BỘ GIÁO
SĨ
Nhìn lẠi nhân kỶ
niỆm 40 năm
THÔNG ĐIỆP
SACERDOTALIS CAELIBATUS
CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG
PHAOLÔ VI *
TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐỘC THÂN LINH MỤC
Nhìn lẠi nhân kỶ
niỆm 40 năm
THÔNG ĐIỆP
SACERDOCTALIS CAELIBATUS
CỦA ĐỨC GIÁO HOÀNG
PHAOLÔ VI
TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐỘC THÂN LINH MỤC
Sắp kỷ niệm 40 năm
ban hành Thông điệp "Sacerdotalis
caelibatus" của Đức Thánh Cha Phaolô VI, Bộ Giáo sĩ coi đây là dịp
thuận tiện để nhắc lại giáo huấn của Huấn quyền trong văn kiện quan trọng này.
Độc thân linh mục
thực sự là một hồng ân quý giá của Chúa Giêsu dành cho Hội thánh Ngài, một ân
ban cần phải luôn suy niệm và tăng cường mãi, đặc biệt trong thế giới ngày nay,
đang bị tục hóa sâu xa.
Quả thật, nhũng
nhà nghiên cứu đều xác định rằng, nguồn gốc độc thân linh mục sẽ dẫn chúng ta
trở lại thời các tông đồ. Ignace de la Potterie đã viết : "Các nhà nghiên
cứu đều đồng ý nói lên, nghĩa vụ sống độc thân hay ít là tiết dục đã trở thành
luật của Giáo hội từ thế kỷ thứ IV [...]. nhưng điều quan trọng cần ghi nhận
là, các nhà làm luật thế kỷ thứ IV và thứ V đều quả quyết, quy định này của
Giáo hội đã dựa vào truyền thống các tông đồ. Chẳng hạn, Công đồng Carthage
(năm 390) đã nói : "Những người phục vụ mầu nhiệm thánh phải hoàn toàn tiết dục (continentes esse in omnibus)
để điều các tông đồ truyền dạy và thời xưa đã tuân giữ, chúng ta cũng phải
tuân hành"[1].
Cũng trong chiều hướng đó, A. M. Stickler đã nại đến chứng cứ Kinh thánh nhằm
chủ trương tình trạng độc thân là ơn linh hứng từ thời các tông đồ"[2].
Diễn tiến lịch sử
Huấn quyền Hội
thánh đã không ngừng lặp lại những quy định về tình trạng độc thân trong Giáo
hội. Công đồng Elvira (300-303?) đã quy định ở khoản 27 : "Một Giám mục,
cũng như mọi giáo sĩ khác, chỉ được nhận một người chị em hay một trinh nữ đã
thánh hiến phụ giúp bên cạnh mình. Quy định là : tuyệt đối không được giữ bên
cạnh mình một người nữ lạ mặt nào" ; và ở khoản 33 : "Quy định chung
về luật cấm sau đây cho các giám mục, linh mục, phó tế, cũng như cho tất cả các
giáo sĩ đang thi hành thừa tác vụ : họ không được ăn ở với vợ mình và không
được sinh con, ai lỗi phạm sẽ phải rời bỏ nếp sống giáo sĩ"[3].
Đức Giáo hoàng
Sirice (384-399), trong thư gửi Giám mục Imerius de Tarragone, đề ngày
10.02.385, cũng quả quyết : "Chúa Giêsu [...] muốn rằng, dung mạo của Hội
thánh mà Ngài là Hôn phu, phải toát ra vẻ ngời sáng của đức trong sạch [...]
tất cả linh mục chúng ta phải liên kết với luật bền vững của những quy định này
[...] để ngay từ ngày chịu chức, chúng ta luôn giữ tâm hồn và thân xác chúng ta
trong tiết độ và liêm khiết, hầu làm đẹp lòng Chúa, Thiên Chúa chúng ta, qua
những hi sinh mà hằng ngày chúng ta tiến dâng"[4].
Trong Công đồng
chung Latran thứ nhất năm 1123, ở khoản 3, chúng ta đọc được : "Chúng tôi
tuyệt đối cấm các linh mục, phó tế, phụ phó tế chung sống với người nữ ngoài
hôn nhân hay với vợ mình và chung sống với phụ nữ khác không phải là những
người nữ mà Công đồng Nicée (325) đã cho phép"[5].
Cũng vậy, trong khóa 24 của Công đồng Trente, ở khoản 9, cũng nhắc lại : đối
với các giáo sĩ có chức thánh hay các tu sĩ đã tuyên khấn trọng thể giữ đức
trong sạch, tuyệt đối không được kết hôn. Và với quy định đó, việc vô hiệu hôn
nhân lại liên kết với bổn phận phải cầu xin Chúa ban ơn trong sạch trong một ý
ngay lành.[6]
Vào thời điểm mới
hơn, Công đồng chung Vatican II đã lặp lại trong sắc lệnh "Presbyterorum ordinis"[7]
mối liên kết chặt chẽ giữa độc thân và Nước Thiên Chúa, một khởi đầu sự sống
mới, mà thừa tác viên Hội thánh được thánh hiến để phục vụ.
Với Thông điệp
ngày 24.6.1967, Đức Phaolô VI đã giữ lời hứa với các Nghị phụ công đồng hai năm
trước. Ngài xem xét các ý kiến bác bẻ được nêu lên liên quan đến kỷ luật độc
thân và nhấn mạnh trên nền tảng Kitô học, cũng như tham chiếu lịch sử và những
gì mà tài liệu những thế kỷ đầu tiên đã dạy chúng ta về nguồn gốc sự độc thân -
tiết dục, nhằm củng cố trọn vẹn giá trị của độc thân.
Thượng Hội đồng
Giám mục năm 1971, trong tài liệu chuẩn bị Ministerium
presbyterorum (15.02) cũng như trong tài liệu kết thúc Ultimis temporibus (30.11), cũng quả quyết sự cần thiết phải bảo
toàn sự độc thân trong Giáo hội La tinh, và giải thích nền tảng, sự đồng nhất
lý do và điều kiện để cổ võ sự độc thân.[8]
Bộ Giáo luật mới
của Giáo hội La tinh năm 1983 đã lặp lại truyền thống cố hữu : "Các giáo
sĩ buộc phải giữ tiết dục trọn vẹn và vĩnh viễn vì Nước Trời và do đó buộc phải
sống độc thân, là ân ban đặc biệt của Thiên Chúa, do đó thừa tác viên thánh
chức có thể kết hợp dễ dàng hơn với Chúa Kitô với một con tim không chia sẻ và
tự do hơn để miệt mài phục vụ Thiên Chúa và mọi người"[9].
Thượng Hội đồng
Giám mục năm 1990 cũng diễn ra trong đường hướng đó, và tiếp theo tông huấn Pastores dabo vobis của Vị tôi trung
Thiên Chúa, Đức Giáo hoàng Gioan-Phaolô II, đã được ban hành, trong đó Đức
Thánh Cha đã trình bày độc thân như một đòi hỏi triệt để của Tin Mừng, nhằm cổ
võ cách đặc biệt một kiểu sống hôn nhân và nêu lên sự đồng hình đồng dạng của
người linh mục với Chúa Kitô, nhờ bí tích Truyền chức.[10]
Cuốn Giáo lý Hội
thánh Công giáo, ấn hành năm 1992 và thu nhập những hoa trái đầu tiên của biến
cố lớn Công đồng chung Vatican II, cũng lặp lại cùng một giáo thuyết :
"Trong Giáo hội La-tinh, trừ các phó tế vĩnh viễn, mọi thừa tác viên có
thánh chức thường được tuyển chọn từ những người nam sống độc thân và có ý giữ
độc thân vì Nước Trời"[11].
Trong Thượng hội
đồng Giám mục về Thánh Thể gần đây nhất, theo ấn bản tạm thời, chưa chính thức
những đề nghị chung cuộc, đã được Đức Giáo hoàng Bênêđitô XVI chuẩn nhận, thì
trong đề nghị số 11, về vấn đề thiếu giáo sĩ trong một số miền trên thế giới và
vấn đề Dân Chúa "đói Thánh Thể", ta cũng nhận thấy "tầm quan
trọng của hồng ân độc thân vô giá của Hội thánh trong thực hành thuộc Giáo hội
La-tinh". Tham chiếu Huấn quyền, đặc biệt Công đồng chung Vatican II và
các Vị Giáo hoàng gần đây, các nghị phụ đã yêu cầu làm sáng tỏ cách thích đáng
những lý do trong mối tương quan giữa độc thân và việc truyền chức linh mục, và
hoàn toàn tôn trọng truyền thống Giáo hội Đông phương. Một số nghị phụ cũng đề
cập đến vấn đề "những người nam chịu thử thách", nhưng giả thuyết đó
được coi như con đường không thể vượt qua.
Mới đây, ngày 16
tháng 11 vừa qua, Đức Giáo hoàng Bênêđitô XVI đã chủ tọa tại điện Vatican một
buổi họp thường xuyên các vị đứng đầu các bộ thuộc giáo triều Rôma. Trong dịp
này, hội nghị đã tái khẳng định giá trị việc chọn lựa nếp sống độc thân linh
mục, phù hợp với truyền thống công giáo liên tục, và lặp lại đòi hỏi phải huấn
luyện vững chắc về nhân bản và nếp sống Kitô đối với các chủng sinh cũng như
đối với các linh mục đã chịu chức.
Những lý do của độc thân thánh chức
Trong Thông điệp Sacerdotalis caelibatus, trước hết Đức
Phaolô VI đã trình bày hoàn cảnh, trong đó vấn đề độc thân linh mục được đặt ra
cho thời đại hôm nay, xét về phương diện thừa nhận, cũng như những phản bác về
vấn đề này. Những lời nói của ngài mang tính quyết đoán và nay vẫn còn hiện
thực : "Độc thân thánh chức mà Giáo hội giữ từ nhiều thế kỷ như một thứ
châu báu ngời sáng, vẫn bảo toàn trọn vẹn giá trị của mình đối với thời đại
chúng ta, đang ghi đậm những biến đổi sâu xa về não trạng và cơ cấu"[12].
Đức Phaolô VI đã bày tỏ, chính ngài đã suy nghĩ lâu giờ, khi tự hỏi mình về đề
tài này, để có thể trả lời những phản bác, và ngài kết luận : "Vì vậy,
chúng tôi cho rằng luật độc thân hiện hành, vẫn còn giá trị đối với thời đại
chúng ta và luôn bền vững, cần phải liên kết với thừa tác vụ Giáo hội. Luật đó
phải nâng đỡ thừa tác viên Hội thánh trong việc chọn lựa độc hữu, dứt khoát và
trọn vẹn trước tình yêu duy nhất và tối cao đối với Chúa Kitô, trước sự tận tâm
phụng sự Thiên Chúa và phục vụ Giáo hội. Luật đó cũng phải xác định tình trạng
sống độc thân trong cộng đoàn các tín hữu cũng như trong xã hội phàm thế"[13].
Đức Giáo hoàng
viết thêm : "Đúng vậy, như Công đồng chung Vatican II đã tuyên bố, bản
chất chức linh mục, cũng như việc thực hành trong Giáo hội sơ khởi và truyền
thống các Giáo hội Đông phương minh chứng (Presb. Ord. 16), sự trinh khiết
không phải là sự bó buộc, nhưng chính Công đồng đã không ngần ngại long trọng
quả quyết luật cổ kính, thánh thiện và do Chúa quan phòng về việc độc thân linh
mục, như đang có hiện nay, luôn trình bày những lý do biện minh cho độc thân
trước những ai biết nhận ra những ân sủng của Chúa trong tinh thần đức tin và
với lòng quảng đại nồng nhiệt bên trong"[14].
Đúng vậy, độc thân
là một ân huệ Chúa Kitô trao ban cho những ai được gọi tiến tới chức linh mục.
Ân huệ này cần được đón nhận với tình yêu, niềm vui và thái độ biết ơn. Như
thế, ân huệ này sẽ là nguồn mang lại hạnh phúc và sự thánh thiện.
Đức Phaolô VI
trình bày ba lý do của độc thân thánh chức, đó là : ý nghĩa Kitô-học, ý nghĩa
giáo-hội-học, ý nghĩa cánh-chung-học.
Chúng ta bắt đầu
với ý nghĩa Kitô-học. Chúa Kitô là điều mới lạ. Ngài thực hiện một cuộc tạo
dựng mới. Chức linh mục của Ngài là mới mẻ. Ngài canh tân mọi sự. Chúa Giêsu,
Con Một Chúa Cha, được sai đến trần gian, "đã làm người, để nhân loại,
không tránh khỏi tội lỗi và sự chết, được ơn tái sinh và nhờ sự sinh lại, sẽ
bước vào Nước Trời. Hiến mình trọn vẹn cho ý Cha Ngài, Chúa Giêsu đã nhờ công
cuộc vượt qua của mình để hoàn thành công cuộc tạo dựng mới này, khi đưa vào
thời gian và thế giới một hình thức sống mới mẻ, tinh tế, và thiêng thánh, nhằm
biến đổi thân phận trần gian của con người"[15].
Hôn nhân tự nhiên,
được Thiên Chúa chúc phúc ngay từ lúc tạo dựng, nhưng đã bị tội lỗi làm thương
tổn, đã được canh tân nhờ Chúa Kitô, Đấng "đã nâng hôn nhân lên hàng bí
tích cao cả và trở thành dấu chỉ huyền nhiệm cho sự kết hợp của Ngài với Hội
thánh" [...]. Nhưng Chúa Kitô, Đấng trung gian cho một Giao ước cao cả hơn
(x. Dt 8,6), đã mở ra một con đường
khác, nhờ đó con người thụ tạo, khi liên kết hoàn toàn và trực tiếp với Chúa,
chỉ còn lo lắng cho Chúa và những gì liên hệ đến Ngài, sẽ biểu lộ cách rõ ràng
và trọn vẹn hơn thực tại được đổi mới sâu xa của Giao ước mới"[16].
Sự mới mẻ này, con
đường mới này là đời sống trong tình trạng trinh khiết mà chính Chúa Giêsu đã
sống, cách hòa hợp với bản tính trung gian của Ngài giữa trời và đất, giữa Chúa
Cha và nhân loại. "Để sống hòa hợp trọn vẹn với sứ vụ này, Chúa Kitô đã
luôn sống trong tình trạng trinh khiết suốt cuộc đời mình, nghĩa là Ngài tận
hiến trọn vẹn để phục vụ Thiên Chúa và con người"[17].
Phục vụ Thiên Chúa và con người, có nghĩa là yêu thượng trọn vẹn và quảng đại,
ghi dấu sự sống của Chúa Giêsu trong chúng ta. Đó là sự trinh khiết vì tình yêu
Nước Thiên Chúa !
Hiện nay, Chúa
Kitô vẫn kêu gọi các linh mục Ngài trở thành thừa tác viên ơn cứu độ, nghĩa là
thừa tác viên của công cuộc tạo dựng mới. Ngài mời gọi họ hiện hữu và sống
trong sự sống mới, kết hợp và trở nên giống Ngài trong một hình thức hoàn hảo
nhất có thể. Hồng ân độc thân thánh chức phát sinh từ đó, như sự đồng hình đồng
dạng trọn vẹn hơn với Chúa Giêsu và như lời loan báo trước về cuộc tạo dựng
mới. Ngài gọi các tông đồ là "bạn hữu". Ngài mời gọi họ theo sát
Ngài, trong mọi sự, cho đến chấp nhận Thập giá. Và Thập giá sẽ dẫn họ đến phục
sinh, đến công cuộc tạo dựng mới hoàn tất. Vì thế, chúng ta biết rằng, theo
Ngài với sự trung thành trong tình trạng trinh khiết, luôn bao hàm một hy sinh,
sẽ dẫn chúng ta tới hạnh phúc. Thiên Chúa không mời gọi ai đến bất hạnh, nhưng
tới hạnh phúc. Tuy nhiên, hạnh phúc luôn đi song đôi với việc trung thành. Đó
là điều mà Đức Gioan-Phaolô II đáng kính nhớ của chúng ta, đã nói với các đôi
bạn tụ họp chung quanh Ngài trong cuộc họp mặt thế giới các gia đình lần thứ
hai, tại Rio de Janeiro.
Như thế, lại cần
gợi lên đề tài về ý nghĩa cánh-chung-học của độc thân, xét như dấu chỉ và lời
báo trước về cuộc tạo dựng mới, nghĩa là về Nước Thiên Chúa chung cuộc trong
biến cố Quang Lâm, khi mà tất cả chúng ta sẽ sống lại từ cõi chết.
Như Công đồng
Vatican II đã dạy chúng ta : "Giáo hội là mầm mống và khai nguyên Nước
Thiên Chúa trên trần gian"[18].
Trong ngày sau hết, sự trinh khiết đã được sống vì tình yêu Nước Thiên Chúa, sẽ
là một dấu chỉ đặc biệt, bởi lẽ Chúa đã loan báo : "khi sống lại [...] người
ta không còn lấy vợ, lấy chồng, nhưng sẽ sống như các thiên thần Chúa trên
trời"[19].
Trong một thế giới
như thế giới chúng ta hôm nay, thế giới của phô diễn và thú vui dễ dãi, bị
quyến rũ bởi nhiều sự việc trần thế, đặc biệt bởi tiến bộ khoa học và kỹ thuật
- chúng ta hãy gợi lại các khoa sinh vật học và các công nghệ sinh vật học -
thì việc loan báo một cõi khác, nghĩa là một thế giới sẽ đến, một cuộc Quang
lâm, như sự hoàn tất trọn vẹn một tạo dựng mới, luôn mang tính quyết định và
đồng thời sẽ giải thoát mọi hàm hồ nan giải, những náo động, khổ đau và mâu
thuẫn, giúp đạt được những thiện hảo đích thực, những kiến thức mới mẻ và sâu
sắc mà tiến bộ của con người hiện đại đang mang đến.
Sau hết, ý nghĩa
giáo-hội-học của độc thân sẽ dẫn chúng ta cách trực tiếp hợn đến hoạt động mục
vụ của linh mục.
Thông điệp quả
quyết : "Quả thực, sự trinh khiết thánh hiến của các thừa tác viên có
thánh chức biểu lộ tình yêu trinh khiết của chính Chúa Kitô với Hội thánh và sự
sinh sản trinh khiết và siêu nhiên của việc kết hợp này"[20].
Sống giống Chúa Kitô và trong Chúa Kitô, linh mục sẽ kết hôn cách mầu nhiệm với
Hội thánh, yêu mến Hội thánh với một tình yêu độc hữu. Như thế, hiến mình trọn
vẹn cho những công cuộc của Chúa Kitô và của Thân Thể mầu nhiệm Ngài, linh mục
sẽ hưởng được một thứ tự do thiêng liêng rộng lớn để yêu mến phục vụ cách trọn
vẹn mọi người, không phân biệt ai.
"Như thế, đối
với người linh mục : hằng ngày khi chết cho mình, khi vì tình yêu Chúa và triều
đại Ngài mà từ chối tình yêu hợp pháp của một gia đình dành riêng cho mình, họ
sẽ nhận được vinh quang của một sự sống tròn đầy và phong phú trong Chúa Kitô,
bởi lẽ, như Ngài và trong Ngài, linh mục sẽ yêu mến mọi con cái Thiên Chúa và
hiến thân cho họ"[21]
Thông điệp còn đề
cập thêm, "độc thân sẽ tăng cường khả năng của linh mục để lắng nghe Lời
Chúa và cầu nguyện, cũng như giúp linh mục biết đặt trên bàn thờ toàn diện đời
sống mình, mang đậm những dấu chỉ của hy sinh"[22].
Giá trị của đời sống trong sạch và độc thân
Trước khi trở
thành một quy định Giáo luật, độc thân là một hồng ân của Thiên Chúa dành cho
Giáo hội Ngài, đó là vấn đề liên hệ đến việc hiến mình trọn vẹn cho Chúa. Ngay
trong sự phân biệt giữa kỷ luật độc thân của người đời với đời sống tu trì của
thánh hiến và tuyên khấn, chắc chắn sẽ không có một giải thích và biện minh nào
khác về nếp sống độc thân trong Giáo hội, ngoài việc tận hiến hoàn toàn cho
Chúa, trong một quan hệ mà xét theo quan điểm yêu thương có thể nói được là độc
chiếm ; điều đó giả định trước một tương quan sâu xa của cá nhân cũng như cộng
đoàn với Chúa Kitô, Đấng biến đổi tâm hồn các môn đệ Ngài.
Việc chọn lựa độc
thân của Giáo hội công giáo theo nghi lễ La-tinh đã phát triển từ thời các tông
đồ, chính xác là trong đường hướng tương quan giữa linh mục với Chúa của mình,
và dùng câu "Con có yêu Thầy hơn những người này không?"[23]
mà Chúa Giêsu Phục sinh đã nói với Phêrô như biểu tượng quan trọng.
Các lý do Kitô
học, giáo hội học và cánh chung học của độc thân, đều ăn sâu trong mối hiệp
thông đặc biệt với Chúa Kitô mà người linh mục được mời gọi thể hiện, do đó có
thể được diễn tả bằng nhiều cách theo như khẳng định đầy thẩm quyền của Thông
điệp Sacerdotalis caelibatus.
Trước hết, độc
thân là "dấu chỉ và yếu tố khích lệ đức ái mục vụ"[24].
Đức ái này tiêu biểu cho chuẩn mực tối cao để xem xét đời sống kitô hữu dưới
mọi khía cạnh : độc thân là con đường của tình yêu, cho dù chính Chúa Giêsu,
như Tin mừng theo thánh Matthêu tường thuật, đã quả quyết rằng mọi người không
thể hiểu thực tại đó : "Không phải ai cũng hiểu được câu nói ấy, nhưng chỉ
những ai được Thiên Chúa cho hiểu mới hiểu"[25].
Một đức ái như thế
sẽ diễn biến trong hai khía cạnh cố hữu của tình yêu đối với Thiên Chúa và với
mọi anh em. "Khi giữ khiết tịnh hay độc thân vì Nước Trời, các linh mục
tận hiến mình cho Chúa Kitô một cách mới mẻ và đặc biệt. Họ sẽ gắn kết với Ngài
cách dễ dàng hơn, với một con tim không chia sẻ"[26].
Thánh Phaolô, trong đoạn văn mà ta nêu lên ở đây, đã trình bày độc thân và
trinh khiết như "những phương thế làm đẹp lòng Chúa" không chia sẻ [27]
: nói cách khác, đó là "con đường tình yêu", chắc chắn giả định trước
một ơn gọi đặc biệt, và theo ý hướng ấy, đó cũng là một đặc sủng, tự nó rất
tuyệt hảo với người kitô hữu cũng như với linh mục.
Tình yêu triệt để
đối với Thiên Chúa, nhờ đức ái mục vụ, sẽ trở nên tình yêu đối với anh em.
Trong Sắc lệnh Presbyterorum ordinis,
chúng ta đọc được, các linh mục "trong Chúa Kitô và nhờ Ngài, sẽ tự do hơn
để hiến mình phục vụ Thiên Chúa và mọi người, sẽ sẵn sàng hơn trong việc phục
vụ Nước Chúa và công cuộc tái sinh siêu nhiên, sẽ có khả năng hơn để lãnh nhận
rộng rãi tư cách làm cha trong Chúa Kitô"[28].
Kinh nghiệm chung đều quả quyết, mở rộng tâm hồn tới anh em mình cách trọn vẹn
và quảng đại sẽ đơn giản hơn đối với những người không bị những mối dây quyến
luyến khác ràng buộc, cho dù những liên hệ đó là hợp pháp và thánh thiện, ngoài
mối dây liên kết với Chúa Kitô.
Độc thân là mẫu
gương chính Chúa Kitô đã để lại cho chúng ta. Ngài đã muốn sống độc thân. Thông
điệp còn giải thích thêm : "Suốt đời mình, Chúa Kitô luôn sống trong tình
trạng trinh khiết, nghĩa là Ngài hiến mình trọn vẹn để phục vụ Thiên Chúa và
mọi người. Mối dây liên kết sâu xa này, trong Chúa Kitô, đã liên kết trinh
khiết với chức linh mục, sẽ phản ánh nơi những người được diễm phúc tham dự vào
sứ vụ cao quý của Đấng Trung gian và Linh mục đời đời ; và sự tham dự này sẽ
càng hoàn hảo, khi thừa tác viên có chức thánh thoát khỏi mọi liên hệ huyết
nhục”[29].
Đời sống lịch sử
của Chúa Giêsu Kitô là dấu chỉ rõ ràng nhất : Đức trong sạch được tự nguyện đón
nhận vì Chúa, là một ơn gọi được xây dựng vững chắc trên bình diện Kitô học
cũng như bình diện lý lẽ của con người.
Nếu đời sống Kitô
hữu nói chung không thể khẳng định mình là gì cách thích đáng, nếu loại trừ
chiều kích thập giá, thì đời sống linh mục có thể càng không hiểu được nếu
thiếu ánh sáng soi chiếu của Đấng chịu đóng đanh. Đau khổ, đôi khi những khó
khăn, và ngay cả thất bại, đều có vị trí của chúng trong đời sống linh mục, cho
dù xét cho cùng, nó không bị quyết định bởi những yếu tố đó. Khi chọn lựa theo
Chúa kitô, ngay từ giây phút đầu tiên, ta đã dấn thân cùng đi với Ngài lên đồi
Can-vê, vì ý thức rằng chấp nhận thập giá của riêng mình là yếu tố xác định
tính triệt để của việc theo Chúa.
Sau hết, khi ta đề
cập độc thân là một dấu chỉ cánh chung. Trong Hội thánh, Nước tương lai đã hiện
diện ngay từ bây giờ : Giáo hội không chỉ loan báo Nước đó, nhưng còn thể hiện
nó cách bí tích, khi góp phần vào "cuộc tạo dựng mới", cho đến ngày
vinh quang của mình được biểu lộ cách trọn vẹn.
Trong khi bí tích
hôn phối làm cho Giáo hội ăn rễ sâu vào hiện tại, thì trinh khiết lại trực tiếp
hướng đến tương lai, đến sự hoàn hảo trọn vẹn của việc tạo dựng, là công cuộc
chỉ được thực hiện hoàn toàn trong ngày tận thế.
Những phương thế giúp trung thành sống độc
thân
Sự khôn ngoan của
Hội thánh, chuyên gia về con người, với 2000 năm dày dạn kinh nghiệm, đã xác
định theo dòng thời gian một số yếu tố căn bản và cần thiết, để cổ võ con cái
mình trung thành với đặc sủng siêu nhiên độc thân.
Giữa những yếu tố
đó và trong Huấn quyền mới đây, dậy lên tầm quan trọng của việc huấn luyện
thiêng liêng linh mục, là người được mời gọi trở thành "chứng nhân cho
Đấng tuyệt đối". Tông huấn Pastores
dabo vobis quả quyết : "Được đào tạo để làm linh mục, có nghĩa là
luyện tập để có thể tự mình trả lời câu hỏi cơ bản của Chúa Kitô : "Con có
yêu mến Thầy không?". Đối với người linh mục tương lai, câu trả lời chỉ có
thể là tận hiến trọn vẹn đời sống mình".[30]
Trong chiều hướng đó, những năm huấn luyện là tuyệt đối căn bản, những năm còn
xa, sống trong gia đình, cũng như những năm sẽ tới, những năm sống tại chủng
viện, là trường dạy tình yêu đích thực ; trong đó, như cộng đoàn tông đồ, các
chủng sinh trẻ tập họp quanh Chúa Giêsu, chờ đợi ân ban của Thần Khí Ngài cho sứ
vụ của mình. "Quan hệ của linh mục với Chúa Giêsu Kitô, và trong Ngài, với
Hội thánh, được ghi khắc trong chính con
người linh mục, nhờ việc thánh hiến hay xức dầu bí tích, và trong hành động
của linh mục, nghĩa là trong sứ vụ hay trong thừa tác vụ".[31]
Chức linh mục không là gì khác hơn là một "đời sống kết hợp mật thiết với
Chúa Giêsu Kitô",[32]
trong một tương quan hiệp thông thân mật, đươc diễn tả "với một sắc thái
tình bạn".[33]
Thực sự, đời sống linh mục là một dạng sống không thể tưởng tượng nổi nếu không
có Chúa Kitô. Chính sức mạnh chứng tá
của linh mục cũng căn dựa vào mối tương quan đó : trinh khiết vì Nước Thiên Chúa là một dữ kiện có thực, nó hiện hữu bởi
lẽ Chúa Kitô hiện hữu và làm cho trinh khiết trở thành hiện thực.
Tình yêu đối với
Chúa chỉ đích thực khi nó hướng đến tình trạng trọn vẹn : yêu Chúa Kitô có
nghĩa là hiểu sâu sắc về Ngài, là theo sát con người Ngài, là chia sẻ và đong
hóa với tư tưởng Ngài, và sau hết, là quảng đại đón nhận những đòi hỏi triệt để
của Tin mừng. Ta chỉ có thể làm chứng
cho Thiên Chúa, nếu ta có cảm nghiệm sâu xa với Chúa Kitô : toàn diện đời sống linh mục tùy thuộc vào mối
tương quan với Chúa, đó là tính chất đời sống martyria, đời sống làm chứng của ngài.
Nhân chứng của
Đấng Tuyệt Đối, chỉ có thể là người đã thực sự có Chúa Giêsu như Bạn và Chúa,
là người vui hưởng mối hiệp thông với Ngài. Chúa Kitô không chỉ là đối tượng
của suy tư, của những đề tài thần học hay ký ức lịch sử. Ngài là Chúa đang hiện
diện. Ngài hằng sống bởi lẽ đã sống lại và chúng ta chỉ có thể sống động với
điều kiện là mỗi ngày chúng ta càng tham dự sâu xa hơn vào sự sống của Ngài.
Toàn thể đời sống linh mục đều dựa vào đức tin hiển nhiên đó. Vì thế, Thông
điệp quả quyết : "Trước hết, linh mục phải nỗ lực phát triển sự thân tình
của mình với Chúa Kitô bằng tất cả tình yêu mà ân sủng đã thông ban và cố gắng
khám phá ra trong đó mầu nhiệm vô biên và giàu ân phúc. Ngài phải đạt đến một
hiểu biết mỗi ngày càng thêm thâm sâu về mầu nhiệm Hội thánh, ngoài mầu nhiệm
đó bậc sống của ngài có nguy cơ xem ra phi lý và bấp bênh".[34]
Ngoài việc huấn
luyện và tình yêu Chúa Kitô, yếu tố cốt thiết để bảo toàn độc thân là lòng say
mê vì Nước Thiên Chúa, nghĩa là khả năng làm việc nhiệt thành, không quản ngại
nỗ lực để cho Chúa Kitô được mọi người hiểu biết, yêu mến và bước theo. Như
người nông dân, khi gặp được viên ngọc quý, đã bán tất cả để mua cho được thửa
ruộng, cũng vậy, người đã gặp được Chúa Kitô và hiến trọn đời mình cùng với
Ngài và cho Ngài, sẽ không thể sống mà không hoạt động để người khác có thể gặp
được Ngài. Không có viễn cảnh sáng sủa đó, mọi "bộc phát truyền giáo"
đều thất bại, các phương pháp học biến thành kỹ thuật bảo toàn một hệ thống và
chính kinh nguyện cũng có thể trở nên những kỹ thuật suy niệm và tiếp cận với
thiêng thánh, trong đó cả cái "tôi" nhân loại và danh xưng "Ngài"
Thiên Chúa đều tan loãng.
Một việc làm căn
bản và cần thiết của linh mục, được coi như yêu cầu và bổn phận, đó là cầu
nguyện. Quả thực, cầu nguyện không thể thay thế trong đời sống Kitô hữu, và do
đó, trong đời sống linh mục. Cần phải dành cho cầu nguyện một quan tâm đặc biệt
: cử hành Thánh Thể, kinh Thần vụ, xưng tội thường xuyên, sống tương quan yêu
thương với Đức Trinh Nữ Maria Rất Thánh, những buổi linh thao, đọc kinh Mân côi
hằng ngày, đó là một số những dấu chỉ thiêng liêng của một tình yêu, mà nếu
thiếu vắng, đương nhiên có nguy cơ sẽ bị thay thế bằng những thế vật, thường là
xấu ác như hình ảnh lố lăng, tham vọng, tiền bạc, dục tính. Linh mục là người
của Thiên Chúa, vì ngài được Thiên Chúa mời gọi trở thành một người như thế và
sống căn tính con người đó trong sự lệ thuộc trọn vẹn vào Chúa mình, Đấng cũng
tự tỏ bày trong việc chọn lựa độc thân. Đó là một người của Thiên Chúa, vì linh
mục sống nhờ Ngài, nói về Ngài, cùng với Ngài phân biệt và quyết định trong
thái độ vâng phục đầy tình con thảo, những gian đoạn đời sống kitô hữu của
mình. Như Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI nhấn mạnh trong lời chúc mừng Giáng Sinh
trước Giáo triều Rôma ngày 22/12 vừa qua, linh mục càng triệt để là người của
Thiên Chúa, thì chứng tá của ngài càng hữu hiệu và phong phú và thừa tác vụ của
ngài ngày càng giàu hoa trái hoán cải. Không có mâu thuẫn giữa thái độ trung
thành với Thiên Chúa và lòng trung thành đối với con người, nhưng ngược lại,
thái độ trung thành với Chúa là điều kiện giúp ta trung thành với con người.
Kết luận : Một ơn gọi thánh thiện
Tông huấn Pastores dabo vobis, khi nói về ơn gọi
linh mục sống thánh thiện, sau khi nhấn mạnh đến tầm quan trọng của mối tương
quan cá nhân với Chúa Kitô, đã diễn tả một đòi hỏi khác : linh mục, được mời
gọi thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng, thấy mình được phó thác cho Tin mừng để
biến Tin mừng thành ân huệ cho mọi người. Tuy nhiên, trước hết linh mục cũng
được mời gọi đón nhận Tin mừng như ân huệ được hiến tặng cho đời sống mình, cho
con người mình, và như biến cố cứu độ giúp mình bước vào đời sống thánh thiện.
Trong hướng nhìn
đó, Đức Gioan-Phaolô II đã nói về tính triệt để Tin mừng là phải trở thành nét
đặc trưng của sự thánh thiện linh mục. Do đó, trong những lời Khuyên Phúc âm,
theo truyền thống đã được Giáo hội đề nghị và được sống trong những bậc sống
đời thánh hiến khác nhau, có thể vạch ra những bước đường thực thi triệt để Tin
mừng cách sống động, mà người linh mục cũng được mời gọi trung thành tuân giữ
theo cách của mình.
Tông huấn quả
quyết : "Những lời khuyên Phúc âm khác nhau mà Chúa Giêsu đã đề nghị trong
Bài giảng trên núi là cách diễn tả đặc biệt tính triệt để Tin mừng. Trong những
lời khuyên được phối kết mật thiết
với nhau, có đức vâng phục, trong sạch và nghèo khó. Linh mục được mời gọi sống các lời khuyên ấy theo thể
thức, và hơn nữa, theo mục đích và ý nghĩa nguyên thủy, như chúng phát xuất từ
căn tính linh mục và biểu lộ căn tính ấy".[35]
Còn nữa, khi nhắc
lại chiều kích bản thể mà tính triệt để của Tin mừng căn dựa vào đó, Tông huấn
đã viết : "Khi thánh hiến linh mục và làm cho linh mục trở nên đồng hình
đồng dạng với Chúa Giêsu Kitô, là Đầu và Mục tử, Chúa Thánh Thần tạo lập mối
dây liên kết ngay trong con người linh mục. Mối dây liên kết ấy phải được đảm
nhận và sống một cách cá biệt, nghĩa là với ý thức và tự do, nhờ một đời sống
hiệp thông và yêu thương ngày càng phong phú hơn, và nhờ sự chia sẻ những tâm
tình và thái độ của Chúa Giêsu Kitô ngày càng lớn mạnh và triệt để hơn. Nền
tảng và sức mạnh cần thiết cho "đời sống trong Thần Khí" và cho "tính
triệt để của Tin mừng" mà linh mục được mời gọi hướng tới và thường huấn
về phương diện thiêng liêng thường cổ võ, tất cả đều hiện diện trong mối dây
liên kết với Chúa Giêsu và linh mục, một liên kết mang tính bản thể và tâm lý,
bí tích và đạo đức".[36]
Đặc tính hôn lễ
của độc thân trong Giáo hội, rõ ràng do mối tương quan giữa Chúa Kitô và Giáo
hội mà linh mục được mời gọi giải thích và sống, có thể mở rộng tinh thần của
đặc tính đó, bằng cách chiếu tỏa đời sống mình và đốt nóng tâm hồn mình. Độc
thân phải là một sung sướng hiến dâng, một nhu cầu sống với Chúa Kitô, để Ngài
lại tuôn đổ trên linh mục lòng nhân hậu và tình yêu Ngài cách tràn đầy và hoàn
hảo, khó có thể diễn tả thành lời. Về vấn đề này, Đức Thánh Cha Bênêđitô XVI đã
có những lời khai sáng : "Nền tảng đích thực của độc thân chỉ có thể hàm
chứa trong câu : "Dominus pars"
(mea) – Chúa là phần sản nghiệp con.
Độc thân chỉ có thể tập trung vào Thiên Chúa. Nó không có nghĩa là thiếu tình
yêu, nhưng có nghĩa là để cho niềm đam mê vì Thiên Chúa ngự trị, và sau hết,
nhờ một hiện diện thân mật hơn bên cạnh Ngài, học phục vụ mọi người. Độc thân
phải là một chứng tá đức tin : đức tin vào Thiên Chúa trở nên cụ thể trong dạng
thức sống này, luôn có một ý nghĩa là chỉ thuộc về Thiên Chúa. Đặt đời sống
mình vào Ngài, trong khi khước từ hôn nhân và gia đình có nghĩa là tôi đón nhận
và tôi cảm nghiệm Thiên Chúa như một thực tại và vì thế tôi có thể mang Ngài
đến cho mọi người".[37]
* Độc thân linh mục thực sự là một hồng ân quý giá
của Chúa Giêsu dành cho Hội thánh Ngài, một ân ban cần phải luôn suy niệm và
tăng cường mãi, đặc biệt trong thế giới ngày nay, đang bị tục hóa sâu xa. (Lm. Giuse Phạm Quang Tòng chuyển dịch văn
kiện ngày 24/02/2007)
[1] x. I. de la Potterie, Nền tảng Kinh thánh của độc thân linh mục,
trong Solo per amore. Suy tư về độc
thân linh mục, Cinisello Balsamo, 1993, các trang 14-15.
[2] x. A. M. Stickler, trong Ch.
Cochini, Nguồn gốc tông đồ của độc thân linh mục, Nhập đề số 6.
[3] x. H. Denzinger, Enchiridion
symbolorum definitiorum et declarationum de rebus fidei et morum, ed. P.
Hnermann, Bologne, 1995 ; nn.118 - 119, p, 61.
[4] Như trên, số 185, trang 103.
[5] Như trên, số 711, trang 405.
[6] Như trên, số 1809, trang 739.
[7] CĐ Vatican II, Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, số 16.
[8] Cẩm nang các Thượng hội đồng
Giám mục, do văn phòng THĐGM xuất bản, Bologne, 2005 các số 755-855, 1068-1114,
đặc biệt 1100-1105.
[9] Bộ Giáo luật, khoản 277, §1
[10] Gioan-Phaolô II, Tông huấn Pastores dabo vobis, 25.3.1992, số 24.
[11] Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 1579.
[12] Phaolô VI, Thông điệp Sacerdotalis caelibatus, số 1.
[13] Như trên, số 14.
[14] Như trên, số 17.
[15] Như trên, số 19.
[16] Như trên, số 20.
[17] Như trên, số 21.
[18] x. CĐ Vatican II, Hiến chế tín
lý Lumen gentium, số 5.
[19] Như trên,
[20] Phaolô VI, Tđ. Sacerdotalis caelibatus, số
26.
[21] Như trên, số 30.
[22] x. Như trên, số 27-29.
[23] Ga
21,15. 24) 26) 27) 28) 29)
[24] Phaolô VI, Tđ. Sacerdotalis
caelibatus, số 24.
[25] Mt 19,11
[26] Vat. II. Sl. Presbyterorum ordinis, số 16.
[27] x. 1Cr 7,32-33.
[28] Vat. II. Sl. PO, số 16.
[29] Phaolô VI, Tđ. Sacerdotalis caelibatus, số 21.
[30] Gioan-Phaolô II, th. Pastores dabo vobis, số 27.
[31] Như trên, số 16.
[32] Như trên, số 46.
[33] Như trên, số 46.
[34] Phaolô VI, Tđ. Sacerdotalis caelibatus, số 75.
[35] Gioan-Phaolô II, th. Pastores dabo vobis, số 27.
[36] Như trên, số 72.
[37] Bênêđitô XVI, Diễn từ trước Giáo triều Rôma dịp Noel,
22.12.2206.