GIÁO PHẬN TREVISO
“Con có mến Thầy
hơn các anh em này
không?"
QUY LUẬT SỐNG
DÀNH CHO LINH MỤC GIÁO PHẬN
TRUNG
TÂM MỤC VỤ
VIỆT NAM
– ITALIA
AD 2008
NỘI DUNG
Lời giới thiệu
I. TẦM QUAN TRỌNG CỦA QUY LUẬT SỐNG
1. Cuộc đối thoại tình yêu làm chúng ta trở thành mục
tử
2. Một quy luật để ở lại trong cuộc đối thoại tình yêu
3. Quy Luật hỗ trợ linh mục trong việc dấn thân cho
Giáo Phận
4. Quy luật sống nhắc lại sự khác biệt giữa đức ái mục
tử của Đức Kitô và ý
hướng tốt lành của thế gian
5. Quy luật sống giúp chúng ta biết sử dụng thời giờ
cách tốt đẹp trước Mặt Chúa
và theo thứ tự ưu tiên của
tác vụ
6. Quy luật sống giúp chúng ta trung thành với
truyền thống đức ái mục tử của linh mục đoàn
7. Quy luật sống là điểm quy chiếu cho việc xét mình
8. Một quy luật được chia sẻ nhằm lợi ích
cho dân Chúa đã được ủy thác cho chúng ta
9. Quy luật sống giúp cho việc sửa sai huynh đệ
II. QUY LUẬT SỐNG CỦA LINH MỤC GIÁO PHẬN
1. Thánh Thể “nguồn mạch và chóp đĩnh”
của đời sống linh mục
2. Thừa tác vụ Lời Chúa
3. Thừa tác vụ Thứ Tha trong bí tích Thống Hối
4. Kinh Nguyện Thần Vụ và cá nhân
5. Đặc sủng sống độc thân và các mối tương quan:
Tương quan với giám mục
Tương quan với anh em linh mục
Tương quan trong những cộng đoàn
Vun trồng đặc sủng độc thân
Một lối sống biểu lộ căn tính của mình
Tương quan với thân nhân
6. Tổ chức thời giờ
7. Sử dụng của cải theo những đòi hỏi
của đức khó nghèo
8. Kết luận
GIỚI THIỆU
Anh em
linh mục thân mến,
Tôi vui
mừng gởi đến anh em Quy Luật sống của linh mục giáo phận, một Quy Luật đã được Công
Nghị giáo phận vào năm 2000 đề nghị thực hiện, và bản Hướng Dẫn giáo
phận về việc thường huấn linh mục cũng đã nhắc lại việc làm này vào năm 2002.
Trong hai năm cuối này, nhờ sự cộng tác của Hội Đồng Linh Mục cũng như của
tất cả linh mục trong giáo phận, chúng ta đã nhận ra được những động lực và nội
dung về một Quy Luật sống đã ăn sâu vào mọi chiều kích của thừa tác vụ linh mục
trong hoàn cảnh sống hiện tại của chúng ta.
Ờ đây, tôi không nói đến tầm quan trọng của một Quy Luật sống dành cho linh
mục giáo phận, bởi vì điều này đã được quảng diễn khá rộng rãi trong phần đầu
của bản văn. Tôi chỉ muốn nói thêm rằng đây là một ân huệ của Chúa ban, cũng
như những Quy Luật trước đây dành cho các cộng đoàn đan tu và tu sĩ của các hội
dòng trong lịch sử của Giáo Hội.
Trong Quy Luật sống này, mỗi linh mục sẽ tìm thấy sự hỗ trợ quý báu trên
hành trình nên thánh qua thừa tác vụ của mình. Nhờ vậy, linh mục đoàn chúng ta
có thể cùng chia sẻ một năng lực mạnh mẽ hướng về căn tính tin mừng và noi
gương Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Lành.
Tôi mời gọi mỗi anh em hãy thẩm định và nhận ra trong Quy Luật này một
hướng đi bảo đảm cho linh đạo và cho thừa tác vụ của mình, và tôi nghĩ rằng nó
cũng có thể là đề tài học hỏi và chia sẻ giữa các linh mục qua các buổi gặp gỡ,
mỗi lần cùng thảo luận một vài chủ đề.
Tự bản chất của nó, Quy Luật sống này có thể được bổ túc và thay đổi, bởi
vì hoàn cảnh sống và thừa tác vụ linh mục giáo phận cũng hay thay đổi.
Tôi gởi đến anh em Quy Luật sống này đúng vào dịp kỷ niệm 150 năm thụ phong
linh mục của Đức Piô X, một gương sáng sống động và cụ thể của việc nên thánh
đối với linh mục đoàn giáo phận Treviso của chúng ta. Ngài sẽ cầu bàu cho tất
cả chúng ta, giám mục và các linh mục, cùng với Chân Phước Andrea Giacinto
Longhin và các linh mục gương mẫu khác đang sống trong sự hiệp thông của các
Thánh.
+ Andrea Bruno Mazzocato
Treviso, 18.09.2008
Kỷ niệm 150 năm thụ
phong linh mục của Đức Piô X
TẦM QUAN TRỌNG
CỦA QUY LUẬT SỐNG
1. Cuộc đối thoại tình yêu làm nên người mục tử
1. Gv
21,15-19: Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-môn Phê-rô :
"Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không?
" Ông đáp: "Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su
nói với ông: "Hãy chăm sóc chiên con của Thầy." Người lại hỏi:
"Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy không?" Ông đáp:
"Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy." Người nói: "Hãy chăn
dắt chiên của Thầy." Người hỏi lần thứ ba: "Này anh Si-môn, con ông
Gio-an, anh có yêu mến Thầy không?" Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba
lần: "Anh có yêu mến Thầy không?" Ông đáp: "Thưa Thầy, Thầy biết
rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy." Đức Giê-su bảo: "Hãy chăm sóc
chiên của Thầy. Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh
tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang
tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn." Người
nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi,
Người bảo ông: "Hãy theo Thầy."
Đây là ơn
gọi thứ hai Phêrô: Đức Giêsu sống lại mời gọi Phêrô và đưa ông vào một cuộc đối
thoại tình yêu. Chúng ta nhớ lại trong lần thứ nhất ở bên bờ hồ, Chúa Giêsu đã
kêu gọi Phêrô và người em của ông là Anrê từ bỏ người cha của mình và cả nghề
chài lưới để trở thành tông đồ khi Ngài nói với họ: "Các anh hãy theo tôi”.
Và Ngài còn báo trước cho họ rằng: “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ
lưới người như lưới cá". Giờ đây,
lời mời gọi đó trở nên gần gũi hơn, Phêrô không trả lời cùng với em mình, nhưng
chỉ riêng ông với cả ý thức. Lần này, Chúa Giêsu không cố ý trao thêm trách vụ
mới cho ông trong Giáo Hội mai ngày, nhưng Ngài chỉ mời gọi ông trả lời cho một
câu hỏi: "Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn
các anh em này không? "(Gv 21,15).
Lúc này Phêrô đang đứng trước mặt Đấng sống lại từ cõi
chết để tìm kiếm chính ông. Chúa Giêsu biết rằng Phêrô đã không mệt mỏi, không
thất vọng về sự khốn khổ của con nguời, về đêm dài đen tối, về sự bất trung của
mình. Thật vậy, trong tâm trí, Phêrô luôn nghĩ đến Thầy của mình đang chịu chết
để không cảm thấy mình bị xa mất. Đấng Sống Lại chẳng những không lên án Phêrô
mà còn ban cho ông một đặc ân cao cả hơn, đó là đi vào cuộc đối thoại tình yêu
với Ngài. Chúa Giêsu đã lặp lại đến ba lần câu hỏi “anh có yêu mến Thầy
không?” và mời gọi sự đáp trả của Phêrô từ con
tim đến con tim, như một nguời bạn đối với một Người Bạn. Đó chính là sự đáp
trả Tình Yêu cao cả và cá biệt của Con Thiên Chúa đối với con người Phêrô.
Con tim của Phêrô đã mở ra. Chúng ta có thể tưởng tượng
một Vị Tông Đồ đang quỳ gối với nước mắt thống hối không những trong đôi mắt mà
cả trong con tim của mình. "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết
con yêu mến Thầy".
Sau mẻ cá lạ lùng, Phêrô đã sụp lạy trước mặt Thầy mình
và van xin "Lạy Cha, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!" (Lc
5,8). Giờ đây nỗi sợ hãi đã qua đi và chỉ còn lại Người Bạn chân tình và là
Chúa của mình, Phêrô đi vào cuộc đối thoại tình yêu để nối kết cuộc đời mình
với Chúa Giêsu luôn mãi. Phêrô cảm nghiệm
được nỗi sợ này khác với nỗi sợ trước mẻ cá lạ lùng cũng như trước mặt người
phụ nữ trong đêm Chúa chịu nạn (x. Lc 5,8-9; Mt 26,69-70). Ngài cảm nghiệm được
một nỗi sợ thánh thiện khi đứng trước sự bất cân xứng giữa Tình Yêu cao cả mà
Chúa đang dành cho mình và sự mỏng dòn yếu đuối của con người tội lỗi. Với cả
tấm lòng khiêm tốn, Phêrô đã đáp trả lời mời gọi ấy rằng: "Thưa Thầy,
Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy.".
Khi biết chắc chắn rằng Phêrô đã thực sự đi vào cuộc đối
thoại tình yêu này với mình thì Chúa Giêsu mới trao cho ông ta nhiệm vụ tông đồ
và mục tử trong Giáo Hội: "Hãy chăm sóc chiên con của Thầy”. “Hãy chăn
dắt chiên mẹ của Thầy." Hay nói cách khác, Ngài căn dặn Phêrô rằng:
“Anh hãy ra đi và mang trong con tim của anh chính Con Tim của Thầy, Con Tim
của một Mục Tử Tốt Lành giữa đoàn chiên đã được ủy thác cho anh; hãy mang lấy
những lo lắng và những tâm tình mà anh đã cảm nghiệm được qua cuộc đối thoại tình
yêu mà Thầy đã dành cho anh.
Từ giây phút đó và bằng cách thế đó Đấng Sống Lại đã làm
cho Phêrô trở thành “Tông Đồ và Mục Tử của Giáo Hội” (x. Gioan Phaolô II, Pastores
dabo vobis, 23).
2. Cùng một thể thức ấy,
Đấng Sống Lại tiếp tục mời gọi những người kế vị Thánh Phêrô và các Tông Đồ,
nghĩa là các giám mục và các linh mục cùng liên kết với các ngài. Cùng một thể
thức ấy, Ngài đã kêu gọi mỗi người chúng ta. Ngài cũng mời gọi chúng ta vào
trong cuộc đối thoại tình yêu mà từ muôn thuở Ngài đã mở ra cho mỗi người và
đừng để chúng ta phải hư mất, Ngài đã mang chúng ta vào trong Con Tim của Ngài
trên thập giá.
Đáp trả
lời mời gọi này tức là phó mặc cả cuộc đời mình cho cuộc đối thoại tình yêu ấy,
bằng cách từ bỏ tất cả, từ bỏ mọi kiểm soát và mọi chiếm hữu trên cuộc đời
chúng ta (x. Mt 16,24). Trong mối tương quan cá nhân và nhưng không mà Chúa
Giêsu đã dành cho chúng ta, chúng ta có thể nhận ra chính mình, tìm thấy ý
nghĩa của cuộc đời và sứ mạng mà chúng ta đã được tạo dựng và cứu chuộc: "Hãy
chăm sóc chiên con của Thầy."
Trong
những năm thụ huấn ở Chủng Viện, chúng ta cũng đã cảm nghiệm được những giây
phút như Thánh Phêrô. Mối tương quan với Chúa Giêsu đã trở thành hiện thực và
cá biệt hơn. Nhiều lúc chúng ta cũng đã phải ngạc nhiên về những lần đối thoại tình
yêu mà Thần Trí Chúa thúc đẩy chúng ta hiến dâng cuộc đời mình để trở thành mục
tử trong Giáo Hội. Chúng ta cũng đã nhận ra được phẩm giá cao trọng ấy và sự
bất xứng của chúng ta khi trở thành bạn hữu và cộng sự viên của Chúa để Ngài
tiếp tục mang cuộc thương khó của Vị Mục Tử tốt lành cho các chiên trong ràn
cũng như những con chiên chưa thuộc về cùng một đoàn chiên.
2. Một Quy Luật sống để ở lại trong cuộc đối thoại tình yêu
3. Với tâm tình sợ hãi và khiêm tốn Phêrô
xưng thú cùng Chúa rằng: "Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con
yêu mến Thầy.". Thái độ thiêng liêng này không thể không theo đuổi
suốt cả cuộc đời chúng ta, vì sự bất cân xứng bao la giữa Con Tim của Chúa hằng
yêu thương chúng ta và những yếu đuối mỏng dòn của con tim chúng ta bằng nhiều
cách làm cho chúng ta bất trung.
Với tâm
tình sợ hãi và khiêm tốn ấy, chúng ta cũng hãy xưng thú như Phêrô trước hết là
phó dâng vào công trình của Thần Khí Chúa, Đấng không ngừng trao ban Tình Yêu
của Ngài xuống trong tâm hồn chúng ta (x. Rm 5,5) và thưa với Ngài rằng: “Lạy
chúa, con yêu mến Chúa” và rồi chúng ta hãy dâng hiến lại cho Chúa chính tình
yêu mà Ngài đã trao ban cho chúng ta bằng Thần Trí của Ngài.
4. Tình
yêu mà chúng ta dâng hiến lại cho Chúa và Giáo Hội nhiều lúc không còn trong
sáng, vì đã bị ô nhiễm bởi những yếu đuối và tội lỗi của mình. Bởi vậy, ngoài
việc phó thác cho Thần Trí Chúa, chúng ta được mời gọi đến việc hoán cải liên
tục để được ở lại trong cuộc đối thoại tình yêu với Chúa Giêsu phục sinh và để
trở thành người tôi tớ và mục tử trung thành của Ngài.
Trở về
với tình yêu là một bổn phận cụ thể bởi vì tình yêu cũng rất cụ thể. Điều này
chúng ta có thể nhận ra được nơi nhiều vợ chồng và các bậc làm cha làm mẹ, nơi
rất nhiều bà mẹ với lòng trung thành mỗi ngày, đòi hỏi họ tất cả mà nhiều khi vượt
cả sức lực và khả năng của họ.
Cả chúng ta, những linh mục và mục tử của Giáo Hội, chúng
ta cũng được mời gọi đến với một tình yêu dành cho Chúa Giêsu, cho
cộng đoàn và cho nhiều người phát xuất từ con tim, chứng tỏ bằng việc làm và
cách sống của chúng ta.
Để trở
nên chân thực và trung thành, tình yêu cần phải tuân theo một số “quy luật” với
cả nổ lực và kiên trì. Quy luật này không chống lại tự do của tình yêu. Có thể
nó chống lại tính nhất thời của các nhu cầu và cảm xúc của con người, nhưng đó
là đòi hỏi của tình yêu, nếu muốn trở nên thực tế và nhập thể vào trong con
người và trong hành động của con người chúng ta.
Nếu không có một quy luật sống thì chúng ta dễ bị nô lệ
bởi tính ích kỷ, là ông chủ luôn đe dọa (x. Rm 7,6), và trở thành những kẻ chăn
thuê, vì giá phải trả không cao lắm.
Bởi vậy, Quy Luật này có thể được gọi là “luật tình yêu”,
bởi vì nó nhắc nhở một số điều kiện chính yếu để ở lại trong cuộc đối thoại
tình yêu với Đấng Sống Lại và yêu mến Giáo Hội bằng chính đức ái của Vị Mục Tử
Tốt Lành.
3. Quy Luật hỗ
trợ linh mục trong việc dấn thân cho Giáo Phận
5. Trong cuộc đối thoại bên
bờ hồ Tiberiade, Chúa Giêsu Sống Lại đã dẫn đưa ông Phê-rô đến với hai cuộc
tình bất khả phân ly: tình yêu đối với Chúa và tình yêu đối với đoàn chiên. Đó
là đức ái mục tử đòi hỏi người tông đồ tiếp tục làm cho Vị Mục Tử Tốt Lành hiện
diện giữa đoàn chiên của Ngài, đức ái mà những người kế vị các tông đồ đã được
thánh hiến, nghĩa là các giám mục, cùng kết hiệp với các linh mục của mình
trong linh mục đoàn duy nhất của giáo phận.
Trong bí tích truyền chức thánh, Chúa Thánh Thần đã làm
cho các linh mục trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu và hiến mình cho
Giáo Hội như người đứng đầu, hôn phu và mục tử.
Đối với giám mục và linh mục giáo phận, yêu mến Chúa
Giêsu cũng đồng nghĩa với yêu mến Giáo Hội cách vô điều kiện.
Đó cũng là ý nghĩa thiêng liêng sâu xa của việc “nhập
giáo phận” trên pháp lý: linh mục hiến mình cho Giáo Hội hoàn vũ và cho Giáo
Hội địa phương. Chính trong Giáo Hội đó và vì Giáo Hội đó mà mình được thụ
phong.
Vì giáo hội địa phương đó mà linh mục dấn thân trọn cuộc
đời, nhờ thừa tác vụ đã lãnh nhận, để anh chị em tín hữu được đón nhận những
phương tiện thiêng liêng dẫn đến ơn cứu độ. Bởi vậy, linh mục giáo phận yêu mến
Chúa Giêsu bằng cách yêu mến Giáo Hội với chính sự hiến mình như Chúa đã trở
nên người tôi tớ của mọi người đến nỗi phải trao ban cả mạng sống mình.
6. Tông
Huấn Pastores dabo vobis cũng đã diễn tả về linh mục như sau: “Sự quy
hướng về Giáo Hội đã được khắc ghi vào trong cùng sự quy hướng duy nhất của
linh mục vào Đức Ki-tô, theo nghĩa linh mục là người “đại diện bí tích” của Đức
Ki-tô thiết lập và làm cho việc quy hướng của linh mục vào Giáo Hội được sinh
động. Cũng trong ý nghĩa này các Nghị Phụ đã viết: “Với tư cách người đại điện
cho Đức Ki-tô là đầu, là mục tử và là vị hôn phu của Giáo Hội, linh mục không
chỉ tự đặt mình trong Giáo Hội, mà cả trước mặt Giáo Hội. Bằng
việc kết hiệp với Lời Chúa và với các dấu chỉ bí tích mà mình phục vụ, linh mục
thuộc về những yếu tố làm nên Giáo Hội. Thừa tác vụ linh mục hoàn toàn nhằm mưu
ích cho Giáo Hội, thăng tiến việc thực thi chức linh mục cộng đồng của toàn thể
dân Chúa, được thụ phong không những cho Giáo Hội địa phương, mà còn cho Giáo
Hội hoàn vũ” (số 16).
Quy Luật này mang lại cho linh mục những chỉ dẫn để áp dụng vào đời sống mỗi
ngày chính việc hiến mình cho Giáo Hội địa phương. Khi tuân theo những chỉ dẫn
ấy linh mục thật sự nhằm mưu ích cho Giáo Hội, đồng thời cũng nói lên mình là
người đại diện cho Chúa Giêsu và công trình cứu độ của Ngài ở giữa các tín hữu.
4. Quy luật sống nhắc nhở sự khác biệt giữa đức ái mục tử của Chúa Giêsu và
đường lối của thế gian.
7. Cách
thế yêu thương và hiến mình của Chúa Giêsu trong sự mới mẻ khôn lường đã trở
nên cớ vấp phạm cho tâm thức của con người. Điều này cũng làm cho Phêrô vấp
phạm đến nỗi Chúa Giêsu phải quở trách, vì ông đã không nghĩ theo đường lối của
Thiên Chúa, nhưng theo loài người (x. Mt 16,23).
Nhờ sự đặc tuyển và được mời gọi chia sẻ đức ái của Mục
Tử, chúng ta trở thành những chứng nhân sống động bằng chính kinh nghiệm sống
của chúng ta giữa lòng đời và làm cho chúng ta trở nên “khác biệt” mặc dù chúng
ta vẫn sống bình thường như mọi người: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy
biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian
đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy
đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em”.
Sự khác biệt không thể loại bỏ này cần được chiếu tỏa trong cuộc đời mục tử
chúng ta theo cội nguồn của Tin Mừng đã được tóm kết trong Bài Giảng Trên Núi: “Anh
em thường nghe nói... nhưng Thầy nói với anh em”.
8. Cuộc sống độc thân cho phép chúng ta tự do hơn trong việc sắp xếp thời giờ,
sử dụng tiền bạc và tổ chức các mối tương quan. Ngày nay lối sống này cũng đã
quen thuộc đối với nhiều người trong nhiều nghề nghiệp khác nhau. Người ta
không còn ngạc nhiên khi thấy một người không lập gia đình. Tuy nhiên, không
mấy ai thật sự nhận ra được sự khác biệt trong con người linh mục và mục tử
sống độc thân. Sự khác biệt mà chính Đức Kitô đã chứng tỏ bằng việc trao hiến
thân mình cho đến cuộc khổ nạn trên thập giá vì đoàn chiên là Giáo Hội.
Quy luật nhắc nhở đến một số điểm cụ thể trong cuộc sống và tác vụ của linh mục
tạo nên sự khác biệt giữa cách sống và thi hành tác vụ theo đức ái mục tử và
tâm thức hiện nay. Quy luật cũng giới thiệu “những hoa trái của Tin Mừng” cần
được chứng tỏ trong đời sống của linh mục. Chỉ có những hoa trái đó mới có thể
chứng tỏ cuộc đối thoại tình yêu của chúng ta với Đấng Sống Lại là chân thực và
cho thấy lòng trung thành của chúng ta giữa cộng đoàn Kitô hữu: “cứ xem họ
sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai” (Mt. 7,20).
Như vậy, Quy luật thật sự là một ân sủng cho đức giám mục, cho mỗi linh mục và
cả linh mục đoàn. Hơn nữa, đó cũng là một sự giúp đỡ quý giá cho việc thường
huấn linh mục.
5. Quy luật sống giúp
chúng ta sử dụng tốt thời giờ trước mặt Chúa và theo tính ưu tiên của thừa tác
vụ.
9. “Lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa
và con sẵn sàng chăn dắt đoàn chiên của Chúa”: Đó là câu trả lời mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi chúng ta. Trong câu trả
lời này bao gồm cả trách nhiệm sử dụng tốt thời giờ mà Chúa ban cho cúng ta.
Giữa những người đã được rửa tội, chúng ta được mời gọi cách đặc biệt để trở
thành những người tôi tớ: “Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh
em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để
phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt. 20,27-28).
Tôi tớ không phải là người làm chủ thời giờ của mình, nhưng biết sử dụng nó cho
những việc bổn phận đã được trao phó. Chúng ta là những người tôi tớ mà chính
Chúa đã tin tưởng cách đặc biệt: “Vậy thì ai là người đầy tớ trung tín và
khôn ngoan mà ông chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân, để cấp phát lương thực cho
họ đúng giờ đúng lúc? Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy anh ta
đang làm như vậy” (Mt 24. 45-46).
Chúa Giêsu đã tin tưởng đến nỗi muốn chúng ta dâng hiến cuộc đời cho Ngài và
cắt đặt chúng ta làm người quản gia để đến giờ thì ban phát “của ăn” Lời và
Mình Máu của Ngài.
Lòng tin tưởng này chỉ trong một thời gian nhất định nào đó mà chúng ta không
biết nó sẽ kéo dài bao lâu, vì không ai biết lúc nào Chúa trở lại. Chúng ta chỉ
có trách nhiệm sử dụng tốt thời giờ giới hạn ấy, không làm mất thời giờ, nhưng
cần thánh hóa nó bằng đức ái mục tử theo tính ưu tiên của thừa tác vụ mà chúng
ta được mời gọi thực hiện.
Thật vậy, cuộc sống đời đời của chúng ta sẽ tùy thuộc vào việc sử dụng thời giờ
hôm nay như thế nào: “Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy anh ta đang làm
như vậy. Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của
mình. Nhưng nếu tên đầy tớ xấu xa ấy nghĩ bụng: "Còn lâu chủ ta mới
về", thế rồi hắn bắt đầu đánh đập các đồng bạn, và chè chén với những bọn
say sưa, chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không chờ, vào giờ hắn không
biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt chung số phận với những tên giả hình: ở đó,
người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng” Mt 24,46-51).
10. Trong tình huynh đệ, chúng ta có thể nhắc nhở cho nhau rằng ngày nay chúng ta
có được tự do hơn trước trong việc sử dụng thời giờ. Hầu như chúng ta không mấy
bận tâm cho ngày sống của mình. Bởi vậy, chúng ta cần ý thức về trách nhiệm của
mình hơn và đó cũng là lý lo cần có một Quy Luật Sống.
Một tâm thức ngày nay khá phổ biến là mỗi người dùng thời giờ như một của riêng
tùy theo sở thích. Điều này nghịch lại với cách mà Chúa Giêsu làm để thi hành
sứ mạng đã được Chúa Cha trao phó. Bởi vậy, Quy Luật hằng ngày nhắc nhở chúng
ta đừng rơi vào tâm thức thế gian, nhưng phải biết dùng thời giờ như ân huệ
nhưng không để làm phát triển những tài năng mà chúng ta đã lãnh nhận.
Và rồi Quy Luật còn giúp chúng ta tổ chức ngày sống cho thừa tác vụ. Thật vậy,
linh mục cũng có thể hoang phí thời giờ của mình không những trong các việc vô
bổ mà có khi ngay cả trong những việc không thuộc tác vụ của mình. Thật vậy, là
người tôi tớ trung thành nếu vì thiện ích cho Giáo Hội, linh mục làm sinh hoa
kết trái những hồng ân và quyền năng mà mình đã lãnh nhận vào ngày thụ phong.
Ngoài ra, linh mục còn có nhiều công việc lớn nhỏ khác nữa. Trách vụ này không
mấy dễ dàng chu toàn đối với linh mục khi một mình phải gánh nhiều việc khác
nhau.
6. Quy Luật sống giúp
chúng ta trung thành với truyền thống đức ái mục tử của linh mục đoàn.
11. “Như thế, phần chúng ta, được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao
quanh, chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy
kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giê-su là Đấng khai
mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 12,1-2). Lịch
sử của linh mục đoàn chúng ta có khá nhiều gương mặt sáng ngời, có một số vị
còn hiện diện trong tâm khảm và trong sự biết ơn của chúng ta vì đời sống chứng
tá của các ngài còn để lại. Các ngài đã tạo nên truyền thống đạo đức của linh
mục đoàn giáo phận.
Đó là một gương lành đáng tin cho các linh mục giáo phận
đi vào cuộc đối thoại tình yêu với Đấng Sống Lại và mang lấy Con Tim của Vị Mục
Tử Tốt Lành cho Giáo Hội. Đó là một sự phong phú cần được gìn giữ và làm sống
lại hôm nay trong cuộc sống và tác vụ của chúng ta. Những linh mục tiền bối này
cho chúng ta thấy đâu là những điều kiện cụ thể làm cho đời sống chúng ta được
nên thánh. Đó là cần có một Quy Luật Sống! Thật vậy, có nhiều linh mục đã làm
chứng cho chúng ta thấy chỗ đứng ưu tiên của Chúa trong cuộc sống, sự quân bình
khôn ngoan trong việc dùng thì giờ cho việc cầu nguyện và cho việc phục vụ,
tình huynh đệ linh mục, tiết kiệm trong việc tiêu dùng, quan tâm đến người nghèo.
Một Quy Luật sống sẽ giúp cho giám mục và các linh mục bảo vệ được con đường
nên thánh mà truyền thống của linh mục đoàn giáo phận đã để lại cho chúng ta.
7. Quy Luật sống là
một điểm quy chiếu cho việc xét mình cá nhân.
12. “Hãy
cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ; còn điều xấu dưới bất cứ hình
thức nào thì lánh cho xa” (1Thes 5,21-22).
Việc xét mình hằng ngày là một việc thiêng liêng không thể thiếu đối với linh
mục. Việc làm này giúp chúng ta nhận ra những dấu chỉ của Chúa Thánh Thần hoạt
động trong chúng ta và chung quanh chúng ta. Ngoài ra, nó còn bảo vệ cho lương
tâm mình khỏi mối nguy nhầm lẫn luân lý mà các cơn cám dỗ thường gây nên khi
chúng ta không nhận ra hoặc không chống trả chúng.
Xét mình là cuộc hẹn hò thông thường vào cuối ngày sống mà giờ Kinh Tối mời gọi
chúng ta luôn thực hiện. Việc làm này cũng chuẩn bị cho chúng ta gặp gỡ Chúa
Giêsu bằng một lương tâm chân thành và thống hối trong bí tích Hòa Giải.
Quy luật sống là một điểm quy chiếu rất hữu ích và đầy năng lực để đối chiếu
lối sống của chúng ta trước lời mời gọi gìn giữ con tim trong cuộc đối thoại
tình yêu với Chúa Giêsu và dấn thân bằng chính đức ái của Ngài cho anh chị em.
Việc đối chiếu này nếu được thực hiện với lòng khiêm tốn sẽ luôn giúp chúng ta
nhận ra nhiều sự thiếu sót. Như vậy, mỗi buổi tối, chúng ta lặp lại lời thánh
Phêrô: “Lạy Chúa, Chúa biết rõ mọi sự; Chúa biết con yêu mến Chúa” và
đoan hứa việc hoán cải về những lầm lỗi mà mình đã phạm.
8. Một Quy
Luật sống được chia sẻ là góp phần xây dựng dân Chúa đã được ủy thác cho chúng
ta.
13. “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào
những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em” (Phil 3,17).
Người giáo dân nhìn vào việc làm của các linh
mục để tìm thấy một bằng chứng cho những lời giảng dạy của các ngài. Chúng ta
được đặt để trước cộng đoàn như những người của Chúa và những người phân phát
các mầu nhiệm thánh. Bởi vậy, chúng ta không thể không nói lên lời này: “Thưa
anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi”.
Ngoài mỗi linh mục, người tín hữu giáo dân còn chờ đợi
nơi giám mục và các linh mục cùng hiệp nhất với ngài một chứng tá tập thể để
thúc đẩy họ bước theo Tin Mừng. Dân chúng biết nhận ra qua lối sống và hành động
chúng ta có biểu lộ đức ái mục tử của Chúa Giêsu hay không. Họ cũng chờ đợi xem
chúng ta sống hài hòa với nhân đức ấy. Người ta sẽ đánh giá tận căn về mỗi linh
mục biết bày tỏ từ thâm tâm về lòng trung thành với thiên chức linh mục của
mình.
Quy Luật sẽ đề ra cách thế sống cách cụ thể về những lời
cam kết mà chúng ta đã nói lên trước mặt giám mục trong ngày thụ phong. Bởi
vậy, nếu cả linh mục đoàn chia sẻ cùng một Quy Luật thì chúng ta có thể nói với
toàn thể dân Chúa rằng: “Thưa anh em, xin hãy bắt chước chúng tôi, như chúng tôi
đã noi theo Đức Kitô”. Như vậy các tín hữu sẽ được xây dựng nhờ đời sống chứng
tá của chúng ta.
9. Quy
Luật sống giúp cho việc sửa sai huynh đệ
14. "Nếu người anh em
của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi.
Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em”(Mt 18,15).
Sửa sai huynh đệ là một trong những việc bác ái cần thiết mà chúng ta cò thể
thực hiện để giúp nhau sống trung thành với sứ vụ linh mục của mình. Là “bạn
đồng nghiệp”, chúng ta cùng đồng hành trên con đường cứu rỗi, với sự tế nhị cần
có, cùng trách nhiệm cho nhau, làm sao cho linh mục đoàn trở nên một cộng đoàn
cứu rỗi thật sự và đừng để một ai phải hư mất.
Việc sửa sai huynh đệ trong bước đầu chỉ được thực hiện giữa tôi với bạn. Nếu
không mang lại kết quả, như Chúa Giêsu dạy, thì cùng những người bạn khác, nhất
là với giám mục là người có trách nhiệm trên mỗi linh mục của mình. Sửa sai
huynh đệ cũng có thể trở thành một việc làm chung nếu cả một nhóm linh mục
(cùng giáo hạt, bạn cùng lớp, bạn hữu) thật sự cảm thấy cần phải thực hiện.
Quy Luật
sống này nếu được linh mục đoàn chia sẻ thì sẽ trở nên một sự trợ giúp cho việc
sửa sai huynh đệ rất tốt. Thật vậy, đây là một điểm quy chiếu có thế giá đã
được chính Giám Mục cùng với Hội Đồng Linh Mục đề ra và đã được tham khảo ý
kiến của linh mục đoàn.
QUY LUẬT SỐNG
CỦA LINH MỤC GIÁO PHẬN
1. Thánh Thể là « nguồn mạch và
chóp đĩnh » của đời sống linh mục
15. "Thưa
Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự
sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là
Đấng Thánh của Thiên Chúa." (Ga 6,68-69).
Lời Chúa Giêsu là “sự sống đời đời” bởi vì đó là Lời loan truyền và thực
hiện ân huệ Mình và Máu Thánh của Ngài để mang lại sự sống cho thế gian. Chính
chúng ta có bổn phận loan truyền Lời Chúa để cùng với cộng đoàn đi vào trong sự
hiệp thông mật thiết nhất với Chúa Sống Lại.
Công Đồng Vaticanô II đã tái đề nghị trọng tâm của bí tích Thánh Thể đối
với đời sống của mỗi người đã được rửa tội bằng chính thành ngữ “nguồn mạch và
chóp đĩnh”, mạch sống và viên mãn cuộc đời của mỗi Kitô hữu và của cả cộng
đoàn.
Đặc biệt trong đời sống linh mục, điều đó càng phải rõ ràng hơn. Chúa
Giêsu đã thiết lập một tương quan đồng bản tính thật sự giữa Thánh Thể và vị
chủ tế. Ngài đã đặt trong tay các tông đồ và những người kế vị chính Mình và
Máu của Ngài, nghĩa là cả Con Người của Ngài trở nên toàn hảo nhờ Tình Yêu tự
hiến trên thập giá và trong bí tích Thánh Thể (x. Dt 5,9). Để họ có quyền bính
thiêng liêng làm cho Mầu Nhiệm Mình và Máu Ngài hiện diện qua việc tưởng niệm,
Ngài đã dành cho họ một ân huệ đặc biệt của Chúa Thánh Thần bằng bí tích Truyền
Chức Thánh.
16. Để
trở thành người tôi trung của Đức Kitô và của cộng đoàn trong việc chủ sự bí
tích Thánh Thể, chúng ta được mời gọi hoán cải liên tục theo chương trình mà
đức giám mục đã trao ban trong ngày thụ phong linh mục, khi ngài đặt vào đôi
tay chúng ta bánh và rượu để được thánh hóa: “Con hãy nhận lễ vật của dân thánh
mà dâng lên Thiên Chúa. Con hãy ý thức việc con làm, noi theo điều con cử hành
và rập đời sống con theo khuôn mẫu thánh giá Chúa”.
Đó là cả một chương trình tổng hợp cách sâu xa giữa hành trình nên thánh cá
nhân và việc thực hành chức vụ thừa tác mà qua đó chúng ta được mời gọi để so
chiếu đời sống với hy tế của Chúa Giêsu, và rồi đến lượt chúng ta phải trở nên
“của lễ tựa hương thơm ngào ngạt” (Eph 5,2; Phil 4,18).
17.
Những chỉ dẫn thực hành:
- Việc cử hành thánh lễ là thừa tác vụ quan trọng nhất mà chúng ta cống
hiến cho cộng đoàn tín hữu (x Presbyterorum ordinis, 5). Bởi vậy, đó là
thời gian quý báu nhất của ngày sống chúng ta, cách riêng vào Chúa Nhật và các
ngày Lễ Trọng của năm phụng vụ. Vào những ngày ấy, khi không phải chủ sự hoặc
không đồng tế, chúng ta vẫn được mời gọi tham dự vào việc cử hành cùng với cộng
đoàn tín hữu, nhất là khi không phải bận rộn với những việc mục vụ quan trọng
khác.
- Ngoại trừ những trường hợp không thể được, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta
phải cố gắng trung thành với việc cử hành thánh lễ hằng ngày (x. Giáo Luật
số 276; Bênêđictô XVI, Sacramentum caritatis, 80) bởi vì trong thánh lễ
“chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng của Giáo Hội” (Presbyterorum ordinis,
5).
- Điều quan trọng phải làm là chúng ta luôn dành thời gian để chuẩn bị cá
nhân cho việc cử hành và cầu nguyện cám ơn sau thánh lễ.
- Chuẩn bị phụng vụ Lời Chúa theo các Bài Đọc, nhất là khi cần phải giảng
giải.
- Luôn cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn trợ giúp cho đức tin chúng ta trước
khi bắt đầu cử hành và cho chúng ta được sốt sắng trong khi cử hành.
- Ngay cả trong phòng thánh cần giữ một bầu khí thinh lặng cầu nguyện,
tránh những gì làm chúng ta lo ra chia trí.
2. Thừa tác vụ Lời Chúa
18. Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo
cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng
tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người” (1Ga
1,3)
Một thừa tác vụ khác
thường được ủy thác cho các giám mục và linh mục là việc rao giảng Lời Chúa. Ngay
từ buổi sơ khai, các tông đồ đã xem thừa tác vụ này như một bổn phận riêng,
bằng việc ủy quyền cho các thừa tác viên trong cộng đoàn Ki-tô hữu (x Cv 6,2-4).
Thật vậy, mỗi người đã được rửa tội và cả Giáo Hội “không ngừng lấy bánh ban sự
sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Thánh Chúa Kitô” (Dei
Verbum, 21).
Nhờ việc rao giảng hạt giống Lời Chúa rơi vào tâm hồn của người nghe và với
hoạt động của Chúa Thánh Thần, hạt giống sẽ trổ sinh và làm cho cuộc sống người
Ki-tô hữu được sinh nhiều hoa trái (x Mt 13,3-23).
Qua thừa tác vụ rao giảng, Thiên Chúa sẽ làm cho Vinh Quang của Gương Mặt
Chúa Ki-tô được rạng ngời lên trong tâm trí của mỗi người đã được rửa tội cũng
được đầy ánh sáng (x 2Cor 4,5-6).
19. Những chỉ dẫn thực hành:
- Để thực thi thừa
tác vụ rao giảng Lời Chúa, trước hết thừa tác viên phải là người trung thành
lắng nghe Lời Chúa.
- Giám mục và linh
mục cần được nuôi dưỡng tại bàn tiệc Lời Chúa mỗi ngày cũng như nơi bàn tiệc
Mình Máu Thánh Chúa. Cách thế tốt nhất là tiếp sau giờ Kinh Sách, cần dành thời
giờ để đọc và suy niệm Lời Chúa. Nhờ vậy, mỗi ngày chúng ta càng thân thiện với
Lời Chúa hơn. Cũng cần lưu ý đến các Bài Đọc của thánh lễ hằng ngày, nhất là
khi phải chuẩn bị bài giảng. Cần xem lại
chương trình sống mỗi ngày: tốt hơn cả là khởi đầu bằng việc lắng nghe Lời Chúa
và mở lòng trí chúng ta cho Chúa Thánh Thần hoạt động.
- Nếu được thì nên có giờ đọc và suy niệm chung về Lời Chúa giữa các linh
mục với nhau, cũng như với các tu sĩ và giáo dân. Việc cầu nguyện chung với
Chúa Thánh Thần và cùng chia sẻ về những cảm nghiệm thiêng liêng sẽ làm cho
việc lắng nghe Lời Chúa phong phú hơn.
- Việc lắng nghe Lời Chúa có thể được bổ túc bằng việc suy niệm và lắng
nghe những bản văn mang tính chất tu đức, nhất là của các Tiến Sĩ trong Giáo
Hội.
- Đặc biệt cần chú
trọng đến việc soạn bài giảng, nhất là vào các ngày Chúa Nhật và Lễ Trọng. Việc
chuẩn bị cần lưu ý đến bản chất của bài giảng là giúp cho cộng đoàn hiểu các
Bài Lời Chúa, dẫn vào việc cử hành Phụng Vụ Thánh Thể và thúc đẩy việc hoán cải
đời sống.
- Trong mọi trường
hợp, linh mục luôn có trách nhiệm về một sự chuẩn bị kỹ càng cho bất cứ một
cuộc gặp gỡ nào mang tính chất huấn luyện để người Ki-tô hữu trưởng thành hơn
nhờ việc lắng nghe Lời Mặc Khải.
3. Thừa tác vụ Tha Thứ trong bí tích Hòa Giải
20. "Anh em hãy nhận
lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ
ai, thì người ấy bị cầm giữ" (Ga 20,22-23).
Chúa Giêsu Sống Lại thổi Thần Khí của Ngài trên các tông đồ để ban cho các ông
quyền tha tội (x Mc 2,7). Chính vì tội lỗi nhân lạoi mà Ngài đã phải đổ Máu
mình ra để cứu chuộc. Đây là một ân huệ cao cả nên chúng ta phải làm thế nào để
các Ki-tô hữu dễ dàng gặp gỡ được lòng nhân từ của Chúa, đặc biệt qua bí tích
Hòa Giải để họ được giao hòa với Chúa, với Giáo Hội và lớn lên trong sự thánh
thiện.
21.
Những chỉ dẫn thực hành:
- Để xứng đáng hơn
trong thừa tác vụ tha thứ của Đức Ki-tô, chúng ta đừng bao giờ quên rằng chính
chúng ta là những người tội lỗi như mọi anh chị em khác. Bởi vậy, chúng ta nên
thường xuyên, ít nữa là hằng tháng, đến với bí tích Hòa Giải, để cầu xin Chúa
tha thứ tội lỗi. Chúng ta đến với bí tích này với lòng khiêm nhượng chân thành,
nếu có những lỗi phạm nặng nề, để lãnh nhận từ Chúa Thánh Thần ơn tha thứ và
tiếp tục thừa tác vụ của mình, trong sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa Giêsu là
Đầu và với Giáo Hội là Thân Thể của Ngài.
- Để có một sự huấn luyện và biện biệt lương tâm thì cần phải được hướng
dẫn của một cha linh hướng. Thật vậy, không một ai có thể tự mình lớn lên trong
đời sống Ki-tô hữu.
- Trong thời đại mà con người đang suy giảm ý thức về tội lỗi và ít đến với
bí tích Hòa Giải, thì chúng ta càng phải cảm thấy mình được mời gọi luôn sẵn
sàng để cử hành bí tích này, trung thành với thời giờ đã được ấn định và thông
báo cho giáo dân. Nơi nào vì nhu cầu mục vụ thật sự thì có thể giải tội ngay cả
trong khi cử hành thánh lễ.
- Nên có một thời gian chuẩn bị cho thừa tác vụ này bằng việc cầu nguyện và
cùng thông hiệp cách sâu xa với Con Tim của Chúa Giêsu và lòng nhân từ của
Ngài. Khả năng liên kết lòng nhân từ và sự thật thường giúp cho hối nhân thật
sự hoán cải.
- Bí tích Hòa Giải gồm những giai đoạn cử hành cần được quan tâm để hối
nhân có thể thấu hiểu và sống bí tích này cách hiệu quả. Là thừa tác viên,
chính chúng ta phải biết chuẩn bị cho việc cử hành này, ít ra là những yếu tố
cần thiết, ngay cả lễ phục cũng đóng vai trò rất quan trọng.
4. Thần vụ và việc cầu nguyện riêng
22. “Còn chúng tôi, chúng
tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa” (Cv 6,4).
Các tông đồ đã chọn thiết lập các phó tế ngoài việc phục vụ Lời Chúa, còn phục
vụ cho việc cầu nguyện trong Giáo Hội và cho Giáo Hội cũng như cho toàn thể
nhân loại. Cầu nguyện là việc ưu tiên đối với mỗi giám mục và linh mục, trong
đó liên quan đến cả cộng đoàn như thánh Phao-lô đã viết cho Ti-mô-tê-ô: “Trước
hết, tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả
mọi người” (1Tim 2,1).
23. Việc cầu nguyện hữu hiệu
nhất mà Giáo Hội đã gìn giữ suốt bao thế kỷ là Phụng Vụ Giờ Kinh,
với việc làm này “thánh hiến trọn ngày đêm bằng lời ngợi khen Thiên Chúa”. Cầu
nguyện không chỉ là một việc đạo đức riêng tư nhưng “còn là lời cầu nguyện của
Chúa Ki-tô và thân thể Người dâng lên Thiên Chúa Cha” (Sacrosanctum
concilium, 84). Cầu nguyện cũng là sự lan tỏa trong thời gian chính việc
Tưởng Niệm bí tích Thánh Thể.
Phụng Vụ Giờ Kinh là
một trong những cách biểu hiện của thừa tác vụ linh mục cho Giáo Hội. Nó đặt
chúng ta hiệp thông với Đức Ki-tô, Đấng cầu bàu cho chúng ta trước mặt Thiên
Chúa Cha như thư gởi tín hữu Do Thái khẳng định: “Người có thể đem ơn cứu độ
vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Người
hằng sống để chuyển cầu cho họ” (Dt 7,25).
Vào ngày chịu chức chúng ta đã nhận lãnh bổn phận cử hành hằng ngày toàn bộ
Phụng Vụ Giờ Kinh để làm cho cộng đoàn thừa tác vụ ngợi khen và cầu thay nguyện
giúp của chúng ta không bị suy giảm (x Giáo Luật, 276).
Tuy nhiên, chúng ta đừng vì luật buộc nhưng vì lòng yêu mến tham dự thật sự
vào việc cầu nguyện của Đức Ki-tô và của Giáo Hội khi thi hành bổn phận này. Chính
Chúa Giêsu đã dẫn đưa nhóm môn đệ vào mối tương quan cầu nguyện với Chúa Cha
bằng gương sáng của Ngài (ngày và đêm) cũng như bằng những chỉ dẫn rõ ràng về
việc cầu nguyện (x Mc 1,35; Lc 6,12; 9,18; 11,1-13...).
Mỗi khi có cơ hội chúng ta hãy đọc Phụng Vụ Giờ Kinh chung với anh em linh
mục khác, vì đó là một trong những cách thế sâu xa nhất chứng tỏ tình huynh đệ
linh mục. Ngay cả việc đọc chung với các tu sĩ và giáo dân cũng được cổ võ vì
Phụng Vụ Giờ Kinh là lời cầu nguyện của cả Giáo Hội.
24. Chầu
Mình Thánh Chúa: Cầu nguyện trước mặt Chúa Giêsu đang hiện diện trong
bí tích Thánh Thể là kéo dài sự hiệp thông cách thiêng liêng với Ngài khi cử
hành và là sự chuẩn bị tốt nhất cho việc cử hành. Ngay cả việc lắng nghe và suy
niệm Lời Chúa cũng tìm thấy khung cảnh thuận lợi nhất trước sự hiện diện thật
sự của Chúa Giêsu. Trong khi ngày nay nhiều giáo dân khám phá ra sự phong phú
thiêng liêng của việc cầu nguyện này thì chính các mục tử cũng phải biết làm
gương.
25. Mẹ
Maria, Mẹ của Chúa Giêsu và của Giáo Hội, yêu mến cách đặc biệt các linh mục
bởi vì các ngài nối tiếp giữa loài người hành động cứu rỗi của Con Mẹ. Do đó,
các linh mục cần vun trồng mối tương quan đặc biệt này với Mẹ bằng việc lần
chuỗi mân côi mà sự khôn ngoan của truyền thống giáo hội đã để lại cho chúng ta
và lời kinh này có thể được đọc vào bất cứ giờ nào trong ngày.
Việc tôn kính Đức Mẹ cũng đặt chúng ta sống hòa hợp với biết bao
nhiêu người Ki-tô hữu và với truyền thống của nhiều cộng đoàn đã có những hình
thức thờ phượng và cầu nguyện với Mẹ Maria.
26. Linh
mục cũng cần vun trồng việc tôn kính các thánh bởi vì các
ngài làm cho đức tin vào mầu nhiệm các thánh cùng thông công thêm sống động. Chính
chúng ta đang sống và đang tiến đến sự hiệp thông cùng các thánh. Các ngài hằng
theo dõi trên cuộc hành trình của chúng ta, cầu bàu và làm cho đức tin và niềm
hy vọng thêm vững mạnh bằng chính gương sáng của các ngài: “Như thế, phần chúng
ta, được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh, chúng ta hãy cởi bỏ
mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc
đua dành cho ta” (Dt 12,1).
Lòng đạo đức quần chúng được nuôi dưỡng bằng việc tôn kính các thánh sẽ luôn
cảm thấy các ngài gần gũi hơn trong những khó khăn của cuộc sống.
Qua việc tôn kính này, chúng ta có học hỏi được rất nhiều nơi các thánh, nhờ
tìm hiểu những tiểu sử và các bút tích thiêng liêng của các ngài.
27. Việc
linh thao và tỉnh tâm dành cho các linh mục là những cuộc gặp gỡ cần
phải đặc biệt quan tâm để chia sẻ với những anh em linh mục khác trong khi cùng
theo một cuộc hành trình chung. Chỉ được vắng mặt khi co lý do chính đáng.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần có thêm những ngày thinh lặng và tỉnh tâm khác tại
những nơi thích hợp.
5. Đặc sủng độc thân và các mối tương quan
28. “Phải, tôi là một
người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người,
hầu chinh phục thêm được nhiều người. Với người Do-thái, tôi đã trở nên
Do-thái, để chinh phục người Do-thái. Với những ai sống theo Lề Luật, tôi đã
trở nên người sống theo Lề Luật, dù không còn phải sống theo Lề Luật nữa, để
chinh phục những người sống theo Lề Luật. Đối với những kẻ sống ngoài Lề Luật,
tôi đã trở nên người sống ngoài Lề Luật, dù tôi không sống ngoài luật Thiên
Chúa, nhưng sống trong luật Đức Ki-tô, để chinh phục những người sống ngoài Lề
Luật. Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu.
Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người” (1Cor 9,19-22).
Thừa tác vụ rao giảng Tin Mừng và mục tử đặt chúng ta trong một điều kiện
ngoại thường sống với nhiều mối tương quan khác nhau. Đặc sủng độc thân, ân huệ
của Chúa Thánh Thần, cho chúng ta ơn sống trọn vẹn những tương quan ấy, đồng
thời cũng giữ cho con tim mình được tự do và không chia sẻ.
Con người chúng ta cũng như cách thế đón nhận và yêu mến người khác là lối
diễn tả của con người làm cho anh chị em khác có được kinh nghiệm về đức ái mục
tử của Chúa Giêsu. Nhiều người chờ đợi nơi các linh mục sự tiếp đón và yêu mến họ bằng con tim
của Chúa Giêsu, với cả sự tế nhị, lắng nghe, tự do và trung tín. Họ sẽ cảm thấy
đau khổ và nghịch lý khi gặp thấy nơi linh mục ít quan tâm, thiếu tôn trọng và
không mấy sẵn sàng tiếp đón họ.
Ân huệ độc thân, nếu được vun trồng, thì dần dần linh mục sẽ có được con
tim của người mục tử với những đức tính làm cho mình có khả năng sống các mối
tương quan và đức ái mục tử cách tốt đẹp.
Để anh chị em tín hữu có thể gặp được Nhân Tính của Chúa Giêsu trong nhân
tính mục tử độc thân của chúng ta, thì cả cuộc sống chúng ta phải luôn luyện
tập để ngày càng trở nên giống Chúa Giêsu Mục Tử hơn. Với ơn Chúa và với một nổ
lực hoán cải thật sự, thì không có giai đoạn nào trong cuộc đời mà không thể
làm thay đổi tính tình của mình trở nên tốt hơn.
Có những thái độ và
những việc làm có thể tạo nên những tương quan tốt đẹp: chẳng hạn như chúng ta
nghĩ đến tầm quan trọng của việc nhìn nhận nhau với cả những ưu khuyết điểm của
mỗi người; quảng đại tiếp đón người khác với cả nhu cầu của họ trong con tim và
trong cuộc đời chúng ta; truyền thông rộng mở và tin tưởng đối với người khác
mà vẫn giữ được thế giá của mình; sẵn sàng cộng tác bằng cách chia sẻ những mục
tiêu và tôn trọng lãnh vực của mỗi người; xây dựng tình tương thân tương ái.
Nếu linh mục biết
luyện tập những thái độ này, thì thừa tác vụ của mình sẽ được tăng trưởng trong
sự thánh thiện, nghĩa là trong một đức ái mục tử và trung trinh luôn được thanh
luyện.
29.
Trong Giáo Hội, những tương quan huynh đệ ngoài khả năng con người, còn được
hun đúc nhờ sự thông hiệp với Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể và nhờ sự hoạt
động của Chúa Thánh Thần. Có một sự tương trợ siêu nhiên mà con
mắt phàm trần chúng ta không thể thấy được. Sự thánh thiện của những người đã
được rửa tội có một ảnh hưởng tốt lành trong cả Giáo Hội cũng như những bất
trung và tội lỗi của họ gây nặng nề cho những anh chị em khác.
Sự thánh thiện của giám mục và linh mục sẽ nâng đỡ cộng đoàn tín hữu mà các
ngài được sai đến và cho cả giáo phận.
- Một tương quan được xây dựng trên đức ái sẽ là lời nguyện cầu cho những
ai cùng chúng ta đang lữ hành trên dương thế, cũng như cho những anh chị em đã
qua đời. Chống lại chủ nghĩa hiệu năng của người đời, linh mục luôn biết tin
tưởng vào hiệu năng của lời cầu nguyện ngợi khen và chuyển cầu cho Giáo Hội và
cho riêng mỗi người. Ngoài ra, chúng ta biết rằng lời cầu nguyện và những đau
khổ của anh chị em bệnh hoạn, tật nguyền cũng góp phần cho sự thánh thiện của
anh chị em khác và cho sự hiệp thông trong Giáo Hội.
- Cả việc rao giảng cũng tạo nên một mối tương quan thiêng liêng giữa mục
tử và cộng đoàn. Việc rao giảng Tin Mừng của linh mục, nhờ Chúa Thánh Thần tác
động, đến với lương tâm của các tín hữu và dẫn đưa họ đến với việc hoán cải. Hơn
nữa, còn xây dựng cộng đoàn trên nền tảng cùng một niềm tin vào Chúa Giêsu
Ki-tô.
- Ngày nay, chúng ta cần củng cố niềm tin vào sự tương trợ siêu nhiên
mà Giáo Hội gọi là “các thánh cùng thông công”. Thật vậy, đó chính là mối dây
mạnh nhất nối kết những người đã được rửa tội với Chúa Giêsu và giữa họ với
nhau, một sự liên kết không thể bị cắt đứt ngay cả bởi sự chết.
30. Những mối tương quan nhân
bản quan trọng nhất đối với một linh mục giáo phận đó là tương quan với
giám mục của mình và với tất cả anh em linh mục. Cách thức mà
Chúa Giêsu chỉ dẫn cho nhóm mười hai có thể áp dụng cho linh mục đoàn quanh
giám mục. Như đối với các tông đồ quanh Chúa Giêsu, thì đối với linh mục cũng
vậy, linh mục đoàn là “gia đình” mới không bởi xác thịt mà do bởi Thần Khí (x
Mc 3,31-35; Mt 12,46-50; Lc 8,19-21...). Vì lý do đó, linh mục đoàn được xây
dựng trên ân sủng của bí tích Truyền Chức Thánh, sẽ là nơi chốn cụ thể nhất để
làm tăng trưởng mối tương quan huynh đệ trong các nhân đức.
31. Tương quan với giám
mục. Giám mục có được nơi các linh mục như là những người anh em đầu
tiên và là những cộng tác viên của mình: “Chính vì sự hiệp thông trong cùng một
chức tư tế và thừa tác vụ, các giám mục phải coi các linh mục như anh em và bạn
hữu, và phải hết sức lo lắng đến lợi ích vật chất và nhất là thiêng liêng của
các ngài” (Presbysterorum ordinis, 7).
Mối liên hệ bí tích và trách nhiệm mục vụ chung cần được sống và vun trồng
bằng một tương quan cởi mở và thân thiện giữa giám mục và linh mục.
- Giám mục có bổn phận như một người cha đối với mỗi linh mục của mình,
luôn mở rộng cửa để gặp gỡ và đối thoại, đặc biệt quan tâm đến những anh em
đang gặp khó khăn, sẵn sàng lắng nghe những góp ý, đồng thời cũng mong muốn sự
vâng phục nơi các linh mục khi đã cảm thông được với nhau.
- Linh mục yêu mến giám mục của mình bằng cách cầu nguyện cho ngài trong
mỗi thánh lễ, luôn vâng phục những đòi hỏi của sự cam kết riêng cũng như những
đường lối mục vụ giáo phận, sẵn sàng cộng tác và chia sẻ những thao thức của
giáo phận.
- Giám mục luôn giữ sự hiệp thông với mọi linh mục và với mỗi linh mục, nhờ
cả những người cộng tác luôn sẵn sàng giúp đỡ các anh em mình.
32. Tương
quan với anh em linh mục. Bí tích Truyền Chức Thánh và đồng sứ mạng
trong Giáo Hội làm cho các linh mục trở thành anh em với nhau không phân biệt
người nào và cũng không loại trừ một ai.
- Chia sẻ việc cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa và cùng cử hành Thánh Lễ mỗi
khi có dịp, sẽ nuôi dưỡng tình huynh đệ giữa linh mục với nhau.
- Mối tương quan này sẽ cụ thể hơn trong sự hiệp thông đời sống và sứ vụ
tùy theo những hình thức và mức độ khác nhau. Mọi chương trình mục vụ trong
giáo phận và trong Giáo Hội đều tùy thuộc trước hết vào sự hợp tác của các linh
mục. Đó cũng là một trong những mục tiêu mà mỗi người cần nhìn nhận sự thiếu
sót của mình để có được một sự hoán cải theo lời mời gọi của Chúa.
- Nơi nào các linh mục có thể sống chung, thì phải tổ chức làm sao cho nhà
xứ trở nên nhà của mọi người để có được sự hiệp thông và cộng tác trong việc
mục vụ. Chẳng hạn như giờ cầu nguyện chung, trung thành giữ giờ cơm chung,
những buổi gặp gỡ để xếp đặt và kiểm điểm lại chương trình, sử dụng những
phương tiện chung là bổn phận của mỗi người và là dấu chỉ cụ thể của tình huynh
đệ.
- Những cơ hội hiệp thông giữa các linh mục đều được khuyến khích, chẳng
hạn như họp hạt, ăn chung, chia sẻ Lời Chúa và cùng nhau dọn bài giảng, gặp gỡ
giữa các bạn hữu và bạn cùng lớp. Mỗi người đều góp phần của mình.
- Một hình thức tốt
đẹp và đòi hỏi nhất đối với đức ái là sửa lỗi cho nhau. Việc làm này cần có một
tình yêu chân thành đối với người anh em ngay cả trong những lỗi lầm và yếu
đuối của họ. Trước hết, giữa cá nhân với nhau cách tế nhị, kín đáo. Nếu không
đạt được kết quả thì sau đó mới nhờ đến những anh em khác.
Việc sửa sai cho nhau
cũng giúp chữa lành xu hướng “nói hành nói xấu” và phê bình chỉ trích các bề
trên và anh em mình mà không lãnh nhận một trách nhiệm nào trong việc sửa sai.
- Để đóng vai trò
tích cực vào sự hiệp thông trong hang ngũ linh mục, mỗi linh mục đều được mời
gọi đến một sự hoán cải liên tục để được trưởng thành hơn trong các đức tính. Một
trong các đức tính, đó là tính lạc quan thực tiễn, bởi vì thông thường chúng ta
bị thấm nhiễm bởi một loại bi quan dẫn đến việc nhận ra gay lập tức “cái xà
trong mắt của người anh em” và cả những thất bại của nhiều hình thức huynh đệ
và hợp tác đang có giữa chúng ta. Sự hiệp
thông chỉ được xây dựng bởi những ai biết thẩm định cả từng nửa bước đã thực
hiện được và khuyến khích tiến thêm nửa bước khác.
- Một dấu chỉ tình yêu đối với linh mục và đối với Giáo Hội địa phương là
việc chăm sóc ơn gọi linh mục và đời sống thánh hiến. Giúp các bạn trẻ được mời
gọi đến chức linh mục biết phân định ơn gọi của mình và nâng đỡ họ tiến bước là
bổn phận trước nhất của giám mục và các linh mục.
33. Những mối tương
quan trong các cộng đoàn. Sự hiện diện và hoạt động của mục tử rất quan
trọng trong các cộng đoàn Ki-tô hữu để tạo nên những mối tương quan huynh đệ và
tiếp nhận nhau. Những mối tương quan này có nguồn gốc trong việc cử hành phụng
vụ, nhất là trong thánh lễ. Ngày nay người ta cảm thấy cần phải có những mối
tương quan này bởi vì xã hội hiện tại ngày càng làm cho con người xa cách hơn
là gần gũi nhau.
Chúng ta được mời gọi để trao ban chính con người chúng ta, như những mục
tử tốt lành ở giữa đoàn chiên (x Ga 10,11-13) để làm cho các mối tương quan
huynh đệ tăng trưởng hơn trong các cộng đoàn.
Về bổn phận này, Thánh Phê-rô cũng đã để lại những chỉ dẫn cho các linh mục
như sau: “Cùng các bậc kỳ mục trong anh em, tôi xin có mấy lời khuyên nhủ, vì tôi
cũng thuộc hàng kỳ mục, lại là chứng nhân những đau khổ của Đức Ki-tô và được
dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai. Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên
mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng,
nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc
thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tuỵ. Đừng lấy quyền mà thống trị những
người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn
chiên. Như thế, khi Vị Mục Tử tối cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều
thiên vinh hiển không bao giờ hư nát” (1P 5,1-4).
Mục Tử Tốt Lành trước
hết phải quan tâm đến mỗi người vì phẩm giá của họ là hình ảnh của Thiên Chúa. Không
đối xử phân biệt với bất cứ một ai và đừng để mình bị lệ thuộc vào những điều
kiện xã hội hay lợi lộc vật chất. Trong khi đón tiếp mọi hạng người, người mục
tử biết mình đang dành thời giờ cho sứ mạng để đừng quá hẹp hòi cũng như quá
lãng phí. Khiêm tốn làm những gì có thể được, không nhằm danh lợi và luôn nhớ
rằng mình còn có trách nhiệm đối với cả cộng đoàn nữa.
- Theo gương Chúa
Giêsu, Vị Mục Tử Tốt Lành, luôn quan tâm đến những người nghèo và đau khổ về
thể xác cũng như tinh thần. Ngài không làm việc một mình, nhưng lôi kéo cả mọi
thành phần trong cộng đoàn vào việc bác ái này.
- Vun trồng mối tương
quan với các đôi vợ chồng và các gia đình trong sứ vụ của linh mục, cũng giúp
cho đời sống độc thân của được phong phú hơn và cho đức ái mục tử của mình. Lòng
trung thành của vợ chồng Ki-tô hữu và sự hy sinh của họ, có khi đến mức độ anh
hùng nơi những người cha và người mẹ cho gia đình, là một chứng tá về đức ái
rất cụ thể đối với linh mục. Khi có thể được, linh mục nên viếng thăm các gia
đình và ban phép lành cho họ.
- Đặc biệt cha sở có
trách nhiệm lãnh đạo cộng đoàn Ki-tô hữu trong mọi lãnh vực, bắt đầu từ việc cử
hành Thánh Thể. Đồng thời, linh mục cũng có bổn phận cổ võ các đặc sủng và ơn
gọi trong cộng đoàn, quan tâm đến các đoàn thể, hiệp hội, phong trào, những
người khuyết tật, yếu đau, các gia đình... Nhìn nhận nơi người tín hữu giáo dân
một sự cộng tác tích cực theo khả năng chuyên môn của họ, chứ không chỉ sai bảo
họ từng công việc. Thành lập và canh tân Hội Đồng Mục Vụ và Hội Đồng Kinh Tế
giáo xứ để cộng tác với mình trong việc điều hành cộng đoàn.
- Một dấu chỉ trung
thành với cộng đoàn Ki-tô hữu là sự hiện diện thường xuyên của mình trong giáo
xứ. Những lần vắng mặt, nhất là thời gian lâu, thì cần có lý do chính đáng và
được sự đồng ý của cha quản hạt hoặc các bề trên trong giáo phận. Trong trường
hợp một cha sở phải trông coi nhiều giáo xứ, thì cần phân phối thời gian cho
đồng đều và thông báo chương trình rõ ràng cho giáo dân. Tuy nhiên, điều quan
trọng là bảo đảm sự liên lạc khi cấn kíp.
34. Vun trồng đặc sủng
độc thân. Giáo Hội Công Giáo La-tinh vẫn tái khẳng định, cả trong thời
gian gần nhất, có “nhiều điểm thuận lợi của sự độc thân đối với những thừa tác
viên của Chúa” (Phao-lô VI, Sacerdotalis celibatus, 18). Giáo Hội tiếp
tục tuyển chọn những linh mục của mình giữa những người nhìn nhận đặc sủng sống
độc thân.
Ân huệ này của Chúa
Thánh Thần mang lại trong nhân tính của mục tử một cách thế yêu thương bằng các
phẩm tính của Tin Mừng nơi những ai biết từ bỏ tất cả để đón nhận tất cả nhân
danh Chúa Giêsu. Cũng như mỗi ân huệ thiêng liêng khác, ân huệ độc thân cũng cần
được gìn giữ và vun trồng để nó có thể trưởng thành hơn và không bị hư mất.
- Luật độc thân,
trước hết, cần được gìn giữ trong mối tương quan với Chúa Giêsu với cả nhiệt
tình, trọn vẹn và với cả con tim không chia sẻ. Cuộc đối thoại tình yêu với
Chúa Giêsu Sống Lại mà chúng ta đã nói đến ngay từ đầu đối với linh mục sống
độc thân vẫn mang một đặc tính hỗ tương sâu sắc đến nỗi nó được định nghĩa như
là một “hôn ước”. Mọi người đều được yêu thương trong mối tương quan với Chúa
Giêsu và thiện ích dành cho họ đều dẫn đến với Ngài, trong khi chúng ta vẫn yêu
thương họ bằng cả con tim: “Thật thế, cho dầu anh em có ngàn vạn giám thị
trong Đức Ki-tô, anh em cũng không có nhiều cha đâu, bởi vì trong Đức Ki-tô
Giê-su, nhờ Tin Mừng, chính tôi đã sinh ra anh em” (1Cor 4,15).
- Tiếp đến, cần được
vun trồng và vui sống rộng mở hằng ngày với anh chị em, bằng con tim luôn nhạy
bén trong tự do, tế nhị, để hướng dẫn mọi người đến với Chúa Giêsu, chứ không
phải dẫn đưa họ đến với mình. Tình bạn chân thành với người khác và với các gia
đình đối với một linh mục là điều rất tốt đẹp và hữu ích. Tuy nhiên, tình bạn
đó đừng trở nên một sự đối xử phân biệt và có thể làm cho người khác phải đau
buồn.
- Sự độc thân trưởng thành được gìn giữ nhờ có đức khiết tịnh, sống tự
trong tâm hồn, trong giác quan và trong cả thân xác. Cần có một tinh thần khiêm
tốn, cảnh giác về những năng lực tình cảm và tính dục, đừng để mình rơi vào
những mối tương quan không mấy tự do và thiếu tôn trọng phẩm giá của người
khác, ngay cả khi người ấy không có một thỏa hiệp nào.
-
Cách riêng, phải có lòng chân thành tế nhị trong các mối tương quan với nữ giới
mà chúng ta thường tiếp xúc gặp gỡ trong khi phục vụ cộng đoàn. Lịch sử của
Giáo Hội cho chúng ta thấy, nữ giới thường đóng góp rất nhiều cho các cộng đoàn
với sự nhiệt tình của họ. Đồng thời, chúng ta phải làm sao để giữ được một tương
quan trong sáng đối với mọi người, đừng để họ xa lánh Giáo Hội vì chính lối
sống của chúng ta.
- Trong bối cảnh đầy
quyến rũ trên lãnh vực tính dục như xã hội ngày nay, chúng ta cần lưu ý đến
việc sử dụng các phương tiện truyền thông và luôn nhớ đến điều mà Chúa Giêsu đã
cảnh giác cho các môn đệ: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì
hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném
vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném
đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục” (Mt
5,29-39).
Sự khôn ngoan của các
bậc thầy linh hướng mời gọi chúng ta hãy xa lánh những cơ hội để khỏi phải sa
chước cám dỗ dẫn đưa đến tội lỗi và quấy rối lòng ước muốn và bản năng của
chúng ta.
Nơi nào có các linh
mục sống chung, thì có thể giúp đỡ nhau trong việc sử dụng tốt các phương tiện
truyền thông chung, chẳng hạn như truyền hình, internet và các dụng cụ truyền
thông xã hội khác.
35. Một lối sống biểu
lộ căn tính của mình. Người ta thường nhìn linh mục như người đã dâng
mình cho Thiên Chúa, người rao giảng Tin Mừng, người cử hành các Mầu Nhiệm
Thánh, người tiếp nhận mọi người bằng đức ái và lòng kính trọng. Bởi vậy, họ
chờ đợi nơi con người linh mục một lối sống xứng hợp hơn, ngay cả trong cách ăn
mặc, nói năng và hành động.
Ngôn từ, cách diễn tả, những sở thích cá nhân, phong cách của linh mục phải
biểu lộ sự trưởng thành giữa con người và thừa tác vụ, giữa vai trò và căn tính
riêng.
36. Tương quan với thân
nhân. Với việc thụ phong chúng ta đã được thánh hiến cho Giáo Hội, do
đó, những tương quan máu mủ với thân nhân cũng chịu thay đổi. Chúng ta từng
biết rằng Chúa Giêsu đòi hỏi gì nơi những người muốn theo Ngài: “Một người
khác nữa lại nói: "Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ
biệt gia đình trước đã." Đức Giê-su bảo: "Ai đã tra tay cầm cày mà
còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa." (Lc
9,61-62).
- Các bậc phụ huynh thường đồng hành và cùng trưởng thành với con mình trong
thời gian ở chủng viện, và các ngài cũng theo dõi người con linh mục của mình
qua lời cầu nguyện cũng như nâng đỡ bằng cách này hoặc cách khác.
- Là con cái, linh mục cũng được mời gọi đáp trả những gì mình đã lãnh nhận
được từ nơi cha mẹ bằng lòng yêu mến và chăm sóc đối với các ngài, nhất là
trong những giai đoạn khó khăn của đời người, cùng hợp tác với những anh chị em
và thân nhân khác.
- Tuy nhiên, mối tương quan này đòi hỏi một sự tự do thật sự để đừng gây ảnh
hưởng nhiều đến trách nhiệm mà linh mục phải có đối với Giáo Hội. Sự tự do ấy
tránh được những can thiệp của thân nhân vào những chọn lựa mục vụ và cả trong
lãnh vực kinh tế.
6. Tổ chức thời giờ
37. Sử dụng thời giờ cách
khôn ngoan là một việc làm rất quan trọng đối với đời sống thiêng liêng như Lời
Chúa đã nhắn gởi chúng ta: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ
hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 90,12). Bởi vậy, chúng ta cần có những nguyên
tắc chính xác để sử dụng tốt thời giờ mà Chúa đã ban. Chúng ta là những người
có toàn quyền tự do trong việc tổ chức thời giờ và cả trong những chọn lựa mà
không một ai có thể hỏi lý do nếu không phải là Chúa.
- Phụng Vụ Giờ Kinh
và cử hành Thánh Lễ phải là việc thánh hóa thời giờ của cả những hoạt động khác
làm nên ngày sống của chúng ta.
Trung thành với việc
cầu nguyện qua Phụng Vụ Giờ Kinh giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa của thời gian
mà Chúa Giêsu đã khai mạc bằng Việc Sống Lại của Ngài: “Thưa anh em, tôi xin
nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay [...] kẻ hưởng
dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến
đi” (1Cor 7,29.31).
- Cần có một kỷ luật
trong chương trình làm việc và ngủ nghỉ để có được một ngày sống quân bình. Bắt
đầu ngày sống của mình sớm cũng là một dấu chỉ cụ thể cảm thông với những công
nhân và những người cha gia đình thường phải thức khuya dậy sớm. Kỷ luật trong
chương trình kết thúc ngày sống của mình với giờ Kinh Tối, cũng giúp mình khỏi
phải mất thời giờ vào những chuyện vô bổ.
- Công việc hằng ngày
cũng cần được sắp xếp theo tính chất ưu tiên của thừa tác vụ, không làm việc
theo cảm hứng hoặc đột xuất. Xem lại chương trình sống hằng ngày với cha linh
hướng hoặc với một người anh em bạn làm sao cho việc phục vụ của mình đối với
cộng đoàn mang lại được kết quả tốt đẹp.
- Các phương tiện
truyền thông xã hội (truyền thanh, truyền hình, dụng cụ âm nhạc, internet, điện
thoại...) cần được sử dụng như những dụng cụ cần thiết theo một mực độ nào đó. Điều
này đòi hỏi phải có một kỷ luật giúp chúng ta làm chủ các phương tiện ấy, đồng
thời không mất nhiều thời giờ hoặc trở thành “nô lệ” của chúng.
- Để mang lại hiệu
quả cho sứ mạng linh mục hôm nay, chúng ta cần tìm thời giờ học hỏi thêm, bởi
vì những gì chúng ta đã học trong những năm ở chủng viện vẫn luôn được bổ túc
và phong phú hơn qua những tài liệu của Huấn Quyền, những sách báo có giá trị,
những tin tức về các biến cố trong xã hội. Không có việc học hỏi này thì kiến
thức và việc giảng dạy của chúng ta ngày càng nghèo đi.
- Sự khôn ngoan còn
mời gọi chúng ta chọn thời giờ nghỉ ngơi và giải trí. Nên dành một ngày nghỉ
trong tuần và một thời gian nghỉ trong năm (không nên quá một tháng, liên tục
hoặc gián đoạn), và thời gian nghỉ ngơi này cũng cần được sống theo tinh thần
tin mừng, đồng thời cũng bồi dưỡng cho chúng ta về sức khõe cũng như mang lại
lợi ích cho thừa tác vụ. Trong chiều hướng
này, giáo phận cũng khuyến khích anh em chia sẻ những kỳ nghỉ với nhau. Ngoài
thời gian ấy, anh em nào vắng mặt quá một tuần thì cần báo cho Cha Quản Hạt
hoặc Đấng Bản Quyền biết.
- Bảo vệ sức khõe
cũng là một bổn phận quan trọng để chúng ta có thể phục vụ hữu hiệu hơn. Điều
kiện sống độc thân đôi lúc làm chúng ta không mấy quan tâm đến sức khõe của
mình. Bởi vậy, cần phải có một sự quân bình khôn ngoan trong việc làm, kể cả
việc ăn uống, cũng như khám sức khõe định kỳ.
7. Sử dụng tiền của theo
đòi hỏi của đức khó nghèo
38. “Không ai có thể làm
tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này
mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền
Của được. Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn;
cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và
thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? [...] Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi:
ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm
kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết
hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ
kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,24-25.31-33).
Một trong những dấu chỉ phân biệt mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi người môn đệ là
thái độ không dính bén đến tiền của. Nhờ vậy, chúng ta được tự do để phục vụ
Chúa và Vương Quốc của Ngài. Hơn nữa, nó còn chứng tỏ lòng tín thác của chúng
ta vào Chúa Cha với sự Quan Phòng của Ngài, Đấng không bao giờ bỏ rơi con cái
như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta trong Kinh Lạy Cha.
Giáo dân rất nhạy bén nhận thấy nơi chúng ta dấu chỉ phân biệt này và thường
chỉ trích linh mục nào quá ham mê tiền của. Bởi vậy, trong một xã hội tiêu thụ
như ngày nay, chúng ta phải coi chừng đừng để mình bị ảnh hưởng và sống nghịch
với Tin Mừng.
39. Một vài chỉ dẫn:
- Đối với linh mục triều có một nguyên tắc căn bản này:
tiền bạc mà linh mục nhận được từ nhiều nguồn khác nhau không phải là tài sản
riêng để mình sử dụng vào bất cứ việc gì. Tất cả đều đến từ lòng bác ái của
nhiều người ở nhiều nơi khác nhau trong Giáo Hội nhằm phục vụ cho Giáo Hội.
- Với
tình trạng xã hội hiện nay, linh mục được xếp vào trong số những người có đời
sống vật chất khá bảo đảm. So với nhiều giáo dân và gia đình của họ đang thiếu
thốn về mọi mặt, thì chúng ta như những người được ưu đãi hơn. Cũng vì thế,
chúng ta sẽ phải tính sổ trước mặt Chúa.
- Sau
khi chi phí vào những gì cần thiết cho cuộc sống, linh mục phải biết dùng những
tiền của để phục vụ cho cộng đoàn giáo xứ, cho công việc truyền giáo, đặc biệt
chia sẻ cho những người đang gặp khó khăn, để tâm hồn chúng ta khỏi phải dính
bén vào những kho tàng chóng qua: "Anh em đừng tích trữ cho mình những
kho tàng dưới đất, [...] Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó”. (Mt
6,19.21). Đừng để người ta cho rằng một linh mục mà chỉ lo thu tích tiền của.
- Đối
với linh mục cũng có thể áp dụng tâm thức tin mừng về người quản lý tốt trong
việc chi dùng tiền của: "Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng
Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón
rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”(Lc 16,9).
- Chúa
Giêsu cũng đòi hỏi nơi những người rao giảng Tin Mừng đừng mang theo bao bị hay
áo choàng để thay (x Mt 10,10). Nếu không áp dụng được từng chữ thì ít nữa
chúng ta cũng phải có một lối sống đơn giản trong các ăn mặc, trong phương tiện
đi lại, trong những dụng cụ thông thường, trong cách giải trí và nghỉ ngơi.
Ngay cả trong cách chưng bày tại nhà xứ và cách sống, linh mục cần chứng tỏ
tính đúng mức và xứng hợp, đồng thời cũng tạo được sự tiếp đón cần thiết. Điều
này càng cần phải lưu ý hơn khi có nhiều linh mục cùng chung sống. “Phải tránh tất cả
những gì bằng cách này hay cách khác có thể làm mình xa cách người nghèo, và
hơn các môn đệ khác của Đức Ki-tô, các linh mục phải loại bỏ mọi thứ khoe
khoang trong các đồ dùng của mình. Các ngài phải xếp đặt chỗ ở của mình thế nào
để không ai coi đó là nơi bất khả xâm phạm, và để không một ai dù nghèo hèn đến
đâu phải sợ hãi không bao giờ dám lui tới” (Presbyterorum
ordinis, 17).
- Cần
phải lương thiện trong trách nhiệm đối với việc quản lý giáo xứ hay những công
việc khác của giáo phận về mặt kinh tế. Cha sở, trong nghi thức nhậm chức, đã
tuyên bố làm việc theo những nguyên tắc rõ ràng và nghiêm chỉnh. Cần chia sẻ
những chọn lựa của mình với những cơ chế đã có và trình bày lý lẽ của những
chọn lựa ấy cách rõ ràng. Ngoài ra, cần lưu ý đến những quy luật giáo phận về
việc quản trị các tài sản.
- Làm di
chúc là một việc làm công minh, nhất là di chúc thiêng liêng để lại cho anh em
linh mục và giáo dân những cảm nghiệm về chính đời linh mục của mình. Trong di
chúc, cần ghi cách rõ ràng về tiền của riêng sẽ để lại cho những ai. Tuy nhiên,
hãy luôn nhớ rằng những gì mình có, trước hết, nên nghĩ đến những nhu cầu của
Giáo Hội, đặc biệt lưu ý đến những nơi cần thiết, chẳng hạn như cho công việc
truyền giáo, chủng viện, nhà hưu dưỡng linh mục...
- Một
điều khác cần lưu ý là thường có nhiều người đến với linh mục để xin trợ giúp
về tiền bạc. Bên cạnh lòng quảng đại còn có đức khôn ngoan, đừng để mình phải
sa vào cạm bẫy tình cảm hoặc bị lừa gạt. Cần phải rõ ràng và cẩn trọng trong
việc quản lý tiền bạc, nhất là khi nó không phải tài sản riêng. Và ngay cả tiền
của riêng cũng phải được sử dụng trước hết cho những việc cần thiết của cộng đoàn.
8. Kết luận
40. “Chúng tôi đã quý mến anh em, đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh em, không những
Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa, vì anh em đã trở
nên những người thân yêu của chúng tôi” (1Thes 2,8).
Lời
này nói lên con tim của Thánh Phao-lô Tông đồ và người rao giảng Tin Mừng với
cả đức ái mục tử của mình. Trong lời này, chúng ta cũng nghe được âm vang của
lệnh truyền mà Chúa Giêsu Sống Lại đã nói với Phê-rô: "Hãy
chăm sóc chiên con của Thầy” và “hãy
chăn dắt chiên mẹ của Thầy". Đối với linh mục, việc chăm
sóc đoàn chiên của Đức Ki-tô có nghĩa là truyền đạt Tin Mừng của Ngài bằng cả
cuộc sống của mình.
Chính
con tim mục tử chúng ta cũng phải luôn trở nên giống con tim của Đức Ki-tô mỗi
ngày một hơn, nhờ được đánh động bởi đức ái của Chúa Ki-tô và của Thần Trí
Ngài.
Quy
Luật sống sẽ giúp chúng ta trung thành trao ban Tin Mừng Cứu Độ bằng chính việc
trao ban cả cuộc đời chúng ta.
Lm. Augustinô Nguyễn Văn Dụ
đã biên soạn và
chuyển ngữ các sách
về hôn nhân và gia đình
2.
Mục Vụ và Linh Đạo Hôn Nhân và Gia Đình, với lời giới thiệu của ĐHY FX.
Nguyễn Văn Thuận, Roma 2003. Tái bản có bổ sung, TTMV Việt Nam – Italia 2007.
3.
Hôn Nhân và Gia Đình trong các Tài Liệu của Huấn Quyền, với lời giới
thiệu của Đức Cha P. Nguyễn Văn Hòa, Roma 2003.
4.
Thiên Chúa mời gọi chúng ta đến với tình yêu. Tài liệu chuẩn bị Hôn
Nhân, với lời giới thiệu của ĐHY GB Phạm Minh Mẫn. Tòa Tổng Giám Mục TP HCM,
2004.
5.
Giải đáp thắc mắc luân lý liên quan đến tình yêu và tính dục, hôn nhân và
gia đình, sự sống toàn diện. Trung Tâm Mục Vụ Việt Nam – Italia, 2004,
2005, 2007.
6.
Gia Đình trong trái tim và vai trò ngôn sứ của Đức Gioan Phaolô II. Trên
160 sứ điệp và bài giảng của Đức Gioan Phaolô II về gia đình. Tòa Tổng Giám Mục
TP HCM, 2006.
7.
Hội nhập văn hóa trong Hôn Nhân và Gia Đình Việt Nam. Trung Tâm Mục Vụ
Việt Nam – Italia, 2006.
8.
Hướng dẫn mục vụ gia đình, Lời giới thiệu của ĐHY GB Phạm Minh Mẫn, lưu
hành nội bộ, Toà TGM TP HCM 2006, 2007.
9.
Hành trình tiến đến Hôn Nhân, dành cho học viên. Nhà Xuất Bản Tôn Giáo
2006.
10. Hành trình tiến
đến Hôn Nhân, dành cho người hướng dẫn, Nhà Xuất Bản Tôn Giáo 2006.
11.
Bước vào đời sống Hôn Nhân. Tài liệu chuẩn bị Hôn Nhân. Toà TGM TPHCM
2004; Nhà Xuất Bản Tôn Giáo 2007.
12.
Thầy đã làm gương cho anh em. nguyên tác của Đức Cha Enrico
Masseroni. Lời giới thiệu của Đức TGM Tê-phan Nguyễn Như Thể. Nhà Xuất Bản Tôn
Giáo 2007.
13.
Đồng hành với các đôi bạn và gia đình trẻ – tài liệu mục vụ sau ngày
cưới. (sắp xuất bản).
14.
Người
Kitô hữu giáo dân: giữa căn tính và những thách đố mới, nguyên tác của Đức Cha Enrico Masseroni. (sắp xuất bản)