sát nghiên cứu cách xây dựng tổ ong, và đã đo rất nhiều
bình do nhiều loại ong thực hiện, bao giờ góc tù của bình ấy cũng là 109028’
và góc nhọn cũng là 70032’.
Nhà bác học REAMUR một ngày kia đặt câu hỏi
thế này: Giả sử muốn làm một cái bình hình lục lăng có khả năng chứa nhiều nước
nhất thì phải làm mỗi góc của bình ấy bao nhiêu độ? Một nhà bác học ra công
tính toán những con tính rắc rối với việc sử dụng cả bảng tính Logarithme, cuối
cùng tuyên bố kết quả: muốn cho bình chứa được nhiều nước nhất phải làm góc tù
là 109026’ và góc nhọn là 70034’. Chỉ
sai biệt với bình chứa của ong làm có 2’.
Thế rồi một ngày nọ xảy ra tai nạn làm hỏng
một chiếc tầu. Thuyền trưởng không chịu trách nhiệm và cho rằng
mình đã làm đầy đủ bổn phận, đã tính toán rất đúng. Vậy sở dĩ có rủi ro
là vì đường vĩ tuyến có sự sai lầm nào đó. Sau khi tìm
tòi lâu ngày, người ta mới khám phá ra rằng trong bảng tính Logarithme có một
chổ sai, khiến vị thuyền trưởng làm tính sai và gây ra tai
nạn cho chiếc tầu. Chữa lại chỗ sai trong bảng tính rồi thử lại với cách tính 2
góc của hình lục lăng nói trên thì các nhà bác học mới
thấy mình đã làm sai 2’. Phải thực hiện chiếc bình theo
góc tù là 109028’ và góc nhọn cũng là 70032’ như con ong
đã làm mới đúng.
Vậy loài ong không có trí khôn biết tính toán như con người, chỉ biết
làm theo bản năng thiên phú, thế mà lại làm đúng hơn cả
những nhà bác học thông minh nhất! Đứng trước sự kiện hiển nhiên ấy, loài người
phải đặt vấn đề: Cái trật tự hoàn hảo trong thiên nhiên nói trên do đâu nếu
không bắt nguồn từ một trí khôn siêu việt, đã từng sáng tạo vạn vật và an bài
theo một trật tự hoàn hảo được gọi là định luật thiên nhiên nơi vũ trụ và bản
năng nơi các sinh vật. Nguyên nhân ấy chính là Thiên Chúa.
II.SINH VẬT CHỨNG MINH CÓ THIÊN
CHÚA:
Sự sống tràn đầy trên mặt đất,
đâu đâu ta cũng nhận thấy có sinh vật hoạt động. Nhưng cho tới nay, sự sống vẫn còn là một huyền nhiệm mà khoa học
bất lực không thể giải thích được lý do. Sự sống sẽ là một điều phi lý nếu người
ta không công nhận có Thiên Chúa:
1.Huyền nhiệm của sự sống:
Sự sống là một cái gì đó huyền bí. Người ta chỉ có thể cảm nghiệm hay thấy được hiệu quả của sự sống,
chứ không thể nhìn được chính sự sống nơi cơ thể một sinh vật sống động. Người ta cũng có thể làm thay hình đổi dạng, cắt cụt một phần cơ thể
con vật, có thể làm cho nảy nở nhanh chóng hơn, hoặc kéo dài them chút ít sự sống,
nhưng không bao giờ có thể thay đổi được nguyên lý của sự sống nơi con vật.
Chẳng hạn: con chó đã được cấu tạo trở thành loài chó, thì không có cách nào
làm cho nó hóa ra loài bồ câu được.
Để tìm hiểu sự sống, các nhà bác học đã
phân chất một quả trứng gà, rồi dùng các chất y như vậy để làm nên một quả trứng
gà khác với đầy đủ mọi tính chất như trứng gà thực. Tuy vậy, dù được cấu tạo giống hệt như nhau, mà khi đem cả hai vào
máy ấp thì trứng gà đẻ ra thì sống và nở ra gà con, còn trứng gà của các nhà
bác học “ đẻ” thì chết và bị hư thối. Sở dĩ trứng nhân
tạo không thể sống, dù các yếu tố vật chất trong quả trứng ấy vẫn hoạt động
đúng theo định luật vật lý hóa học, là vì không có một
sức lực vô hình liên kết các hoạt động ấy theo một hướng chung, phát triển theo
một mô thức chung. Chính sức lực vô hình ấy là bí mật của sự
sống. Bác sĩ ALEXIS CARREL (1873-1944) là nhà giải phẫu và sinh vật học người Pháp đã được trao Giải Nobel Sinh lý và Y khoa năm 1912, đã trình
bày về sự tăng triển kỳ diệu của sự sống từ một tế bào, rồi tế bào ấy tự phát
triển theo một mô thức đặc biệt để trở thành con vật sống động như sau:
“Con vật được cấu tạo bởi những tế bào, cũng giống như cái
nhà được xây dựng bằng những viên gạch. Nhưng con vật xuất phát từ một tế bào
duy nhất, như thể cái nhà chỉ bắt nguồn từ một viên gạch mà thôi. Một viên gạch
đầu tiên tự tạo lấy những viên gạch khác, chỉ với nước suối, những chất muối
hòa tan trong nước vá khí trời. Rồi những viên gạch ấy không cần đến kiến trúc
sư vẽ kiểu, khong cần đến bàn tay của thợ hồ, đã tự động
kết hợp thành những bức tường. Các viên gạch cũng tự động biến
thành các tấm kính để làm cửa, ngói để lợp mái, than để đốt lò, nước để làm bếp.”
(Alexis Carrel : “L’Homme, cet inconnu”- P. 160).
Như vậy thì hình như mầm giống con vật sinh sống đã biết trước
cái nhà mà nó xây dựng. Hiện tượng kỳ lạ ấy diễn ra hằng triệu
lần mỗi ngày cho hằng triệu giống vật sinh sống, cũng như diễn ra âm thầm trong
bụng những con vật mẹ.
Khi nhìn vào sinh vật thượng đẳng là con người chúng ta lại
càng phải thán phục sự tinh vi kỳ diệu và hoàn hảo của
sự sống: hai buồng phổi là một xưởng máy sản xuất dưỡng khí thật hoàn hảo. Dạ
dày là một nhà máy chế biến đồ ăn trở thành chất bổ
nuôi dưỡng cơ thể. Gan là bộ máy phát ra sức nóng và sức chuyển
động. Thận là nhà máy lọc các chất dơ. Trái tim
là thứ máy bơm hai chiều. Óc và hệ thần kinh là nhà máy điện
tử với một hệ thống liên lạc để điều khiển toàn thân. Hai tay là hai cơ quan hành động hữu hiệu. Chân
là cơ quan để di chuyển. Mắt là một thứ máy chụp tự động
tối tân nhất. Tai là đài ra đa sống động. Họng
là máy phát thanh hoàn hảo…Có thể nói: cơ thể sống động của con người thực là một
hiện tượng thần kỳ và khó hiểu nhất trong vũ trụ thiên nhiên, là một kỳ quan lớn
nhất trong các kỳ quan trên thế giới.
Vậy sự sống bí nhiệm lạ lung nơi các
sinh vật từ hạ đẳng đến thượng đẳng nói trên bởi đâu xuất hiện?
2.Nguồn gốc của sự sống:
Nói về nguồn gốc sự sống do đâu mà xuất hiện thì có rất nhiều
giả thuyết khác biệt nhau được nêu ra:
1)Một số người quả quyết sự sống vẫn có ngay từ buổi đầu, ngay từ khi
trái đất bắt đầu thành hình.
Nhưng theo các nhà khoa học thì
trái đất khi mới xuất hiện là một khối lủa có nhiệt độ rất cao ở thể chảy lỏng
rồi phải mất một thời gian dài mới nguội dần. Như vậy, sự sống làm sao có thể chịu nổi sức nóng kinh khủng thuở ban đầu ấy được ? Ông Cuvier, một nhà cổ sinh vật học trứ danh, đã
quả quyết như sau: “Nhất định sự sống không bắt đầu cùng với trái đất. Một nhà
quan sát sẽ dễ dàng nhận biết lúc nào sự sống mới xuất hiện và lưu lại vết tích
dưới các tầng đất của địa cầu”. Vậy lúc đầu tiên không có mà ngày nay ta thấy sự
sống đã tràn lan trên mặt đất. Thế thì sự sống ấy do
đâu mà có nếu phủ nhận sụ sáng tạo của Thiên Chúa ?
2)Có người lại
cho rằng sự
sống ngày nay có được là do các mầm sống từ một nơi nào đó trong vũ trụ rơi xuống
mặt đất, rồi sau đó sinh sôi nảy nở thêm ra và lan rộng ra khắp nơi.
Nhưng nếu thực sự có mầm sống từ không
trung rơi xuống như thế, thì lại phải giải thích cái mầm sống ấy từ đâu ra? Hơn nữa, theo những khám phá mới nhất của
khoa học không gian thì những hành tinh gần chúng ta như Mặt trăng (cũng là một
hành tinh ngang hàng với trái đất chứ không phải phát xuất từ trái đất!), Kim
tinh, Hỏa tinh đều không có dấu hiệu nào
cho thấy có sự sống cả. Đàng khác, nếu có mầm sống rơi như vậy, thì theo các nhà khoa học: mầm sống ấy chắc chắn không thể sống được, mà đã bị các tia phóng
xạ của ánh sáng mặt trời tiêu diệt rồi.
3)Cũng có người lại chủ trương sự sống tự nhiên mà có. Theo họ, trong một
điều kiện nào đó về nhiệt độ và khí hậu… thì vật chất sẽ tự hóa sinh ra các
sinh vật. Chẳng hạn: Cái bàn bằng gỗ sau thời gian ít năm sẽ tự nhiên bị mọt
ăn, hoa quả thối chin sẽ tự nảy sinh ra dòi bọ…
Nhưng thuyết sự sống tự phát sinh này
đã bị Pasteur và Tyndall chứng minh ngược lại. Hai nhà bác học thời danh này đã làm một thí nghiệm cho thấy: không bao giờ có sự tự hóa sinh. Hai ông đã cô lập hóa một vài môi trường mà sự sống thường phát
sinh. Rồi tìm cách loại bỏ, giết chết tất cả các mầm sống
có sẵn trong môi trường ấy. Hai ông cho biết: dù có đủ mọi điều kiện
thích hợp, môi trường bị cô lập kia cũng không bao giờ
tự hóa sinh sự sống nữa. Vậy sở dĩ có trường hợp vật chất hóa
sinh sự sống là vì đã có sẵn mầm sống trong vật chất đó, nên khi đủ điều kiện
nó liền tự nảy nở ra. Thực sự không có vấn đề ngẫu sinh hay tự hóa sinh
cả.
Ngoài ra, tất cả những thí nghiệm nhằm tạo nên tế bào sống đều thất bại. Một vị giáo sư sinh vật học nọ một ngày kia
đã thử làm một hạt giống nhân tạo. Ông phân chất một hạt giống
thật, rồi dùng những chất liệu như vậy để chế tạo ra một hạt giống khác.
Sau một thời gian quan sát, ông nhận xét: hạt giống nhân tạo cũng mọc lên, có rễ,
có thân, nhưng vẫn không có sự sống, không thở, không lưu chuyển nhựa sống. Sở
sĩ cây có mọc lên mà không sống là vì thiều hai đặc tính quan trọng của sự sống
là : có tổ chức và tự dinh dưỡng. Còn
sự mọc rễ, mọc thân nói trên cũng chỉ là một hiện tượng vật lý hóa học của các
chất hữu cơ, chứ không có chút dấu vết nào của sự sống thực sự. Bác sĩ
Halluin giải thích them về hiện tượng mọc rễ mọc thân như sau: “Hạt giống mọc
lên thực nhưng núi đá cũng mọc lên mà vẫn không sống, cũng như một quả bóng người
ta thổi hơi vào cũng phình ra mà vẫn không sống, thân cây rong biển khô, được đặt
vào nơi ẩm ướt cũng phình lên to, nhưng sự phồng lên đó không phải dấu của sự sống.”
Nhà bác học Delage đã làm một thí nghiệm về sự thụ thai nhân tạo: ông cho một con hải đởm cái thụ thai mà không
theo cách thức thông thường là giao hợp với con đực. Mượn lấy thí nghiệm ấy, một
số người vô tín đã vội lên tiếng quả quyết: “Loài người đã tạo dựng lên được sự
sống”. Nhưng chính Delage lại phủ nhận quả quyết mà người ta đã gán cho thí
nghiệm của ông như sau: “Khi tôi làm được cho con hải đởm thụ thai và sinh con như thế, người ta kêu ầm ĩ lên rằng: tôi đã
tạo ra được sự sống. Nhưng
thực sự tôi chẳng tạo ra được gì cả. Những ống tiêm của tôi chỉ có thể ảnh hưởng đối với trứng của con vật kia, khi tiêm vào đó một chất hữu cơ. Còn
nói rằng tôi đã tạo ra được sự sống thì thực là lầm to!”
Như vậy, không có vấn đề ngẫu sinh,
không có tự hóa sinh tuyệt đối. Khoa
học không thể làm được một vật sống động nếu không có sẵn một mầm sống trước
đó. Nếu sự sống không tự nhiên có thì phải nhận có sự sáng tạo của một nguyên nhân tối hậu nào đó. Nguyên nhân ấy là Thiên Chúa. Chính Ngài đã sáng tạo sự sống cách trực tiếp hay gián tiếp
bằng cách xếp đặt một trật tự, một định luật trong vật chất, để khi có đủ điều
kiện thì mầm sống ấy sẽ xuất hiện.
Ngoài ra, khi tìm hiểu vũ trụ thiên nhiên, người ta cũng nhận
ra rằng: có một sự xếp đặt nhằm bảo tồn sự sống nơi các định luật thiên nhiên
chi phối sự vận hành của các hành tinh trong vũ trụ.
3. Bảo tồn sự
sống:
Khoa học cho biết: sự sống chỉ có thể tồn tại và phát triển
nếu hội đủ điều kiện về khí hậu, nhiệt độ, ánh sáng…Nếu thiếu một trong các điều
kiện quan trọng thì sinh vật khó long sống được. thế
mà khi quan sát các hiện tượng thiên nhiên, người ta lại đi kết luận chung như
sau: Có một sự xếp đặt nào đó để bảo tồn sự sống trong vũ trụ. Thực vậy:
1)Tốc độ quay của trái đất cũng giúp bảo tồn sự sống: Trái đất hiện đang quay với tốc độ 1600 km/giờ ở đường xích đạo. Nếu quay chậm đi 10 lần, thì ngày và đêm trên địa cầu sẽ dài gấp 10
lần hiện nay. Như vậy một số cây sẽ bị chết khô, số
còn lại sẽ bị chết cóng.
2)Khoảng cách giữa mặt trời và trái đất
cũng giúp bảo tồn sự sống: Nhiệt độ của mặt trời là 5.500
độ. Trái đất cách quãng xa vừa đủ để cho chúng ta được sưởi ấm.
Nếu giảm đi một nửa khoảng cách để xa mặt trời hơn thì mọi sinh
vật sẽ chết vì lạnh. Nhưng nếu them một nửa khoảng
cách để đến gần mặt trời hơn thì mọi vật sẽ bị chết cháy hết.
3)Độ nghiêng của trái đất cũng giúp
bảo tồn sự sống: Trái đất phải ở vị trí hiện nay, nghĩa
là nghiêng 23 độ thì mới có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông và hai cực mới khỏi bị
chồng chất băng tuyết. Nếu nghiêng ở vị trí khác thì mùa màng sẽ thay đổi khác
hẳn, sẽ ảnh hưởng tới sự đâm chồi nảy lộc và đơm bông
kết trái của cây cối.
4)Khoảng cách giữa trái đất và mặt
trăng cũng giúp bảo tồn sự sống: Nếu mặt trăng gần
lại trái đất 80.000 cây số thì mỗi ngày nước biển sẽ bao phủ lục địa 2 lần và sẽ
cuốn trôi mọi vật ra biển.
Như vậy, trước những lý chứng hiển nhiên nói trên, mọi người
có trí khôn đều phải công nhận: phải có
một trí khôn siêu việt và một bàn tay quyền năng nào đó đã tạo dựng nên sự sống
cách trực tiếp hoặc gián tiếp, và đã an bài xếp đặt chúng có những điều kiện
thiên nhiên hoàn hảo như hiện nay. Trí khôn siêu việt và bàn tay
quyền năng ấy chính là Thiên Chúa sáng tạo vậy.
III.LUẬT LUÂN LÝ MINH CHỨNG CÓ
THIÊN CHÚA:
1.Nơi mỗi người đều có luật luân lý:
Ai trong chúng ta cũng đều nghe thấy một
tiếng nói thầm kín khuyên bảo phải làm điều lành và tránh làm điều ác. Đồng thời ta sẽ cảm thấy niềm vui thỏa sau khi
thực hiện được một điều thiện, trái lại sẽ cảm thấy ray rứt bất an nếu cố tình
làm trái tiếng nói thầm kín ấy. Đó là tiếng nói của
lương tâm, một luật tự nhiên vẫn có sẵn trong tâm trí mỗi người từ khi sinh ra.
Luật tự nhiên này có những đặc tính
khác hẳn những định luật vật lý hóa học, hoặc luật lệ xã hội như phong tục tập
quán hoặc luật pháp của quốc gia.
+ Luật lý hóa một khi đủ điều kiện thì đương nhiên phải xảy ra. Chẳng
hạn: lửa gặp rơm khô ngoài khí trời tất nhiên sẽ phải cháy. Còn
luật luân lý thì không những lệ thuộc điều kiện khách quan bên ngoài, nhưng còn
lệ thuộc vào sự lựa chọn chủ quan. Chinh do sự lựa chọn tự do này mà con
người trở thành một loài vật giá trị ưu việt nhất, khác hẳn các loài vật hành động
hoàn toàn do bản năng mù quáng thúc đẩy. Văn hào Chateaubriand đã nói: “Con hổ
xâu xé con mồi rồi ngủ ngay được. Duy chỉ có con người, sau khi đã nhúng máu
thì khó lòng nhắm mắt bình an, vì những hình ảnh báo oán của kẻ bị hại luôn hiện
lên trước mắt y.
+ Luật xã hội do con người trong xã hội quy định gọi là
phong tục tập quán. Luật pháp quốc gia do một số người đại diện có trách nhiệm
thiết lập nên và được ghi chép lại thành văn để mọi người trong quốc gia ấy
tuân giữ. Trong khi luật luân lý vẫn có sẵn trong mỗi người từ
khi sinh ra, chứ không nhất thiết phải có ai dạy mới biết, không được ghi chép
thành văn giống như luật quốc gia ở trên. Thế mà hầu như mọi người không
phân biệt thời đại, dân tộc, quốc gia… cũng đều biết cùng một bộ luật căn bản
giống nhau là: phải làm việc lành và tránh làm điều ác, không được giết người
vô tội, không được ăn cắp hoặc cướp đoạt tài sản của người khác cách bất công,
phải thảo hiếu cha mẹ, trọng kính người trên v.v… Mà nếu cố tình làm trái các
điều trên thì đương nhiên con người sẽ bị lương tâm cáo trách, cho dù các việc
làm ấy không ai hay biết. Câu chuyện Cain trong Thánh Kinh chứng
tỏ điều đó.
Ca-in vì ghen tuông nên đã phạm tội giết đứa em ruột là
A-ben, rồi sau đó đã chạy trốn con mắt lương tâm theo
dõi nhưng không sao chạy thoát. Cuối cùng Ca-in đã phải tự
tìm đến cái chết treo cổ để đền tội. Nhà văn hào Plutarque người Hy lạp
cũng kể câu chuyện nội dung như sau: Một gã kia tên là
Pessus phạm tội giết cha. Dù không ai hay biết việc làm của hắn, nhưng có điều
lạ là từ hôm đó, Pessus luôn nghe thấy những con chim én lặp đi lặp lại: “ mày là thằng giết cha, mày là thằng giết cha!”, dù thực sự
loài én chỉ biết kêu một âm thanh như thường lệ. Hắn tìm cách
phá hết mọi tổ én, nhưng vẫn không xong. Cuối cùng hắn đã buột miệng nói
với người khác rằng những con chim én luôn kêu hắn là kẻ giết cha. Sinh nghi,
người ta mở cuộc điều tra và việc giết cha của hắn đã bị đưa ra ánh sáng.
2.Tiếng
lương tâm hay luật luân lý trong con người: Các câu
chuyện trên cho thấy có một thứ luật luân lý tự nhiên gọi là tiếng lương tâm,
chi phối mọi hành động của con người có trí khôn, thuộc mọi thời đại, mọi dân tộc,
màu da, tiếng nói… Vậy luật ấy do đâu mà có?
1)Nguồn gốc của luật luân lý nơi con
người.
Có một số người nói rằng luật luân lý tự nhiên nơi mỗi người là do
tự mình đặt ra cho mình, hoăc cũng có thể do xã hội giáo dục từ nhỏ rồi nhập
tâm dần dần mà ra. Nhưng khi đi sâu vào việc nghiên cứu tìm hiểu, chúng ta thấy
không phải như vậy vì những lý do như sau:
-Lương tâm mỗi người không phải
tự mình đặt ra: Vì nếu mỗi người tự đặt ra luật cho
mình thì chắc người ta sẽ phải đặt ra những luật dễ giữ và có lợi cho bản thân,
đồng thời sẽ loại bỏ những luật có hại cho bản thân mình. Nhưng luật luân lý có
những đặc tính khác hẳn: khó giữ vì không luôn phù hợp với khuynh hướng xấu của
con người, nên chắc không phải do tự mỗi người đặt ra cho mình. Đàng khác, nếu
mỗi người đều tự lập ra luật riêng cho mình thì chắc luật luân lý sẽ phải khác
nhau chứ không thống nhất giống nhau như ta thấy trong luật luân lý nơi con người
được.
-Luật luân lý cũng không phải
do xã hội giáo dục, khuôn đúc hình thành dần dần trong tâm hồn mỗi người từ nhỏ
đến lớn vì:
+Xã hội là do nhiều cá nhân kết hợp lại thành. Nếu luật luân lý do
xã hội giáo dục thì chỉ những ai sống trong cùng một xã hội mới hiểu biết và mới
giữ luật ấy. Nhưng trong thực tế có những người sống một mình
từ nhỏ tới lớn, không tiếp xúc, cũng không chịu ảnh hưởng của xã hội, thế mà họ
vẫn biết cùng một thứ luật luân lý như nhau. Như vậy, luật luân lý tự
nhiên chắc chắn không phải do xã hội, cũng không bắt nguồn từ xã hội.
+Đàng khác, nếu luật luân lý bắt nguồn từ xã hội thì chắc sẽ phải
thay đổi tùy theo mỗi xã hội, chứ không thể có tính đồng
nhất trong mọi xã hội như tiếng nói của lương tâm mỗi người được.
IV.NHỮNG VIỆC LẠ LÙNG MINH CHỨNG CÓ THIÊN CHÚA:
Ngay trong thế kỷ 21, thế kỷ khoa học tiến bộ vượt bậc trong
việc tìm hiểu và khám phá những định luật chi phối vũ trụ thiên nhiên, chi phối
mọi sinh vật, động vật kể cả con người…Thế mà vẫn không thiếu những trường hợp
lạ lùng trái ngược luật tự nhiên xảy ra khắp nơi: khỏi bệnh nan y một cách tức
khắc không do sự chữa trị thông thường, mà do một thứ quyền lực thiêng liêng
nào đó ngoài tầm hiểu biết của khoa học. Những hiện tượng xáo trộn trật tự vũ
trụ như mặt trời quay ở Fatima Bồ Đào Nha vào đầu thế kỷ 20
(năm 1917) đã được hằng vạn người chứng kiến v.v… Tất cả những hiện tượng
ấy gọi chung là các phép lạ.
1.Có phép lạ thực hay chỉ là bịa đặt:
Từ 11/02 đến 16/07/1858, Đức Mẹ đã hiện ra 18 lần với
Bernadette Soubirous. Lần thứ 9, Đức Mẹ chỉ cho
Bernadette tìm được nguồn suối dưới chân hang đá Massabielle. Nơi đây trở thành linh địa, mỗi năm có hơn 6 triệu khách hành hương
uống và tắm trong nước suối. Từ 150 năm nay có 7 ngàn
trường hợp khỏi bệnh không thể cắt nghĩa được.
Vào trung tuần tháng 10, mưa hồng ân đổ xuống Lộ Đức. Vị giám mục
giáo phận Casale Monferrato ở miền bắc nước Ý chính thức công bố quyết định
công nhận phép lạ thứ 68.
Đức Cha Nicolas Brouwet, giám mục Lộ Đức đã tuyên đọc sắc lệnh
công nhận, với sự chứng kiến của BS Alessandro de Franciscis, chủ tịch văn
phòng y chứng Lộ Đức (BCM). Phép
lạ chữa lành cho nữ tu Luigina Travetrso được ghi nhận vào ngày 23/07/1965.
Sœur Luigina Traverso sinh năm 1934, bị liệt cột sống. Vị nữ tu này chịu giải phẫu nhiều lần vẫn không
khỏi. Ủy ban Y khoa Quốc tế Lộ Đức (Cmil) đã chứng thực ngày 23/07/1965,
trước hang đá Lộ Đức, vị nữ tu này đứng dậy được từ xe
lăn, đi đứng bình thường. Đây là phép lạ thứ 68 được chính thức
công nhận.
Đức Mẹ đã phán bảo: ‘‘Các con hãy đến uống và tắm nước suối.’’ Từ đó, nhiều người được khỏi bệnh. Năm
1884, Giáo hội Công giáo thành lập Văn phòng Y chứng để xem xét các lời khai.
Sau khi được Văn phòng này chấp nhận, hồ sơ được chuyển qua
Văn phòng Y khoa Quốc tế. Sau đó, giáo phận của người
được lành bệnh chính thức mở cuộc điều tra. Nữ tu
Luigina Traverso là trường hợp thứ 68 được công nhận được khỏi bệnh nhờ phép lạ.
Thành viên của Văn phòng Y chứng và Văn phòng Y khoa Quốc tế
gồm cả những những bác sĩ không công giáo. Các chuyên gia cần chứng nhận trường hợp khỏi bệnh không thể giải
thích được bằng khoa học. Các tiêu chuẩn xét nghiệm gồm việc:
- Người bệnh được chẩn đoán một cách minh bạch;
- Bệnh trạng đã được xác nhận trước khi xảy ra phép lạ;
- Người bệnh được hoàn toàn lành bệnh tức khắc và vĩnh viễn, sau
này không bị tái phát;
- Việc trị liệu y khoa không phải là nguyên nhân được lành bệnh.
Văn phòng bác bỏ nhiều lời khai không đáp ứng được các tiêu
chuẩn vừa kể.
Sau đây là số liệu các phép lạ Đức Mẹ Lộ Đức: 1858-1870: 7 trường hợp
/ 1908-1913: 33 / 1946-1965: 22 / 1976-1978: 2 / 1989: 1
/ 1999: 1 / 2005: 1 / 2011: 1.
Ngoài phòng khám bệnh khoa học của các bác sĩ, vào năm 1905,
Hội Đồng Giám Mục cũng đã thành lập một ủy ban điều tra chính thức của giáo quyền
nhằm phân quyết những trường hợp nào là phép lạ, trường hợp nào là không. Ủy
ban làm việc môt cách cẩn thận và vô tư theo cách thức
của một tòa án. Những trường hợp được tuyên bố là phép lạ thì
không thể hồ nghi gì được nữa. Từ năm 1905 đến 1913, ủy
ban này đã công bố 32 phép lạ thực.
Như vây, phòng khám nghiệm của các y sĩ cũng như ủy ban các
giám mục đều đã xác nhận tại Lộ Đức đã có những trường hợp khỏi bệnh cách lạ
lùng. Trong tạp chí Études ấn hành năm 1909,
linh mục Teilhard de Chardin đã đưa ra quan điểm của Giáo hội về phép lạ Lộ Đức
như sau: ‘‘Các phép lạ Lộ Đức là các sự kiện không thể chối cãi được, chứng
minh tác động sáng tạo của Thiên Chúa.’’
(nguồn: Vietcatholic news).
2.Phép lạ bởi đâu?
Những người không tin có Thiên Chúa khi đứng trước những trường
hợp lạ lùng khoa học không thể giải thích được, đã đem ra rất nhiều lý lẽ để phủ
nhận sự can thiệp của Thiên Chúa như sau:
-Khỏi bệnh vì nguyên nhân tự
nhiên: Vì trong nước suối ở hang Lộ Đức có pha
lẫn một thứ chất hóa học có năng lực chữa được một số bệnh tật.
Nhưng thực sự, khi đem phân chất thì kết quả cho thấy nước
suối ấy cũng chỉ là một thứ nước lã bình thường như bao thứ nước khác, không có
thêm một chất nào khác có thể chữa bệnh cả. Đàng khác, có nhiều trường hợp bệnh nhân không
xuống đến nước, cũng không uống chút nước ấy, thì bảo khỏi bệnh tại nước thế
nào được?
-Khỏi bệnh là vì lý do tâm lý: Vì quá tin và muốn được khỏi cách mãnh liệt, nên đã ám thị mình đến
độ trở thành sự thực.
Nhưng nếu tin tưởng và ám thị có thể chữa được bệnh, thì nếu
muốn được khỏi, bệnh nhân trước hết đã phải biết tin, biết ám thị. Thế mà có nhiều trường hợp trẻ con chưa có trí
khôn, chưa biết gì hết mà vẫn được khỏi nhờ lời cầu nguyện của cha mẹ hay người
khác, thì khỏi bệnh đâu phải tại tin hay tại ám thị. Thực ra, ám thị cũng
có thể có đôi chút ảnh hưởng đến một vài thứ bệnh tâm lý, đau thần kinh, điên
loạn, chứ không có thể chữa được các bệnh do vi trùng
hay siêu vi trùng gây ra như: Bệnh phong cùi, ung thư, thổ huyết, lao phổi…
-Khỏi bệnh là vì quy luật tự
nhiên: do ảnh hưởng của một thứ quy luật tự nhiên bí mật nào đó
chi phối mà người ta chưa khám phá ra:
Nhưng nếu vậy thì luật ấy phải có tác dụng điều hòa, đồng nhất, bất
di dịch, cho dù người ta có biết hay không biết thì luật đó vẫn tác dụng. Hễ cứ hội đủ điều kiện khách quan là đương nhiên kết quả phải xảy
ra. Chẳng hạn, người mù trước làm thế nào để được khỏi mù thì các người
sau cứ làm đúng như thế sẽ đương nhiên được sáng mắt. Nhưng ở Lộ Đức thì tình
trạng lại khác hẳn: Có người được khỏi khi tắm, người khác thì khỏi khi đang cầu
nguyện vào những thời gian khác nhau trong ngày: sáng, trưa, chiều, tối… Ở điều kiện nào cũng có người được khỏi. Có
những trường hợp hai người bệnh cùng trong một hoàn cảnh, cùng một thứ bệnh giống
nhau, mà người thì được khỏi, người thì không. Như vậy,
không thể nói có một luật bí mật được.
-Khỏi bệnh do có sự lừa dối nào đó: cần phải chờ sự phán quyết của các nhà bác học hoàn toàn vô tư.
Carrel, một vị tiến sĩ y khoa, giáo sư giải phẫu học tại đại học
Lyon Pháp, trước khi đi Lộ Đức quan sát tận nơi cũng đã nghĩ như vậy. Ông cho rằng:
có lẽ các nhà khoa học chưa khám nghiệm kỹ đủ, có thể còn một vài sơ suất chưa
cân nhắc tường tận. Theo Carrel: Ngoài những sự kiện khoa học tìm ra và kiểm chứng
rõ ràng thì không còn chân lý nào khác có giá trị. Không thể có phép lạ được!
Nhưng trước sự khỏi bệnh lạ thường của Marie Ferrand, một cô gái đang hấp hối
vì bệnh lao ruột ở giai đoạn chót mà các bác sĩ đều từ chối không dám mổ cho
cô, mà Carrel đã chứng kiến tận mắt từ khi cô gái này mới đến Lộ Đức cho tới
lúc khỏi bệnh tức khắc mà không thể cắt nghĩa được. Ông đã chịu khuất phục và
ghi chú trong nhật ký: “Thật là một chuyện không có thể, nhưng có thực. Quả là
bất ngờ: một phép lạ vừa mới xảy ra.” Ngay lúc đó không còn tin ở mình, Carrel
lập tức mời hai bác sĩ bạn ông tới chứng kiến và các ông này cũng đều chứng nhận:
“Cô này không còn bệnh gì hết, cho cô ra khỏi nhà thương.”
Việc bác sĩ vô thần Carrel thay đổi tâm hướng đã nói lên một sự thật
mà con người dù yêu sách đến đâu cũng phải suy nghĩ: Quả thật, có Đấng Tạo Hóa,
có Thiên Chúa. Ngài là Đấng đã thiết lập trật tự trong vũ trụ
thiên nhiên, thì trong môt vài trường hợp đặc biệt, Ngài cũng có thể để xảy ra
ngoài trật tự ấy. Đó chính là phép lạ vậy.
TÓM LẠI:
Trước những trật tự lạ lùng trong vũ trụ thiên nhiên, trước việc sự
sống tràn đầy trên mặt đất, trước những luật luân lý in sâu trong tâm hồn mỗi
người, trước những phép lạ mà khoa học đành bất lực không thể tìm ra lời giải
thích hợp lý… Chúng ta phải công nhận có ĐẤNG TẠO HÓA; CÓ
THIÊN CHÚA SÁNG TẠO. Chính Ngài đã tạo dựng nên vũ trụ và đã an bài
chúng theo một trật tự chung mà khoa học gọi là định
luật thiên nhiên. Chính Ngài là nguồn gốc của sự sống, đã tạo
thành mọi sinh vật từ thấp kém đến cao quý nhất, và đã phú cho chúng những bản
năng riêng để tự phát sinh và tồn tại. Cũng chính Ngài là tác giả của bộ
luật luân lý tự nhiên in sẵn trong tâm trí con người từ khi sinh ra. Sau cùng, Ngài còn là tác nhân của những trường hợp đặc biệt xảy ra
ngoài trật tự tự nhiên mà khoa học không thể giải thích được.
Như vậy, tuy khoa học không thể chứng minh có Thiên Chúa một cách
trực tiếp vì ngoài phạm vi nghiên cứu của nó, nhưng khoa học vẫn có thể góp phần
quan trọng trong việc tỏ rõ kỳ công của Ngài. Chính nhờ những hiểu biết rõ ràng
chính xác do khoa học đem lại, con người dễ dàng sử dụng trí khôn suy luận để
nhận ra có bàn tay quyền năng, có trí khôn siêu việt
đã xếp đặt và tạo dựng nên vũ trụ vạn vật. Bàn tay và
trí khôn ấy là của Thiên Chúa Tạo Hóa.
3. THẢO LUẬN: 1) Bạn có nên tranh cãi với người vô tín về sự hiện hữu
của Thiên Chúa không ? Tại sao ?
2) Bạn nên làm gì khi có người yêu cầu trình bày giáo lý về sự hiện hữu của
Thiên Chúa để giúp họ thêm xác tín vào quyền năng của Ngài ?
4. NGUYỆN CẦU: Lạy Thiên Chúa Cha Toàn Năng, Đấng
tạo thành trời đất. Xin cho chúng con thêm xác tín vê sự hiện hữu cua Chúa
trong vũ trụ thiên nhiên va nơi mỗi chúng con. Xin cho
chúng con năng cầu xin Chúa ban thêm đức tin, giống như người cha có đứa con bị
quỷ câm ám đã thưa với Đức Giê-su: “Tôi tin ! Nhưng
xin Thầy trợ giúp lòng tin yếu kém của tôi” (Mc 9,24).
LM ĐAN VINH - HHTM
PHỤ CHÚ:
NĂM ĐƯỜNG LỐI CHỨNG MINH CÓ THIÊN CHÚA
CỦA THÁNH TÔMA TIẾN SĨ.
Thánh Thomas d’ Aquin (1225-1274), một vị tiến sĩ thần học rất nổi
tiếng thời trung cổ đã đề ra 5 đường lối chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa
như sau:
1.Sự chuyển động của vũ trụ chứng
minh có Thiên Chúa:
Bất cứ một vật nào đang chuyển động cũng
phải lệ thuộc vào một động lực khác. Chẳng hạn: một chiếc
xe đang chạy là do người tài xế đã rồ máy và điều khiển
tay lái, một viên đạn bay ra khỏi nòng súng, một nồi nước đang sôi lên sung sục
là do tác dụng của lửa làm nóng nước lên. Vậy thì khi nhìn
vào vũ trụ, ta thấy có sự chuyển động của các hành tinh, thì cũng phải có một động
lực nào đó đã ảnh hưởng tới và làm cho chúng xoay vần di chuyển trong không
gian. Động lực ấy chính là Thiên Chúa.
2.Luật nhân quả chứng minh có Thiên
Chúa:
Nhìn vào vũ trụ vật chất, ta nhận thấy có sự liên hệ mật thiết
giữa vật này với vật kia, vật có sau lệ thuộc vào một
nguyên nhân có trước. Chẳng han: có khói là đã phải có
lửa, có con là đã phải có cha mẹ… Nếu cứ suy luận lên mãi thì
cuối cùng phải đi đến một nguyên nhân tự mình hiện hữu, không bị lệ thuộc vào một
nguyên nhân nào khác mới hợp lý. Nguyên nhân tự hữu ấy
là Thiên Chúa.
3.Sự sắp xếp trật tự minh chứng có
Thiên Chúa:
Kinh nghiệm cho ta biết: sự may rủi bao giờ cũng đi đôi với
vô trật tự và hỗn độn. Chẳng hạn: Lấy 24 chữ cái A B C D… viết vào các mảnh giấy
rồi bỏ trong một chiếc hộp, sau đó lắc hộp và đổ các mảnh giấy ra. Không bao giờ
bạn đạt được thứ tự như cũ: A B C D… Trái lại, bất cứ vật gì
ta thấy được xếp đặt trât tự thì đều là kết quả của một trí khôn nào đó.
Chẳng hạn: nhìn xem một vườn cây ăn trái được sắp đặt
thứ tự, cây cối tùy loại mọc ngay hàng thẳng lối… ta quả quyết đã phải có một
trí khôn làm chủ vườn cây ấy. Cũng vậy, khi quan sát vũ trụ thiên nhiên, ai ai
cũng thấy có sự xếp đặt kỳ diệu từ cái cực to là các hành tinh, đến cái cực nhỏ
như nguyên tử; Từ sự sống thấp nơi thảo mộc cây cối đến sự sống phức tạp, trổi
vượt nhất nơi loài người… Từ đó, họ sẽ đi đến kết luận: Phải có một Đấng nào đó
toàn năng siêu việt… đã an bài cho vạn vật hình thành
và phát triển hài hòa trật tự. Đấng toàn năng ấy chính là
Thiên Chúa.
4.Bậc thang giá trị nơi vạn vật minh
chứng có Thiên Chúa:
Khi quan sát vạn vật trong vũ trụ ta thấy chúng có những bậc
thang giá trị khác nhau: Có vật thì không mấy thẩm mỹ, có vật lại rất mỹ miều
và đáng yêu, có vật ít hữu ích nhưng cũng có vật lại ích lợi rất nhiều, có vật
lại tầm thường, nhưng cũng có những vật thật là cao quý…từ đó, ta suy ra: phải
có một vị nào đó có mọi điều tốt đẹp, cao quý nhât…làm tiêu chuẩn cho vạn vật
trong vũ trụ hữu hạn này. Đấng tuyệt đối ấy chính là Thiên
Chúa.
5.Cứu cánh của vạn vật minh chứng có
Thiên Chúa:
Cứu cánh nghĩa là cùng đích, là mục
đích chính yếu cuối cùng tuyệt đối. Mỗi
người chúng ta đều tự nhiên cảm thấy có ước muốn, khát vọng vô bờ bến.
Không một sự gì đã đạt đươc lại có thể làm ta thỏa mãn và đem lại cho ta hạnh
phúc hoàn toàn. Do đó, bên trên mọi điều mong ước, về vật chất cũng như tinh thần,
ta ước muốn một điều gì bền bỉ, hoàn hảo, vĩnh viễn… Sự hoàn hảo tuyệt đối mà
con người mong muốn đạt tới ấy gọi là cứu cánh của con người. Cứu cánh ấy không thể có trong vạn vật ở trần gian mà chỉ có được ở
nơi Thiên Chúa. Chính sự khát vọng tuyệt đối, sự hướng
về cứu cánh tuyệt đối ấy là bằng chứng cho thấy có Thiên Chúa. Thánh
Augustin nói: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng lên con hướng về Chúa, nên tâm hồn con
luôn xao xuyến mãi cho tới khi nào con được nghỉ yên trong Chúa”.
TÓM LẠI: Với trí khôn suy luận từ sự vận chuyển của các vật bị động
đến một động lực không bị động; Từ
các vật không thể tự mình mà có đến một
Đấng Tự Hữu; Từ sự trật tự của vũ trụ đến một trí khôn toàn năng đã an bài xếp đặt; Từ các bậc thang giá trị
của vạn vật đến một giá trị tuyệt đối vô hạn; Từ sự mong ước tuyệt đối đến một Đấng là Cứu Cánh mà vạn vật hướng về… Tất cả đã chứng minh cho chúng ta một điều không thể chối cãi được.
Đó là: vũ trụ vạn vật đã do Thiên Chúa tạo dựng nên. Nhưng
Thiên Chúa ở đây vẫn chỉ là một vị Thiên Chúa trừu tượng, xa xôi, không có liên
hệ bao nhiêu với mỗi người chúng ta. Đây là Thiên Chúa
của các triết gia mà thôi. Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là một Thiên
Chúa của tình thương, liên hệ chặt chẽ với loài người và đã bày tỏ bản tính của
Ngài qua các tổ phụ, các tiên tri Cựu Ước, và qua chính Con Một Ngài là Đức
Giêsu Kitô thời Tân Ước. Tất cả những điều Thiên Chúa mặc khải ấy đã được chép
lại thành môt bộ sách gọi là Thánh Kinh. Do đó, ngoài việc dùng lý trí suy luận
để biết có Thiên Chúa, con người còn có bổn phận phải tìm hiểu học hỏi Thánh
Kinh để biết Chúa là ai? , nhờ đó sẽ tỏ lòng biết ơn bằng
cách tôn thờ, cảm tạ, yêu mến, cầu xin và vâng Lời Ngài.