Suy
Tư: Linh Mục, Tôi Tớ Và Bạn Hữu Của Chúa Kitô
(giaophanhatinh.com)
- 29 Tháng Ba, 2021
1. Nguồn
gốc của mọi thiên chức linh mục
Chủ đề
linh mục là đề tài rất được quan tâm và mang tính thời sự trong thế kỷ qua.
Công Đồng Vaticanô II đã dành trọn một tài liệu cho chủ đề này với sắc lệnh
Presbyterorum Ordinis; năm 1992, thánh Gioan Phaolô II đã gửi tới toàn thể Hội
Thánh tông huấn hậu thượng hội đồng Pastores Dabo Vobis, về việc huấn luyện các
linh mục trong bối cảnh hiện nay; tiếp đến, khi công bố năm thánh linh mục
2009-2010, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI đã phác thảo cách vắn gọn nhưng rất sâu
sắc dung mạo linh mục dưới ánh sáng cuộc đời của Cha Sở xứ Ars. Cùng với đó là
vô số những suy tư của nhiều tác giả trên thế giới được thực hiện và nhiều cuốn
sách viết về chân dung và sứ vụ của linh mục qua dòng thời gian, trong đó rất
nhiều tác phẩm có giá trị.
Vậy
chúng ta có cần nói thêm gì về đề tài linh mục nữa không? Tôi được gợi hứng từ
câu nói của một nhà giảng thuyết khi bắt đầu khóa linh thao: “Non nova ut
sciatis, sed vetera ut faciatis – điều quan trọng không phải là biết những điều
mới, nhưng là thực hành những điều đã biết”. Vì thế, ở đây, tôi không có chủ
đích đưa ra những tóm tắt về huấn quyền, hay tham vọng trình bày tổng quát chân
dung lý tưởng linh mục, vì khả năng không cho phép. Nhưng nếu được, tôi chỉ
muốn gợi lên những nét đẹp của linh mục, dựa trên một số trích đoạn Lời Chúa
nói về linh mục.
Trích
đoạn Kinh Thánh được dùng ở đây như sợi chỉ đỏ hướng dẫn chúng ta là trích đoạn
1 Cr 4,1, một trích đoạn được rất nhiều người biết đến trong bản dịch Latin
Volgata: “Sic nos existimet homo ut ministros Christi et dispensatores
mysteriorum Dei. Vậy chớ gì thiên hạ coi chúng tôi như những đầy tớ của Đức
Kitô, những người quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa”.
Từ
trích đoạn này, chúng ta có thể đối chiếu định nghĩa trong thư gửi tín hữu
Hípri: “Thượng tế nào cũng là người được chọn trong số người phàm, và được đặt
lên làm đại diện cho loài người, trong các mối tương quan với Thiên Chúa, để
dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội” (Hr 5,1).
Đây là
những dẫn chứng có sức mạnh đưa chúng ta tới nguồn gốc nguyên thuỷ của mọi
thiên chức linh mục, nghĩa là tới tình trạng “nguồn” của mạc khải khi thừa tác
vụ Tông Đồ này chưa được phân biệt và phát sinh thành ba cấp bậc theo giáo luật
là giám mục, linh mục và phó tế. Mỗi cấp có những chức năng riêng biệt và bắt
đầu trở nên rõ ràng hơn vào đầu thế kỷ II với thánh Ignatiô thành Antiokia.
Sách Giáo Lý Công Giáo đã làm nổi bật nguồn cội chung của chức linh mục khi
định nghĩa: “Truyền Chức Thánh là bí tích qua đó, sứ vụ Đức Kitô đã uỷ thác cho
các Tông Đồ của Người được tiếp tục thực thi trong Hội Thánh cho đến tận thế: vì
vậy đây là bí tích của thừa tác vụ Tông Đồ”.[1]
Khi
nhìn lại lịch sử của thiên chức linh mục, nhà thần học người Pháp, Yves Congar
OP., cho rằng: “Theo Tân Ước, chức vụ này là quyền bính khiêm tốn và huynh đệ
để phục vụ, nhưng chỉ vì một sự lạm dụng và vì quá trình lịch sử có thể giải
thích được, có thể cảm thông và có thể thay đổi, quyền bính này đã mặc những
chiếc áo “vương đế” hoặc bị ảnh hưởng bởi những hình thức “phong kiến” và được
trang phục bằng những y phục của vua chúa”.[2] Người ta dễ dàng nhận ra
khuynh hướng giảm thiểu chức linh mục và việc truyền chức như là một thứ quyền
bính (pouvoir) trong giai đoạn Trung Cổ, đặc biệt ở thời kỳ Kinh Viện từ thế kỷ
XII đến XIII.[3] Theo Yves Congar, chức linh mục tự thân không phải là một
thứ “quyền lực,” cũng không phải là một thứ địa vị, hay chức tước trong Giáo
Hội, nhưng trên hết là một đặc sủng (charisma) của Chúa Thánh Thần, được ban
tặng để phục vụ lợi ích chúng của Hội Thánh.[4]
Bởi
thế, chúng ta sẽ cố gắng làm sáng tỏ vấn đề khi quy chiếu càng nhiều càng tốt
giai đoạn đầu tiên, để nắm bắt được bản chất của tác vụ linh mục. Trước hết,
chúng ta sẽ tìm hiểu vế đầu câu nói của thánh Tông Đồ: “Những tôi tớ của Đức
Kitô”. Sau đó chúng ta sẽ tiếp tục suy tư về ý nghĩa của việc trở thành “người
quản lý các mầu nhiệm của Thiên Chúa” và những mầu nhiệm mà linh mục phải quản
lý là gì?
“Những
tôi tớ của Chúa Kitô!” (dấu chấm than để chỉ sự cao cả, phẩm giá và vẻ đẹp của
danh hiệu này). Ước gì từ ngữ này phải chạm đến trái tim chúng ta nhờ bài suy
niệm này và làm cho trái tim chúng ta rung động với niềm tự hào thánh thiện. Ở
đây, chúng ta không bàn về những việc phục vụ hay sứ vụ cụ thể, chẳng hạn như
quản lý Lời Chúa và các bí tích; nói cách khác, chúng ta không nói về việc phục
vụ như một hành động, nhưng như một trạng thái, một ơn gọi nền tảng và như căn
tính của linh mục. Chúng ta nói về điều này với cùng một ý nghĩa và tinh thần
giống như thánh Phaolô, người luôn tự giới thiệu mình như thế ở đầu các lá thư
của ngài: “Phaolô, tôi tớ của Chúa Kitô Giêsu, được gọi làm Tông Đồ” (Rm 1,1).
Trên
tấm hộ chiếu vô hình của mình, linh mục hiện diện hàng ngày trước nhan Thiên
Chúa và với dân Người, như một lời tuyên xưng: “Tôi tớ của Chúa Giêsu Kitô”. Dĩ
nhiên, mọi Kitô hữu đều là tôi tớ của Chúa Kitô, nhưng linh mục là tôi tớ theo
một cách thức và ý nghĩa rất đặc biệt, cũng như tất cả mọi người được rửa tội
đều là tư tế, nhưng mọi thừa tác viên được truyền chức thánh là một tước hiệu
có một ý nghĩa khác biệt và cao trọng hơn.
2. Linh
mục tiếp tục công trình của Chúa Kitô
Sứ vụ
chính yếu mà linh mục được mời gọi để phục vụ Chúa Kitô là tiếp tục công trình của
Người trong thế gian: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga
20,21). Trong lá thư nổi tiếng gửi tín hữu Côrintô, Đức Giáo Hoàng Clêmentê đã
nhận xét: “Đức Kitô được Thiên Chúa sai đến, còn các Tông Đồ được Đức Kitô sai
đi… Khi rao giảng khắp nơi ở nông thôn cũng như thành thị, họ đã chỉ định những
người kế vị đầu tiên của mình là những người được đặt lên nhờ sự chứng thực của
Chúa Thánh Thần, để làm giám mục và phó tế”. Như vậy, Chúa Kitô được Chúa Cha
sai đến, các Tông Đồ được Chúa Kitô sai đi, các giám mục được các Tông Đồ tuyển
chọn. Đây là lời công bố rõ ràng về nguyên lý kế vị mang tính tông truyền.
Hiểu
cách sâu xa, Lời Chúa Giêsu không chỉ có ý nghĩa pháp lý và hình thức. Nghĩa là
người ta không chỉ tìm thấy quyền của các thừa tác viên đã được phong chức để
nói là “được Chúa Kitô sai đến”; trái lại, Lời Chúa còn cho biết lý do và nội
dung của sứ vụ này giống như việc Chúa Cha sai Chúa Con đến trong thế gian. Tại
sao Thiên Chúa sai Con Người đến trong thế gian? Ở đây, chúng ta cũng không hy
vọng có được những câu trả lời đầy đủ và phổ quát, vì cần phải đọc toàn bộ Tin
Mừng; đây chỉ là một vài cố gắng làm sáng tỏ công trình của Chúa Giêsu.
Trước
mặt Philatô, Người đã trịnh trọng khẳng định: “Tôi đã sinh ra và đã đến thế
gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật” (Ga 18,37). Do đó, tiếp tục công
trình của Chúa Kitô đòi hỏi linh mục phải làm chứng cho sự thật, làm cho ánh
sáng của sự thật được toả rạng. Về điểm này, chúng ta cần phải để ý đến nghĩa
kép của từ chân lý “aletheia,” trong Gioan. Nó dao động giữa thực tại thần linh
và hiểu biết về thực tại thần linh, giữa ý nghĩa hữu thể luận (ontologico) hay
ý nghĩa khách quan và ý nghĩa nhận thức luận (gnoseologico) hay ý nghĩa chủ
quan. Một cách cơ bản, chân lý là “thực tại vĩnh cửu như được mặc khải cho con
người, vừa liên hệ tới thực tại, vừa liên hệ tới mặc khải của nó”.[5]
Trước
hết, cách giải thích truyền thống thường hiểu “chân lý” theo nghĩa được mặc
khải và hiểu biết về chân lý; nói cách khác, chân lý như là chân lý thuộc tín
điều. Đây chắc chắn là một phận vụ chính yếu. Hội Thánh tuyên bố các chân lý
này thông qua Huấn Quyền, các Công Đồng, các nhà thần học, và các linh mục khi
rao giảng cho dân “giáo huấn lành mạnh”.
Tuy
nhiên, chúng ta không được quên một ý nghĩa khác của chân lý theo Gioan: đó là
thực tại được biết đến, hơn là sự hiểu biết về thực tại. Dưới ánh sáng này,
phận vụ của Hội Thánh và của các linh mục không chỉ giới hạn trong việc loan
báo các chân lý đức tin, nhưng còn phải giúp họ kinh nghiệm chân lý, đi vào
liên hệ mật thiết và cá vị với thực tại Thiên Chúa, nhờ Chúa Thánh Thần.
Trong ý
hướng đó, thánh Tôma xác quyết: “Đức tin không dừng lại ở lời tuyên xưng, nhưng
ở sự việc”. Điều này như muốn nói, những thầy dạy đức tin không thể hài lòng
với việc giảng dạy cái gọi là chân lý của đức tin, họ phải giúp mọi người chạm
đến “sự việc,” để không chỉ có ý tưởng về Thiên Chúa, mà còn cảm nghiệm về
Người, theo ý nghĩa Kinh Thánh của phàm trù “biết” rất khác biệt so với ý nghĩa
mà người Hy Lạp và triết học hiểu. Theo đó, biết có nghĩa là gần gũi, gắn bó và
kết hợp nên một với Chân Lý là chính Thiên Chúa.
Một lời
tuyên bố chính thức khác là lời Chúa Giêsu nói với Nicôđêmô: “Thiên Chúa sai
Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế
gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3,17). Để hiểu ý nghĩa của câu
này, thật cần thiết phải đọc trong ánh sáng của câu trước đó: “Thiên Chúa yêu
thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải
chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Chúa Giêsu đến để mặc khải cho loài
người ý muốn cứu độ và tình yêu thương xót của Chúa Cha. Tất cả những lời rao
giảng của Người được tóm gọn trong lời Người nói với các môn đệ trong Bữa Tiệc
Ly: “Chính Chúa Cha yêu mến anh em!” (Ga 16,27).
Trở
thành người tiếp nối công trình của Chúa Kitô trong thế gian có nghĩa là thể
hiện thái độ cơ bản này đối với mọi người, ngay cả những người ở xa nhất. Đừng
phán xét, nhưng hãy cứu độ. Chúng ta không nên bỏ qua những phẩm chất nhân bản
mà Thư gửi tín hữu Hípri muốn phác họa hình ảnh Đức Kitô Thượng Phẩm và cũng là
hình ản của mọi linh mục: sự thấu cảm, tinh thần đoàn kết, lòng thương cảm với
dân Chúa.
Khi nói
về Chúa Kitô, tác giả Thư Hípri viết: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là
Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách
về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn
tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn
trợ giúp mỗi khi cần” (Hr 4,15-16).
Về vị
thượng tế loài người, tác giả khẳng định rằng: “Thượng tế nào cũng là người
được chọn trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện cho loài người, trong
các mối tương quan với Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền tội. Vị
ấy có khả năng cảm thông với những kẻ ngu muội và những kẻ lầm lạc, bởi vì
chính người cũng đầy yếu đuối; mà vì yếu đuối, nên người phải dâng lễ đền tội
cho dân thế nào, thì cũng phải dâng lễ đền tội cho chính mình như vậy” (Hr
5,1-3).
Chắc
chắn rằng, Chúa Giêsu mong muốn các linh mục tiếp tục công trình của Người với
tâm hồn chân thật, tránh vụ hình thức, nhưng ý thức sự yếu đuối mỏng dòn của
mình, sống khiêm tốn và biết cảm thương với những yếu đuối của tha nhân.
Quả
vậy, trong Tin Mừng, Chúa Giêsu đã tỏ ra nghiêm khắc, phê bình và lên án, nhưng
Người làm điều đó với ai? Không phải với những người đơn sơ, những người đã
theo Người và đến nghe Người, nhưng với những kẻ đạo đức giả, những kẻ tự cao
tự đại là những Rabbi và những người lãnh đạo của dân. Chúa Giêsu đã không làm
như một số chính trị gia thường nói: “Rắn với kẻ yếu và mềm với kẻ mạnh”. Ở đây
hoàn toàn ngược lại!
3. Linh
mục không là người kế vị
Linh
mục là người tiếp tục chứ không phải là người kế vị của Chúa Kitô. Nhưng chúng
ta có thể nói về các linh mục như những người tiếp tục công trình của Đức Kitô
theo nghĩa nào? Trong mọi thể chế của con người, như vào thời đế chế La Mã xưa,
cũng như các dòng tu và tất cả các doanh nghiệp trên thế giới hôm nay, những
người kế vị sẽ tiếp tục công trình, chứ không phải là người sáng lập. Điều này
đôi khi bị sửa đổi, điều chỉnh và thậm chí còn bị từ chối. Hội Thánh không phải
như vậy. Chúa Giêsu không có những người kế vị vì Người không chết, nhưng vẫn
còn sống: “Một khi Đức Kitô đã sống lại từ cõi chết, thì không bao giờ Người
chết nữa, cái chết chẳng còn quyền chi đối với Người” (Rm 6,9).
Vậy,
phận vụ của thừa tác viên của Người là gì? Đó là đại diện cho Người, nghĩa là
làm cho Người hiện diện, nhờ sự hiện diện hữu hình của mình để diễn tả sự hiện
diện vô hình của Người. Điều này nhấn mạnh chiều kích ngôn sứ của chức tư tế.
Trước Đức Kitô, tính ngôn sứ căn bản hệ tại ở việc loan báo về ơn cứu độ trong
tương lai, “trong những ngày sau hết”. Với sự xuất hiện của Chúa Kitô, ngôn sứ
hệ tại trong việc trình bày cho thế giới biết sự hiện diện ẩn dấu của Đấng Cứu
Thế trong con người của Đức Giêsu, như Gioan Baotixita đã từng cảnh tỉnh: “Có
một vị đang ở giữa các ông mà các ông không biết” (Ga 1,26).
Vào
thời của Chúa Giêsu, “trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên
Chúa, có mấy người Hylạp. Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền
Galilê, và xin rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu” (Ga 12,21).
Ngày
nay, có rất nhiều người mang trong lòng mình những khát khao, khoắc khoải khôn
nguôi trên đường tìm kiếm chân lý và hạnh phúc đích thực, họ cũng muốn tìm gặp
các linh mục để được hướng dẫn và soi sáng.
Thánh
Grêgôriô Nissenô đã đúc lại thành một biểu ngữ nổi tiếng, thường được áp dụng
cho kinh nghiệm của các nhà thần bí: “Cảm thức hiện diện”.[6] Cảm thức
hiện diện không chỉ là đức tin vào sự hiện diện của Chúa Kitô; nó còn là cảm
thức sống động, một sự cảm nhận dường như thuộc thể lý về sự hiện diện thực sự
của Đấng Phục Sinh. Nếu điều này thuộc kinh nghiệm thần bí, thì có nghĩa là mỗi
linh mục phải là một nhà thần bí, hoặc ít nhất là một “nhà nhiệm huấn,” người
giới thiệu cho mọi người mầu nhiệm của Thiên Chúa và Chúa Kitô, như ngài đang
nắm giữ trong bàn tay mình.
Nhiệm
vụ của linh mục không gì khác hơn là thực hiện điều mà Đức Giáo Hoàng Bênêđictô
XVI đã nhấn mạnh về sứ vụ ưu tiên của đấng kế vị thánh Phêrô và của toàn thể
Hội Thánh, trong bức thư gửi các giám mục ngày 10 tháng 3 năm 2009: “Trong thời
đại chúng ta, đức tin đang có nguy cơ bị dập tắt như ngọn lửa không còn tìm
thấy nguồn năng lượng trong nhiều phạm vị rộng lớn trên thế giới, ưu tiên hàng
đầu là làm cho Thiên Chúa hiện diện trên thế giới này và mở ra cho con người
hôm nay lối vào trong Thiên Chúa, không phải là tin vào bất kỳ vị thần nào,
nhưng là vị Thiên Chúa đã phán trên núi Sinai, một vị Thiên Chúa mà chúng ta đã
nhận ra dung mạo Người qua tình yêu “cho đến cùng” (x. Ga 13,1), nơi Chúa Giêsu
Kitô chịu đóng đinh và phục sinh… Chúng ta hãy dẫn dắt mọi người đến với Thiên
Chúa, Đấng đã phán trong Kinh Thánh. Đây là ưu tiên căn bản và tối thượng của
Hội Thánh và của người kế vị thánh Phêrô vào thời điểm này”.
4. Linh
mục, tôi tớ và bạn của Chúa Kitô
Nhưng
giờ đây chúng ta cần tiến thêm một bước trong suy tư của mình về danh hiệu
“những tôi tớ của Chúa Giêsu Kitô”. Danh hiệu này không bao giờ được đứng một
mình; nó phải luôn luôn đứng bên cạnh một danh hiệu khác, đó là danh hiệu bạn hữu.
Cội
nguồn chung của mọi thừa tác vụ linh mục xuất hiện sau này phát xuất từ sự
tuyển chọn Nhóm Mười Hai mà Chúa Giêsu đã thực hiện xưa kia. Đây là nền tảng
của việc Chúa Giêsu thiết lập thiên chức linh mục theo ý nghĩa lịch sử. Dĩ
nhiên, quả là đúng khi phụng vụ đặt việc thiết lập thiên chức linh mục vào ngày
thứ Năm Tuần Thánh, vì Chúa Giêsu đã nhắn gửi các Tông Đồ sau khi lập bí tích
Thánh Thể: “Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Nhưng ngay cả lời này
cũng giả thiết đã có sự lựa chọn Nhóm Mười Hai, nếu không, hay chỉ xét riêng nó
thôi, thì có người sẽ dùng để biện hộ cho vai trò linh mục là chỉ lo việc thánh
hoá và phụng vụ, chứ không có vai trò quan trọng là loan báo Tin Mừng.
Vậy,
Chúa Giêsu đã nói gì vào lúc ấy? Tại sao Người lại chọn Nhóm Mười Hai, sau khi
đã cầu nguyện suốt đêm? “Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để
Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ (Mc 3,14-15). Ở với Chúa
Giêsu và đi rao giảng: ở lại và đi, nhận và cho: chỉ trong vài từ ngữ thôi,
nhưng đó là nhiệm vụ chính yếu của những thừa tác viên Chúa Kitô.
“Ở với”
Chúa Giêsu rõ ràng không chỉ có nghĩa là sự gần gũi thể lý; một cách vắn gọn,
tất cả sự phong phú này được thánh Phaolô tập hợp lại trong công thức rất ý
nghĩa: “Trong Đức Kitô” hay “với Đức Kitô”. Nó có nghĩa là chia sẻ tất cả những
gì thuộc về Chúa Giêsu. Tuy vậy, điều đó không gói gọn nơi cuộc sống rày đây
mai đó, mà còn bao hàm cả suy nghĩ, mục đích và tinh thần của Người. Chính vì
vậy mà chúng ta hiểu ý nghĩa của từ “đồng hành” xuất phát từ tiếng Latin vào
thời Trung Cổ, nó có nghĩa là người có chung tấm bánh (con-panis), người ăn
cùng một tấm bánh.
Trong
diễn từ từ biệt, Chúa Giêsu đi thêm một bước, khi làm trọn nghĩa danh
hiệu bạn đồng hành với
danh hiệu bạn hữu:
“Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm.
Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha
Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,15).
Lời
tuyên bố đầy tình yêu này của Chúa Giêsu quả thực rất cảm động. Một lần kia,
chi chia sẻ Lời Chúa với nhóm bạn và đọc trích đoạn này của Gioan, tôi thực sự
xúc động, lập tức tôi nhận ra điều gì đó cao cả chứa đựng ở đây. Từ “bạn hữu”
đã đụng chạm tới trái tim tôi một cách sâu nhất mà tôi chưa từng trải nghiệm;
có điều gì đó đã đánh động tôi rất sâu sắc, đến nỗi trong suốt thời gian hôm
đó, tôi đã lặp đi lặp lại với mình, với sự ngạc nhiên đến mức hoài nghi: Chúa
gọi tôi là bạn! Chúa Giêsu thành Nadarét, là Chúa, là Thiên Chúa của tôi! Chúa
gọi tôi là bạn! Tôi là bạn của Chúa! Và lúc đó trong tôi có một sức mạnh kỳ
diệu nhưng rất khó tả về xác tín chắc chắn này.
Khi nói
về tình yêu Chúa Giêsu Kitô, thánh Phaolô luôn tỏ ra “xúc động”: “Ai sẽ tách
chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô? (Rm 8,35), “Đấng đã yêu mến tôi và hiến
mạng vì tôi!” (Gl 2,20). Chúng ta có xu hướng hoài nghi với cảm xúc và thậm chí
còn xấu hổ về nó. Chúng ta không nhận ra sự giàu có nơi cảm xúc mà chúng ta
được phú bẩm. Chúa Giêsu “vô cùng xúc động” và khóc lóc trước nỗi đau của bà goá
thành Nain (x. Lc 7,13) và chị em nhà Ladarô (x. Ga 11,33-35). Nếu một linh mục
có khả năng bị xúc động khi nói về tình yêu của Thiên Chúa và sự đau khổ của
Chúa Kitô hay nếu ngài biết tập hợp những chứng tá về những nỗi đau lớn lao,
thì ngài có sức thuyết phục tốt hơn so với những lý luận trừu tượng. Xúc động
không nhất thiết phải khóc; nó là một cái gì đó được cảm nhận trong ánh mắt,
giọng nói và thái độ. Kinh Thánh chứa đầy những pathos, đó là cảm xúc của
Thiên Chúa.
5. Linh
hồn của đời sống linh mục
Mối tương
quan cá vị, đầy tin tưởng và thân tình với con người Chúa Giêsu là linh hồn của
mọi linh mục. Về điều này, cuốn sách “Linh hồn của mọi người tông đồ” của Dom
Chautard là một cuốn sách rất hay và đã làm xúc động nhiều lương tâm trong
những năm trước Công Đồng. Vào thời điểm đó, người ta đang còn hăng say với
những “công trình giáo xứ”: như điện ảnh, giải trí, sáng kiến xã hội, xiếc văn hóa, xây dựng cơ sở… tác giả đột ngột
chuyển sang trọng tâm của vấn đề, tố cáo sự nguy hiểm của một chủ nghĩa hoạt động
trống rỗng. Tác giả viết: “Thiên Chúa muốn Chúa Giêsu trở thành sự sống của mọi
công trình”.[7]
Dĩ
nhiên, Đức Giêsu không giảm khinh tầm quan trọng của các hoạt động mục vụ. Tuy
nhiên, Chúa khẳng định rằng nếu không có đời sống kết hiệp với Người, thì họ
chẳng khác gì là những “thanh la phèng phèng” (x. 1 Cr 13,1), hay theo cách nói
của thánh Bênarđô thì đó là “những loại nghề đáng nguyền rủa”.[8] Đã
có lần Chúa Giêsu nói với Phêrô: “Anh có mến Thầy không?… Hãy chăn dắt chiên
của Thầy” (Ga 21,17). Âm hưởng của lời đó vẫn vang vọng hôm nay. Hoạt động mục
vụ của mọi thừa tác viên trong Hội Thánh, từ Giáo Hoàng cho đến vị linh mục
cuối cùng, không gì khác ngoài sự diễn tả cụ thể tình yêu đối với Chúa Kitô:
Anh có mến Thầy không? Sau đó, hãy chăn dắt! Quả thật, tình yêu dành cho Chúa
Giêsu là yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa linh mục như quan chức và quản lý và linh mục
như tôi tớ của
Chúa Giêsu và là người
phân phát các mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Cuốn
sách của viện phụ Dom Chautard sẽ rất ý nghĩa nếu được đặt tựa đề: “Linh hồn
của mỗi linh mục”. Bởi vì, trong thực tế, tác giả nói về chính mình trong suốt
tác phẩm, như là tác nhân và người tiên phong trong chương trình mục vụ của
Giáo Hội. Vào thời điểm đó, mối nguy hiểm mà người ta muốn phản ứng là lên án
“chủ nghĩa Americanisme” (chủ nghĩa duy hoạt động). Nên, viện phụ này thường
quy chiếu lá thư của Đức Lêô XIII “Testem Benevolentiae”, người đã lên án nó
như là một dạng của tà thuyết.
Ngày
nay, nếu có thể nói như một dị giáo, cũng vì lý do số lượng linh mục giảm dần,
khuynh hướng duy hoạt động này không chỉ là “một hiện tượng” nhưng còn là một
mối đe dọa, làm suy yếu hàng giáo phẩm trong toàn Hội Thánh. Nó còn được gọi là
chủ nghĩa hoạt động điên cuồng.
Để Chúa
Giêsu trở thành linh hồn của linh mục, bước đầu tiên là không nhìn Đức Giêsu
chỉ đơn thuần như là một nhân vật (personage), nhưng là sống với Người như một
nhân vị sống động (persone). Bạn có thể say mê nói về nhân vật. Nhưng nhân vật
không thể nói về ai và với ai. Bạn có thể nói bao lâu tùy thích về đại đế
Alexander, hoàng đế Julius Caesar, hoàng đế Napoléon, nhưng nếu bạn nói rằng
tôi đã nói chuyện với một trong số những nhân vật này, thì ngay lập tức, người
ta sẽ nghĩ rằng bạn không bình thường rồi. Trái lại, nhân vị là một người có
thể nói chuyện với và về ai đó. Dẫu Chúa Giêsu vẫn là một nhân vật của quá khứ,
của ký ức, của tín điều, của lịch sử. Nhưng chúng ta cần ý thức rằng với biến
cố Phục Sinh, Người đang sống và hiện diện, và nói với Người thì quan trọng hơn
là nói về Người.
Ở nước
Ý, có một bộ tác phẩm nổi tiếng được dựng thành phim với tựa đề: Dom Camillo di
Guareschi. Vì là một tác phẩm văn chương nên có những chi tiết được hư cấu,
nhưng một trong những nét đẹp nhất của chân dung Don Camillo là việc ngài
thường nói to với Chúa Giêsu trên thập giá về tất cả những gì xảy ra trong giáo
xứ khi ngài cầu nguyện. Nếu chúng ta có thói quen làm điều đó một cách tự phát,
bằng lời nói của mình, có lẽ có nhiều điều sẽ thay đổi trong đời sống linh mục!
Chúng ta sẽ nhận ra rằng, mình không bao giờ nói chuyện với không khí, nhưng
với Đấng đang hiện diện, lắng nghe và trả lời, dĩ nhiên không cần phải lớn
tiếng như Don Camillo.
6. Ưu tiên
cho những điều quan trọng
Trong
Thiên Chúa, mọi công trình tạo dựng bên ngoài đều phát xuất từ đời sống nội tại của Người, “từ dòng chảy tình yêu của
Người không hề ngưng,” và mọi hoạt động của Chúa Kitô đều bắt nguồn từ cuộc
đối thoại liên lỉ với Chúa Cha. Cũng vậy, mọi hoạt động của linh mục phải là sự
kéo dài của sự kết hợp với Chúa Kitô. “Như Cha đã sai Thầy, nên Thầy cũng sai
anh em” có nghĩa là: Thầy đã đến thế gian nhưng Thầy không bao giờ xa rời Chúa
Cha, anh em cũng thế, hãy đi vào thế gian nhưng không được xa rời Thầy, không
xa mặt cách lòng.
Khi
cuộc gặp gỡ này bị gián đoạn, nó giống như khi nhà mất điện, mọi thứ dừng lại
và trở nên tối tăm, hay như khi bình nước hết, các vòi nước không thể cấp nước
được nữa. Nhiều lúc chúng ta nghe nói: làm sao chúng ta có thể bình tĩnh và cầu
nguyện khi quá nhiều nhu cầu đòi hỏi chúng ta có mặt? Làm sao để không chạy khi
cháy nhà? Đó là sự thật, nhưng chúng ta hãy tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra với
một đội lính cứu hỏa chạy theo tiếng còi hú vang lên để dập ngọn lửa và sau đó,
khi đến nơi, họ nhận ra rằng họ không có một giọt nước nào trong bồn. Sẽ giống
như vậy khi chúng ta đi rao giảng hoặc thi hành các tác vụ khác mà thiếu vắng
cầu nguyện và ơn trợ lực của Chúa Thánh Thần.
Câu
chuyện ý nghĩa sau đây mà tôi được biết đến có thể soi sáng cho những chọn lựa
trong ngày sống của linh mục. Ngày nọ, một vị giáo sư già được mời như một
chuyên viên để nói về việc thiết lập các kế hoạch hiệu quả nhất trong thời đại
này cho các giám đốc điều hành cấp cao của một số công ty lớn ở Bắc Mỹ. Bấy giờ
ông ấy quyết định đưa ra một cuộc thử nghiệm. Đứng dậy, ông lôi từ dưới bàn lên
một chiếc bình thủy tinh lớn nhưng rỗng không. Sau đó, ông lấy một tá những
viên đá có kích thước bằng quả bóng tennis và nhẹ nhàng bỏ từng viên một vào
bình cho đến khi đầy. Khi không thể thêm được nữa, ông hỏi các học trò: “Các
bạn nghĩ cái lọ đã đầy chưa?” Tất cả đều trả lời: “Vâng, đầy rồi”.
Vị giáo
sư lại cúi xuống, lấy từ dưới bàn một chiếc hộp có nhiều sỏi, rồi đổ lên trên
những hòn đá, rồi quay chiếc bình để chúng có thể lọt qua những hòn đá xuống
đáy bình. Rồi ông hỏi: “Lần này bình đầy chưa?” Mọi người trở nên thận trọng
hơn, vì bắt đầu hiểu ra và trả lời: “Có thể là chưa”. Vị giáo sư già lại cúi
xuống và lần này ông lấy ra một túi cát rồi đổ vào bình. Cát lấp đầy khoảng
trống giữa các viên đá và sỏi. Rồi ông hỏi lại: “Bình bây giờ đã đầy chưa?” Và
tất cả không chút do dự trả lời: “Chưa!” Cuối cùng, ông lấy chiếc bình trên bàn
và đổ nước vào bình cho đến gần miệng.
Lúc này
ông hỏi: “Thí nghiệm này cho chúng ta thấy sự thật tuyệt vời nào?” Một người
mạnh dạn nhất trả lời: “Điều này cho thấy rằng ngay cả khi chương trình làm
việc của chúng ta đã hoàn toàn đầy đủ, với một chút thiện chí, bạn luôn có gì
đó thêm nữa để làm”. Giáo sư trả lời: “Không. Thí nghiệm cho thấy rằng nếu bạn
không đặt những hòn đá lớn vào bình trước, sau đó bạn sẽ không bao giờ có thể
bỏ chúng vào trong bình được. Những hòn đá này, những ưu tiên trong cuộc sống
của bạn là gì? Điều quan trọng là biết đặt những hòn đá lớn này trước trong
chương trình làm việc của bạn”.
Thánh
Phêrô đã từng chỉ ra bổn phận chính yếu, ưu tiên tối thượng của các Tông Đồ và
những người kế vị, các giám mục và linh mục: “Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ
chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa” (Cv 6, 4).
Hơn ai
hết, các linh mục đang phải đương đầu với nguy cơ hy sinh điều quan trọng hay
chính yếu (important or essential) cho điều cấp bách hay tuỳ phụ (urgent or
contingent). Việc cầu nguyện, chuẩn bị bài giảng hoặc dâng lễ, nghiên cứu và
huấn luyện, tất cả là những điều quan trọng, nhưng không cấp bách; nếu không
làm, bên ngoài xem ra thế giới vẫn không sụp đổ, trong khi có rất nhiều việc
nhỏ: như một cuộc họp, một cuộc điện thoại, một cuộc đi chơi, đi ăn với bạn là
cấp bách. Vì vậy, chúng ta thường ưu tiên làm điều cấp bách trước, rồi sẽ làm
những điều quan trọng sau, nhưng rút cuộc chẳng có giờ làm nữa.
Đối với
một linh mục, việc đặt “những những hòn đá to vào trong bình trước” có ý nghĩa
rất cụ thể: bắt đầu một ngày mới với một thời gian cầu nguyện và đối thoại với
Chúa, để các hoạt động và bổn phận khác nhau không chiếm hết không gian.
Tôi xin
mượn lời cầu nguyện của viện phụ Chautard để kết thúc suy tư nhỏ bé này: “Lạy
Chúa, xin hãy ban cho Hội Thánh nhiều Tông Đồ, nhưng xin hãy nhen nhóm trong
lòng họ niềm khao khát cháy bỏng sống mật thiết với Chúa, đồng thời khát khao
làm việc vì lợi ích của người khác. Xin ban cho tất cả biết hoạt động trong
chiêm niệm và biết chiêm niệm trong hoạt động”. Chớ gì được như vậy!
Linh
mục Phêrô Nguyễn Văn Hương
Hướng
tới Thứ Năm Tuần Thánh 2021, ngày thiết lập thiên chức Linh Mục
——————————————-
[1] Sách
Giáo Lý của Hội Thánh Công Giáo, số 1536.
[2] I-P.
Jossua, Yves Congar profile
di una teologia, Queriniana, Brescia 1970, 132.
[3] Cf.
J. Famerée, “Ecclésiologie du Père Yves Congar. Essai de synthèse critique”
trong RSPhT 76
(1992), 406.
[4]Cf.
Yves Congar, “Titres et honneur dans l’Église” trong cuốn Pour un Église servant et
pauvre, Cerf, Paris 1973.
[5] H.
Dodd, L’interpretazione del
Quarto Vangelo, Paideia, Brescia 1974, p. 227.
[6] Gregorio
Nisseno, Sul
Cantico, XI, 5, 2 (PG 44, 1001): “Aisthesis parousias.’’
[7] J.-B.
G. Chautard, L’âme de
tout apostolat, Lyon-Paris 1934 (Trad. ital. L’anima di ogni apostolato,
San Paolo 2007).
[8] Bernardo
di Chiaravalle, De
considerazione, I, 2 s.