THƯ ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
GỬI CÁC LINH MỤC
NHÂN KỶ NIỆM 160 NĂM
THÁNH GIOAN VIANNEY, CHA XỨ ARS, QUA
ĐỜI
Mến gửi
Các Anh
Em Linh Mục của tôi
Anh em thân mến,
Một trăm sáu mươi năm đã qua kể từ khi cha xứ thánh thiện
của xứ Ars qua đời. Ngài đã được Đức Giáo Hoàng Piô XI phong làm quan thầy các
cha xứ trên khắp thế giới. [1] Vào lễ mừng kính ngài hôm nay, tôi
viết thư này không chỉ cho các cha xứ nhưng cho tất cả các anh em linh mục của
tôi, những người đã âm thầm “từ bỏ mọi sự” để dấn thân vào đời sống hằng ngày
của các cộng đoàn của anh em. Giống như cha xứ Ars, anh em phục vụ “ở các chiến
hào”, vác gánh nặng cả ngày dưới cái nắng thiêu đốt (x. Mt 20:12), liên lỷ đối
diện với vô vàn tình huống khác nhau để chăm lo cho dân Chúa và đồng hành với
họ. Tôi muốn ngỏ lời với từng người trong anh em, là những người không ồn ào
khoa trương, nhưng sẵn sàng chấp nhận hy sinh bản thân, chịu đựng những mệt
mỏi, yếu đau và buồn phiền để thực thi sứ mạng phục vụ Thiên Chúa và dân của
anh em. Bất chấp những vất vả của hành trình này, anh em đang viết nên những
trang đẹp nhất của cuộc đời linh mục.
Ít thời gian trước, tôi từng chia sẻ với các giám mục Ý
mối lo lắng của tôi rằng, ở không ít nơi, các linh mục chúng ta đang cảm thấy
mình bị công kích và chê trách vì những tội họ không phạm. Tôi đã nói rằng các
linh mục cần phải tìm được nơi giám mục của họ một người anh và người cha giúp
họ an tâm trong những thời khắc khó khăn, cổ vũ và nâng đỡ họ trên đường.[2]
Là người anh và người cha, tôi cũng muốn lợi dụng lá thư
này để cảm ơn anh em nhân danh Dân thánh thiện và trung thành
của Thiên Chúa vì tất cả những gì anh em đã làm cho họ, và khuyến khích
anh em đừng bao giờ quên những lời Chúa đã nói với chúng ta trong ngày
thụ phong, với tấm lòng trìu mến tuyệt vời của Người. Những lời này là nguồn
niềm vui cho chúng ta: “Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa… Thầy gọi anh
em là bạn hữu” (Ga 15:15).[3]
ĐAU KHỔ
“Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta” (Xh 3:7)
Những năm gần đây, chúng ta đã chú ý nhiều hơn tới tiếng
kêu, thường là âm thầm và bị kìm nén, của các anh chị em chúng ta, những nạn
nhân của sự lạm dụng quyền bính, lạm dụng lương tâm và lạm dụng tình dục từ
phía các thừa tác viên có chức thánh. Đây là một thời gian vô cùng đau khổ
trong cuộc đời của những ai phải chịu sự lạm dụng ấy, nhưng cả trong cuộc đời
của gia đình họ và của toàn thể Dân Chúa.
Như anh em biết đấy, chúng ta kiên quyết dấn thân thực
hiện những cải cách cần thiết để cổ vũ ngay từ đầu một văn hoá chăm sóc mục vụ,
không để cho cái văn hoá lạm dụng có đất để phát triển hay tiếp tục nữa. Đây
không phải một nhiệm vụ mau chóng hay dễ dàng: nó đòi hỏi sự dấn thân của mọi
người. Nếu trong quá khứ, sự thiếu sót có thể tự nó đã là một thứ phản ứng, thì
hôm nay chúng ta muốn rằng sự hối cải, sự minh bạch, thành thật và liên đới với
những nạn nhân phải trở thành cách thức cụ thể để chúng ta tiến tới phía trước.
Và điều này sẽ giúp làm cho chúng ta càng thêm chú ý hơn tới mọi hình thức đau
khổ của loài người.[4]
Đau khổ cũng ảnh hưởng đến các linh mục. Tôi đã nhìn thấy
điều này trong các cuộc thăm viếng mục vụ trong giáo phận của tôi và các nơi
khác, trong các cuộc gặp gỡ và nói chuyện riêng tư với các linh mục. Nhiều linh
mục chia sẻ với tôi sự tức giận của họ trước những gì đã xảy ra và nỗi thất
vọng khi thấy rằng “bất chấp mọi lao nhọc của họ, họ phải đối diện với sự thiệt
hại đã gây ra, sự nghi ngờ và hoang mang nó đã gây ra, và những mối hoài nghi,
sợ hãi và chán nản mà không ít người cảm thấy”.[5] Tôi đã nhận được nhiều
thư của các linh mục diễn tả những cảm giác ấy. Đồng thời tôi cũng được an ủi
bởi các cuộc gặp gỡ với những vị mục tử biết nhìn nhận và chia sẻ sự đau đớn và
khổ cực của các nạn nhân và của dân Thiên Chúa, và đã cố gắng tìm ra những lời
lẽ và hành động để khơi dậy niềm hy vọng.
Trong khi không phủ nhận hay bác bỏ sự thiệt hại gây ra
bởi một số anh em của chúng ta, sẽ là không công bằng khi không nói lên lòng
biết ơn của chúng ta đối với tất cả các linh mục đã trung thành và quảng đại
tiêu hao đời sống mình để phục vụ tha nhân (x. 2Cr 12:15). Họ là hiện thân cho
một tình phụ tử thiêng liêng có khả năng khóc với người khóc. Vô số linh mục
biến cuộc đời mình thành một công trình của lòng thương xót trong những khu vực
hay những hoàn cảnh thường thù nghịch, bị cô lập hay lãng quên, thậm chí nguy
hiểm đến tính mạng. Tôi nhìn nhận và đánh giá cao gương can đảm và kiên cường
của các anh em. Trong những thời buổi nhiễu loạn, tủi hổ và đau đớn, anh em
chứng tỏ anh em đã vui vẻ đặt đời sống mình nơi tiền tuyến vì Tin Mừng.[6]
Tôi tin chắc rằng, nếu chúng ta tiếp tục trung thành vâng
theo ý Chúa, những thời kỳ thanh luyện Hội Thánh hiện nay sẽ làm chúng ta vui
tươi và khiêm tốn hơn, và sẽ cho thấy rất hiệu quả trong một tương lai không
xa. “Chúng ta đừng nản lòng! Chúa đang thanh tẩy Hiền Thê của Người và cải hoá
tất cả chúng ta để trở về với Người. Người đang để chúng ta chịu thử thách hầu
làm chúng ta hiểu rằng không có Người, chúng ta chỉ là cát bụi. Người đang cứu
chúng ta khỏi thói đạo đức giả, khỏi cái linh đạo bề ngoài. Người đang thổi
Thần Khí Người vào chúng ta để khôi phục vẻ đẹp của Hiền Thê của Người bị bắt
phạm tội ngoại tình. Chúng ta có thể tìm được lợi ích khi đọc lại chương 16
sách ngôn sứ Êdêkien. Đó là lịch sử của Hội Thánh, và mỗi người chúng ta có thể
nói đó cũng là lịch sử của chính chúng ta. Cuối cùng, nhờ tính liêm sỉ của
mình, anh em sẽ tiếp tục hành động như là một mục tử. Sự sám hối khiêm nhường
của chúng ta, được diễn tả bằng những giọt nước mắt âm thầm trước những tội ác
ghê tởm này và trước sự cao cả khôn dò của ơn tha thứ của Thiên Chúa, là khởi
đầu cho một cuộc canh tân sự thánh thiện của chúng ta”.[7]
LÒNG BIẾT ƠN
“Tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa vì anh em” (Ep 1:16).
Hơn là một chọn lựa cá nhân, ơn gọi là lời đáp của chúng
ta cho tiếng Chúa gọi không phải vì công trạng gì của chúng ta. Sẽ ích lợi nếu
chúng ta thường xuyên đọc lại những đoạn Tin Mừng mô tả việc Chúa Giêsu cầu
nguyện, chọn và gọi các môn đệ để họ “ở với Người và được Người sai đi rao
giảng Tin Mừng” (Mc 3:14).
Ở đây tôi nghĩ đến một bậc thầy vĩ đại của đời sống linh
mục tại chính đất nước của tôi, Cha Lucio Gera. Nói truyện với một nhóm linh
mục vào một thời kỳ nhiễu nhương tại Châu Mỹ Latinh, ngài bảo họ: “Luôn luôn,
nhưng đặc biệt vào những lúc gặp thử thách, chúng ta cần phải trở về với những
giờ phút sáng lạn khi chúng ta trải nghiệm tiếng Chúa gọi chúng ta dâng hiến
đời sống để phụng sự Người”. Cá nhân tôi thích gọi trải nghiệm này là “ký ức
thứ luật về ơn gọi của chúng ta”; nó làm mỗi người chúng ta trở về “với cái ánh
sáng chói loà mà ơn sủng của Thiên Chúa đã chạm đến tôi lúc tôi bắt đầu cuộc
hành trình. Từ ngọn lửa ấy, tôi có thể đốt lửa cho ngày hôm nay và mỗi ngày, và
đem hơi ấm và ánh sáng đến cho các anh chị em tôi. Ngọn lửa ấy làm bừng cháy
một niềm vui khiêm nhường, một niềm vui không thể bị xua tan bởi buồn sầu và
đau khổ, một niềm vui tốt lành và êm dịu”.[8]
Một hôm, mỗi người chúng ta đã lên tiếng và nói “vâng”,
một tiếng “vâng” sinh ra và lớn lên trong lòng của cộng đoàn Kitô hữu nhờ những
“vị thánh ở hàng xóm”,[9] bằng
đức tin đơn sơ của họ, họ cho chúng ta thấy rằng thật đáng để hiến mình hoàn
toàn cho Chúa và Nước của Người. Một tiếng thưa “vâng” với những hệ luỵ vô cùng
nghiêm trọng khiến chúng ta thường cảm thấy khó hình dung nổi tất cả những điều
tốt đẹp mà nó tiếp tục tạo ra. Đẹp biết bao cảnh một linh mục già gặp hay được
viếng thăm bởi những đứa trẻ ấy―bây giờ đã là những người lớn―mà ngài đã rửa
tội từ rất lâu và bây giờ họ đến thăm ngài để tỏ lòng biết ơn và giới thiệu với
ngài gia đình của chính họ! Vào những lúc như thế, chúng ta nhận ra rằng chúng
ta đã được xức dầu để xức dầu cho những người khác, và việc xức dầu của Thiên
Chúa không bao giờ làm chúng ta thất vọng. Tôi muốn nói cùng với Thánh Tông Đồ:
“Tôi không ngừng tạ ơn Thiên Chúa vì anh em” (x. Ep 1:16) và vì mọi điều thiện
hảo anh em đã làm.
Giữa cảnh thử thách gian nan, yếu đuối và ý thức về những
giới hạn của chúng ta, “cái cám dỗ tệ hại nhất là day dứt về những rắc rối của
mình”[10] vì
khi ấy chúng ta đánh mất tầm nhìn, phán đoán đúng và lòng cản đảm của mình.
Những lúc ấy, điều quan trọng―tôi thậm chí muốn nói là cốt yếu―là coi trọng ký
ức về sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng ta và cái nhìn từ bi của
Người, nó truyền cảm hứng để chúng ta đặt cuộc đời mình ra tiền tuyến vì Người
và vì dân của Người. Và tìm thấy sức mạnh để kiên trì, và cùng với Thánh Vịnh
gia, xướng lên bài ca ngợi khen của chính chúng ta, “vì tình thương của Người
tồn tại đến muôn đời” (Tv 136).
Lòng biết ơn luôn luôn là một vũ khí mạnh mẽ. Chỉ khi
chúng ta biết chiêm ngắm và cảm thấy lòng biết ơn đích thực vì tất cả những
cách thức chúng ta đã trải nghiệm về tình thương, lòng quảng đại, tình liên đới
và tin cậy của Thiên Chúa, cũng như sự tha thứ, nhẫn nại, chịu đựng và cảm
thông của Thiên Chúa, chỉ khi ấy chúng ta mới có thể để cho Thần Khí ban cho
chúng ta sự tươi mới có sức canh tân (và không chỉ sửa chữa) cuộc đời và sứ
mạng của chúng ta. Giống như thánh Phêrô vào buổi sáng đánh được mẻ cá lạ lùng,
chúng ta hãy để cho việc nhìn nhận mọi phúc lành chúng ta đã nhận được đánh
thức nơi chúng ta cảm giác kinh ngạc và biết ơn để chúng ta có thể nói: “”Xin
Thầy xa con ra, vì con là kẻ tội lỗi” (Lc 5:8). Chỉ khi ấy chúng ta có thể nghe
Chúa lặp lại lời kêu gọi của Người: “Đừng sợ, từ nay các con sẽ là những ngư
phủ chài lưới người ta” (Lc 5:10). “Vì tình thương của Người tồn tại đến muôn
đời.”
Anh em linh mục thân mến, tôi cám ơn anh em vì lòng trung
thành của anh em với những cam kết anh em đã làm. Đó là một dấu hiệu cho thấy
rằng, trong một xã hội và một nền văn hoá tôn vinh những cái phù du, vẫn còn có
những con người không sợ tuyên những lời hứa suốt đời. Thực vậy, chúng ta chứng
tỏ rằng chúng ta tiếp tục tin Thiên Chúa, Đấng không bao giờ phá bỏ giao ước
của Người, cho dù chúng ta đã phá vỡ nó hết lần này đến lần khác. Bằng cách
này, chúng ta ca mừng lòng trung tín của Thiên Chúa, Đấng tiếp tục tin cậy
chúng ta, tin chúng ta và mong đợi ở chúng ta, bất chấp mọi tội lỗi và thiếu
sót của chúng ta, và Người mời gọi chúng ta đáp lại bằng sự trung thành của
chúng ta. Nhận ra rằng chúng ta giữ kho báu này trong những chiếc bình sành (x.
2Cr 4:7), chúng ta biết rằng Chúa chiến thắng qua sự yếu đuối (x. 2Cr 12:9).
Người tiếp tục nâng đỡ chúng ta và lặp lại lời kêu gọi của Người với chúng ta,
và ban lại cho chúng ta gấp trăm lần (x. Mc 10:29-30). “Vì tình thương của
Người tồn tại đến muôn đời.”
Cám ơn anh em vì niềm vui dâng hiến đời sống của anh em,
nó bộc lộ một trái tim mà năm này qua năm khác vẫn kiên trì không chịu bị đóng
kín và chua chát, nhưng đã lớn lên hằng ngày trong tình yêu đối với Thiên Chúa
và dân của Người. Một trái tim, giống như rượu ngon, đã không trở thành chua
nhưng trở thành phong phú hơn cùng với tuổi tác. “Vì tình thương của Người tồn
tại đến muôn đời.”
Cám ơn anh em vì luôn làm việc để kiện cường mối dây
huynh đệ và tình bạn với các linh mục anh em và với giám mục của anh em, cống
hiến cho nhau sự nâng đỡ và khích lệ, chăm sóc những anh em yếu đau, tìm kiếm
những anh em sống xa cách, thăm viếng những anh em cao niên và hưởng nhận sự
khôn ngoan của họ, chia sẻ cho nhau và biết cùng khóc cùng cười với nhau. Chúng
ta cần những thứ này biết bao! Nhưng cũng cám ơn anh em vì sự trung thành và
kiên trì của anh em trong việc cáng đáng những sứ vụ khó khăn, hay vì những lúc
anh em buộc phải kêu gọi một người anh em linh mục tuân giữ kỷ luật. “Vì tình
thương của Người tồn tại đến muôn đời.”
Cám ơn anh em vì chứng tá của anh em về sự kiên trì và
nhẫn nại chịu đựng (hypomonè) trong thừa tác vụ mục vụ. Nhiều lần,
với parrhesía [sự mạnh dạn] của người mục tử,[11] chúng ta thấy mình đang
tranh cãi với Chúa khi cầu nguyện, giống như ông Môsê đã can đảm cầu giúp
nguyện thay cho dân (x. Ds 14:13-19; Ex 32:30-32; Dt 9:18-21).
“Vì tình thương của Người tồn tại đến muôn đời.”
Cám ơn anh em vì cử hành Thánh Thể hằng ngày và là những
mục tử của lòng thương xót trong Bí Tích Hoà Giải, không nghiêm khắc cũng không
buông lỏng, nhưng quan tâm sâu xa đến giáo dân và đồng hành với họ trong hành
trình hoán cải của họ về với đời sống mới mà Chúa ban cho tất cả chúng ta.
Chúng ta biết rằng trên cái thang của lòng thương xót, chúng ta có thể đi xuống
đáy sâu của cảnh huống con người―gồm sự yếu đuối và tội lỗi―và đồng thời trải
nghiệm những đỉnh cao của sự trọn lành của Thiên Chúa: “Anh em hãy có lòng
thương xót như Cha là Đấng thương xót”.[12] Bằng cách này, chúng ta
“có thể sưởi ấm con tim của dân chúng, đi bên cạnh họ trong đêm tối, nói chuyện
với họ và thậm chí đi vào đêm tối và bóng tối của họ, mà không đi lạc con đường
của chúng ta”.[13] “Vì
tình thương của Người tồn tại đến muôn đời.”
Cám ơn anh em vì anh em xức dầu và sốt sắng rao giảng cho
mọi người, lúc thuận cũng như lúc nghịch” (x. 2Tm 4:2) Tin Mừng của Đức Giêsu
Kitô, thăm dò trái tim cộng đoàn của anh em, để khám phá ra ở đâu lòng khao
khát Thiên Chúa của trái tim ấy sống động và nồng nhiệt, cũng như ở đâu sự đối
thoại ấy, trước kia đã từng có lúc yêu mến, bây giờ đã thui chột và khô cằn”.[14] “Vì tình thương của
Người tồn tại đến muôn đời.”
Cám ơn anh em vì những lần, với đầy xúc động, anh em đã
ôm ấp những người tội lỗi, chữa lành những vết thương, sưởi ấm những con tim và
chứng tỏ sự dịu dàng và cảm thương của Người Samaria Nhân Lành (x. Lc
10:25-27). Không gì cần hơn điều này: dễ đến gần, thân thiện, sẵn sàng chạm vào
xác thịt của những anh chị em đau khổ của chúng ta. Mạnh biết bao gương lành
của người linh mục hiện diện và không xa tránh những vết thương của các anh chị
em mình![15] Nó
phản chiếu trái tim của một người mục tử đã phát triển một sở thích thiêng
liêng là trở nên một với dân của mình,[16] một người mục tử không
bao giờ quên rằng mình đã xuất thân từ họ và bằng việc phục vụ họ, mình sẽ tìm
thấy và diễn đạt được căn tính tinh tuyền và đầy đủ của mình. Và điều này sẽ
dẫn họ tới chỗ chấp nhận một lối sống đơn sơ và thanh đạm, từ chối những đặc
quyền chẳng có liên quan gì đến Tin Mừng. “Vì tình thương của Người tồn tại đến
muôn đời.”
Sau cùng, chúng ta hãy biết ơn vì sự thánh thiện của Dân
trung thành của Thiên Chúa, những người mà chúng ta được kêu gọi chăn dắt và
nhờ họ mà Chúa cũng chăn dắt và chăm sóc chúng ta. Người chúc phúc cho chúng ta
bằng ơn được chiêm ngắm Dân trung thành ấy “nơi những bậc cha mẹ đang nuôi dạy
con cái họ bằng tình yêu vô biên, nơi những người nam người nữ đang làm việc
vất vả để nuôi sống gia đình họ, nơi những người yếu đau bệnh tật, nơi những tu
sĩ cao niên không bao giờ đánh mất nụ cười. Trong sự kiên trì của đời sống hằng
ngày, tôi thấy sự thánh thiện của Hội Thánh chiến đấu”.[17] Chúng ta hãy tạ ơn vì
mỗi một người trong số họ, và tìm được sự nâng đỡ và khích lệ nơi chứng tá của
họ. “Vì tình thương của Người tồn tại đến muôn đời.”
SỰ KHÍCH LỆ
“Tôi muốn tâm hồn [anh em] được phấn khởi” (Cl 2:2)
Ước muốn lớn thứ hai của tôi là, nói như Thánh Phaolô,
cống hiến cho anh em sự khích lệ khi chúng ta nỗ lực canh tân tinh thần linh
mục của chúng ta, nó là hoa quả trước hết của hành động của Chúa Thánh Thần
trong đời sống chúng ta. Đối diện với những kinh nghiệm đau thương, tất cả
chúng ta cần được an ủi và khích lệ. Sứ vụ mà chúng ta được kêu gọi thực hiện
không miễn chước cho chúng ta khỏi những nỗi đãu đớn, khổ cực, thậm chí bị hiểu
lần.[18] Đúng
hơn, sứ vụ ấy đòi chúng ta đối diện thẳng với chúng và chấp nhận chúng, để Chúa
có thể biến đổi chúng và làm cho chúng ta trở nên đồng hình dạng với Người hơn.
“Suy cho cùng, sự thiếu thành tâm nhìn nhận trong kinh nguyện các giới hạn của
chúng ta khiến cho ơn Chúa không thể hoạt động hiệu quả hơn trong chúng ta, vì
không còn chỗ nào để tạo nên điều tốt lành tiềm năng vốn là thành phần của một
hành trình tăng trưởng chân thành và đích thực”.[19]
Một cách tốt để trắc nghiệm tâm hồn mục tử của chúng ta
là hỏi xem chúng ta đối diện với đau khổ thế nào. Chúng ta có thể thường hành
động giống như thầy lêvi hay tư tế trong dụ ngôn, tránh sang một bên và không
ngó ngàng gì tới người bị cướp bên đường (x. Lc 10:31-32). Hay chúng ta có thể
lại gần không đúng cách, nhìn các hoàn cảnh một cách trừu tượng và viện cớ để
tránh né theo thói thường, chẳng hạn như: “Đời là vậy..”, hay “Không thể làm
được gì”. Bằng cách này, chúng ta chiều theo thuyết cam chịu của định mệnh.
Hoặc chúng ta có thể lại gần với một thái độ kẻ cả chỉ tạo ra sự cô lập và loại
trừ. “Như tiên tri Giôna, chúng ta thường xuyên bị cám dỗ trốn tránh vào một
cái hang an toàn. Nó có thể mang nhiều tên gọi khác nhau: chủ nghĩa cá
nhân, chủ nghĩa duy linh, sống trong một thế giới nhỏ bé…”[20] Thay vì làm chúng ta
biết thương cảm, thái độ này ngăn cản chúng ta đối diện với những vết thương
của chính mình, vết thương của người khác và cuối cùng là vết thương của chính
Chúa Giêsu.[21]
Theo cùng một triền suy tư này, tôi muốn nhắc tới một
thái độ tinh vi và nguy hiểm khác, mà như Bernanos thích nói, nó là “thức uống
quí nhất của ma quỉ”.[22] Nó
cũng là thái độ tai hại nhất cho những linh mục chúng ta muốn phục vụ Chúa, vì
nó nuôi dưỡng sự chán nản, cô đơn và thất vọng.[23] Thất vọng với cuộc đời,
với Hội Thánh hay với chính mình có thể cám dỗ chúng ta đeo đuổi một mối
sầu ngọt ngào hay sự buồn phiền mà các Giáo Phụ phương Đông gọi
là acedia, thờ ơ, vô cảm. Hồng Y Tomáš Špidlík mô tả nó như sau:
“Nếu chúng ta bị tấn công bởi sự sầu đời, bên cạnh những người khác hay chỉ cô
đơn một mình, đó là vì chúng ta thiếu đức tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa
và các công trình của Người… Buồn sầu làm tê liệt ước muốn kiên trì của chúng
ta trong lao động và cầu nguyện; nó làm chúng ta khó sống với… Các tác giả tu
đức viết nhiều về tật xấu này thì gọi nó là kẻ thù tệ hại nhất của đời sống
thiêng liêng.”[24]
Tất cả chúng ta ý thức rằng buồn sầu có thể biến thành
thói quen và dần dần đưa chúng ta tới chỗ chấp nhận sự dữ và sự bất công bằng
cách âm thầm bảo chúng ta: “Nó vốn luôn luôn là thế mà!” Một sự buồn sầu bóp
nghẹt mọi cố gắng thay đổi và hoán cải, bằng cách gieo sự oán giận và thù
nghịch. “Đó không phải là cách để sống một cuộc sống xứng đáng và viên mãn; nó
không phải là ý của Thiên Chúa cho chúng ta, cũng không phải là sự sống của
Thần Khí, vốn bắt nguồn trong trái tim của Chúa Kitô phục sinh”,[25] mà chúng ta đã được kêu
gọi để sống. Anh em thân mến, khi mối sầu ngọt ngào ấy đe doạ kìm hãm cuộc sống
chúng ta hay các cộng đoàn của chúng ta, chúng ta không nên sợ hãi hay bối rối,
nhưng với quyết tâm vững chắc, chúng ta hãy cùng nhau nài xin Chúa Thánh Thần
“đánh thức chúng ta khỏi cơn mê ngủ, giải phóng chúng ta khỏi tình trạng ù lỳ.
Chúng ta hãy suy nghĩ lại cách chúng ta có thói quen làm; chúng ta hãy mở to
mắt và tai chúng ta, và trên hết là trái tim chúng ta, để không tự mãn về những
gì đang có, nhưng được khuấy động bởi lời sống động và hiệu quả của Chúa phục
sinh”.[26]
Tôi muốn lặp lại: vào những lúc khó khăn, tất cả chúng ta
đều cần sự an ủi và sức mạnh của Thiên Chúa, cũng như của các anh chị em chúng
ta. Tất cả chúng ta có thể được hưởng nhờ những lời cảm động của Thánh Phaolô
nói cho các cộng đoàn của ngài: “Tôi xin anh em đừng nản chí khi thấy tôi phải
gian truân vì anh em” (Ep 3:13), và “Tôi muốn tâm hồn [anh em] được phấn khởi”
(Cl 2:22). Bằng cách này, chúng ta có thể thi hành sứ vụ mà Chúa ban cho chúng
ta một cách mới mẻ mỗi ngày: công bố “tin mừng trọng đại cho toàn dân” (Lc
2:10). Không phải bằng việc trình bày những lý thuyết trí thức hay những nguyên
tắc đạo đức về cách mọi sự phải như thế nào, nhưng như là những con người mà,
sống trong đau khổ, đã được Chúa làm cho biến đổi và biến hình, và có thể thốt
lên như ông Gióp: “Trước kia, con chỉ được biết về Ngài nhờ người ta nói lại, nhưng
giờ đây, chính mắt con chứng kiến” (G 42:5). Không có trải nghiệm nền tảng này,
mọi công việc cực nhọc vất vả của chúng ta sẽ chỉ dẫn đến thất vọng và chán
chường.
Trong cuộc đời của chính chúng ta, chúng ta đã thấy rằng
“với Đức Kitô, niềm vui mới không ngừng được sinh ra” như thế nào.[27] Mặc dù có những giai
đoạn khác nhau trong kinh nghiệm này, chúng ta biết rằng, bất chấp những yếu
hèn và tội lỗi của chúng ta, “với một sự dịu dàng không bao giờ gây thất vọng,
nhưng luôn luôn có khả năng khôi phục niềm vui của chúng ta, Thiên Chúa làm
chúng ta có thể ngẩng cao đầu và bắt đầu làm mới lại”.[28] Niềm vui ấy không phải
là kết quả của các tư tưởng hay quyết định của chúng ta, nhưng là kết quả của
sự tin cậy phát sinh từ việc biết sự thật vững bền của các lời Chúa Giêsu nói
với ông Phêrô. Vào những lúc hoang mang chao đảo, hãy nhớ những lời này của
Chúa: “Thầy đã cầu nguyện cho anh, để anh khỏi mất lòng tin” (Lc 22:32). Chúa
là người đầu tiên cầu nguyện và chiến đấu cho anh em và cho tôi. Và Người mời
gọi chúng ta hoàn toàn đi vào lời cầu nguyện của chính Người. Có thể có những
lúc chúng ta cũng phải đi vào “lời cầu nguyện trong vườn Ghếtsêmani, những lời
cầu nguyện nhân loại và bi thương nhất của Đức Giêsu.. Vì ở đó chúng ta tìm thấy
sự cầu khẩn, sự sầu não, lo lắng và thậm chí sự kinh hoàng (Mc 14:33tt.)”.[29]
Chúng ta biết không dễ để đứng trước mặt Chúa và để cho
cái nhìn của Người dò xét cuộc đời chúng ta, chữa lành các vết thương lòng của
chúng ta và rửa chân chúng ta sạch tính thế tục đã tích tụ trên đường đi và bây
giờ ngăn cản chúng ta tiến tới phía trước. Trong cầu nguyện, chúng ta trải
nghiệm sự “bất an” thánh thiện, là cái nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta là những
môn đệ cần được Chúa giúp, và nó giải thoát chúng ta khỏi khuynh hướng tự cao
tự đại của “những người cậy vào sức riêng của mình và cảm thấy hơn những người
khác vì mình tuân giữ một số luật nào đó”.[30]
Anh em thân mến, hơn bất cứ ai, Đức Giêsu biết các cố
gắng và các thành tích của chúng ta, các yếu hèn và các lầm lỗi của chúng ta.
Người là người đầu tiên bảo chúng ta: “Tất cả những ai đang vất vả mang gáng
nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang
lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.
Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11:28-29).
Trong việc cầu nguyện này, chúng ta biết rằng mình không
bao giờ cô độc. Lời cầu nguyện của người mục tử bao gồm cả Thần Khí kêu lên
“Ábba, Cha ơi!” (x. Gl 4:6), và những người đã được trao phó cho người ấy coi
sóc. Sứ vụ và căn tính của chúng ta có thể được định nghĩa bằng cái biện chứng
này.
Kinh nguyện của người mục tử được nuôi dưỡng và được nhập
thể vào trong trái tim của Dân Thiên Chúa. Nó mang dấu vết những đau khổ và
niềm vui của những giáo dân của họ, những người mà họ thầm lặng giới thiệu cho
Chúa để được xức dầu bởi ơn Chúa Thánh Thần. Đây là niềmhyvọng của một người
mục tử, là người tin tưởng và kiên trì cầu xin Chúa chăm lo sự yếu hèn của
chúng ta như là những cá nhân và như là một đoàn dân. Nhưng chúng ta cũng phải
hiểu ra rằng chính trong kinh nguyện của Dân Thiên Chúa mà trái tim của người
mục tử mặc lấy xác thịt và tìm được chỗ riêng của nó. Điều này giúp chúng ta
thoát khỏi thái độ tìm kiếm những câu trả lời nhanh, dễ và có sẵn; nó để cho
Chúa―chứ không phải các công thức và mục tiêu của chúng ta―là người chỉ cho
chúng ta một con đườnghyvọng. Chúng ta đừng quên rằng vào những lúc khó khăn
nhất trong đời sống của cộng đoàn Hội Thánh sơ khởi, như chúng ta đọc trong
sách Công Vụ Tông Đồ, cầu nguyện đã xuất hiện như là sức mạnh hướng dẫn đích
thực.
Anh em thân mến, chúng ta hãy thực sự nhìn nhận sự yếu
đuối của mình, nhưng cũng hãy để cho Đức Giêsu biến đổi chúng và lại sai chúng
ta đi thi hành sứ vụ. Chúng ta đừng bao giờ để mất niềm vui của việc biết rằng
chúng ta là “những con chiên của đoàn chiên của Người” và Người là Chúa và Chủ
Chiên của chúng ta.
Để tâm hồn chúng ta phấn khởi, chúng ta không được quên
cái biện chứng xác định căn tính chúng ta. Trước hết là mối quan hệ của chúng
ta với Đức Giêsu. Mỗi khi chúng ta quay lưng lại với Chúa Giêsu hay quên lãng
mối quan hệ với Người, sự cam kết của chúng ta sẽ từ từ nhưng chắc chắn bắt đầu
phai nhạt và đèn của chúng ta hết dầu cần thiết để thắp sáng lên cuộc đời chúng
ta (x. Mt 25:1-13): “Hãy ở lại trong Thầy như Thầy ở lại trong anh em.
Cũng như cành nho không thể tự mình sinh hoa trái, nếu không gắn liền với cây
nho, anh em cũng thế, nếu không ở lại trong Thầy… vì không có Thầy, anh em
chẳng làm gì được” (Ga 15:4-5). Về phương diện này, tôi muốn khuyến khích anh
em đừng bỏ việc linh hướng. Hãy tìm một người anh em mà mình có thể nói chuyện,
suy tư, thảo luận và phân định, chia sẻ với tất cả sự tin tưởng và cởi mở về
hành trình cuộc đời của mình. Một người anh em khôn ngoan để chia sẻ kinh
nghiệm làm môn đệ. Hãy tìm người ấy, gặp người ấy và vui hưởng sự hướng dẫn,
đồng hành và lời khuyên của người anh em ấy. Đây là một sự trợ giúp thiết yếu
để thi hành thừa tác vụ của anh em theo ý Chúa Cha (x. Dt 10:9) và để cho tim
của mình đập với “lòng trí ở trong Đức Giêsu Kitô” (Pl 2:5). Chúng ta có thể
tìm được lợi ích từ những lời của sách Giảng Viên: “Hai người thì hơn
một… Người này ngã đã có người kia nâng dậy. Nhưng khi chỉ có một mình mà
bị ngã thì thật là khốn, vì chẳng có ai nâng dậy cả!" (4:9-10).
Khía cạnh thiết yếu khác của biện chứng này là mối quan
hệ của chúng ta với giáo dân. Hãy vun trồng mối quan hệ này và mở rộng nó. Đừng
sống xa cách giáo dân, các cộng sự và các cộng đoàn của anh em, càng không được
tìm sự náu ẩn trong một nhóm tinh hoa đóng kín. Rốt cuộc, cách sống như thế bóp
nghẹt và gây độc cho linh hồn. Một mục tử có “trái tim phấn khởi” là một mục tử
luôn luôn chuyển động. Khi chúng ta “đi ra”, chúng ta “khi thì ở phía trước,
khi thì ở giữa, khi thì ở phía sau: ở phía trước để hướng dẫn cộng đoàn; ở giữa
để khích lệ và nâng đỡ; và ở phía sau để giữ sự hiêp nhất, để không ai bị tụt
lại quá xa ở đàng sau.. Còn có một lý do nữa: vì giáo dân của chúng ta có một
“cái mũi” để đánh hơi các sự việc. Họ đánh hơi, phát hiện các lối đi mới; họ
có sensus fidei, “cảm thức đức tin” (x. Lumen
Gentium, 12)… Có cái gì có thể đẹp hơn chăng?”[31] Chính Đức Giêsu là mẫu
mực cho chọn lựa rao giảng Tin Mừng này để dẫn chúng ta đến với trái tim của
giáo dân. Tốt biết bao cho chúng ta khi được thấy Người trong sự chú ý của
Người tới mọi người! Hy tế của Đức Giêsu trên thập giá không là gì khác hơn là
tột đỉnh của phong cách rao giảng Tin Mừng đánh dấu toàn bộ cuộc đời Người.
Anh em linh mục thân mến, nỗi đau đớn của biết bao nạn
nhân, nỗi đau đớn của dân Thiên Chúa và nỗi đau đớn của bản thân chúng ta,
không thể là vô ích. Chính Đức Giêsu đã vác gánh nặng thập giá của Người và bây
giờ Người xin chúng ta canh tân sứ mạng của chúng ta trong việc đến gần những
người chịu đau khổ, đến gần nỗi thống khổ của loài người, và thật sự biến tất
cả những đau đớn này thành những trải nghiệm của chính chúng ta, như là hy lễ.[32] Thời đại chúng ta, được
ghi dấu những vết thương cũ và mới, đòi hỏi chúng ta phải là những người xây
dựng các mối quan hệ và hiệp thông, cởi mở, tin tưởng và mong đợi trong hy vọng
điều mới mẻ mà Vương Quốc của Thiên Chúa muốn thể hiện ngay cả hôm nay. Vì đó
là một vương quốc của những tội nhân đã được tha thứ và được kêu gọi làm chứng
cho lòng nhân từ luôn luôn là hiện tại của Chúa. “Vì tình thương của Người tồn
tại đến muôn đời.”
NGỢI KHEN
“Linh hồn tôi tán dương sự cao cả của Chúa” (Lc 1:46)
Làm sao chúng ta có thể nói về lòng biết ơn và sự phấn
khởi mà không nhìn lên Đức Maria? Mẹ, người phụ nữ với trái tim bị đâm thâu (x.
Lc 2:35), dạy chúng ta bài ngợi khen có khả năng nâng cao cái nhìn của chúng ta
hướng về tương lai và khôi phục niềm hy vọng của chúng ta cho hiện tại. Cả cuộc
đời Mẹ được gói trọn trong bài ngợi khen của Mẹ (x. Lc 1:46-55). Chúng ta
cũng được mời gọi hát bài ca đó như một lời hứa hoàn thành trong tương
lai.
Mỗi khi đến viếng một Đền Đức Mẹ, tôi thích dành thời
gian ngắm nhìn Đức Mẹ và để Đức Mẹ nhìn tôi. Tôi cầu xin được sự tín thác của
những trẻ thơ, sự tín thác của những người nghèo và người đơn sơ biết rằng mẹ
của họ đang ở đó, rằng họ có một chỗ trong trái tim của mẹ. và khi nhìn lên Mẹ,
tôi một lần nữa được nghe, giống như chàng thanh niên Da Đỏ Juan Diego: “Con út
của mẹ, con có chuyện gì? Đừng để nó làm tim con bối rối. Mẹ vinh dự được làm mẹ
của con, mẹ lại không ở đây sao?”[33]
Chiêm ngắm Đức Maria là “một lần nữa tin vào bản chất
cách mạng của tình yêu và sự dịu dàng. Nơi Mẹ, chúng ta thấy rằng khiêm nhường
và dịu dàng không phải là nhân đức của những kẻ yếu đuối nhưng của những người
mạnh, không cần đối xử tệ với những người khác để tự mình cảm thấy mình là quan
trọng.”[34]
Có lẽ thỉnh thoảng cái nhìn của chúng ta có thể bị chai
cứng, hay chúng ta có thể cảm thấy rằng sức quyến rũ của sự vô cảm hay sự
thương hại bản thân sắp sửa mọc rễ trong trái tim chúng ta. Hay sự ý thức của
chúng ta rằng mình là một thành phần sống động và trọn vẹn của dân Thiên Chúa
bắt đầu làm chúng ta mệt mỏi, và chúng ta cảm thấy bị cám dỗ theo một chủ nghĩa
tinh hoa nào đó. Những lúc như thế, chúng ta đừng sợ chạy đến với Đức Mẹ và hát
lên bài ca ngợi khen của Mẹ.
Có lẽ đôi khi chúng ta có thể cảm thấy bị cám dỗ rút lui
vào trong bản thân và công việc của mình, tránh khỏi những con đường bụi bặm
của cuộc sống hằng ngày. Hay những tiếc nuối, những phàn nàn, những lời chỉ
trích hay châm biếm lấn lướt và làm chúng ta mất đi ước muốn chiến đấu, hy vọng
và yêu thương. Những lúc như thế, chúng ta hãy nhìn lên Mẹ để Mẹ có thể giải
thoát cái nhìn của chúng ta khỏi mọi “móng vuốt” cản trở chúng ta chú ý và cảnh
giác, và nhờ đó có thể nhìn thấy và mừng Đức Kitô sống động giữa dân Người. Và
nếu chúng ta thấy rằng mình đang lạc đường, hay đang thất bại trong các cố gắng
hoán cải, lúc ấy chúng ta hãy nhìn lên Mẹ giống như một cha xứ tuyệt vời của
tôi trong giáo phận xưa kia của tôi, ngài đồng thời cũng là một nhà thơ. Ngài
đã xin Mẹ, với một cái gì giống như một nụ cười: “Tối nay, Mẹ thân yêu /lời con
hứa chân thành; /nhưng để cho chắc ăn, xin đừng quên/ để chìa khoá bên ngoài
cửa”.[35] Đức
Mẹ “là người bạn hằng lo cho cuộc đời chúng ta không bao giờ thiếu rượu. Là mẹ
của mọi người, Mẹ là dấu hiệu hi vọng cho các dân tộc đang chịu những cơn đau
vượt cạn của công lý.. Là người mẹ đích thực, Mẹ đi bên cạnh chúng ta, Mẹ chia
sẻ những cuộc chiến đấu của chúng ta và hằng bao bọc chúng ta bằng tình thương
của Thiên Chúa”.[36]
Anh em thân mến, một lần nữa, “tôi không ngừng tạ ơn Chúa
vì anh em” (Ep 1:16), vì sự dấn thân và thừa tác vụ của anh em. Vì tôi tin
tưởng rằng “Thiên Chúa lấy đi cả những tảng đá cứng nhất mà các niềm hy vọng và
trông mong của chúng ta gặp phải: sự chết, tội lỗi, sự sợ hãi, tính thế tục.
Lịch sử loài người không kết thúc trước một tấm bia mộ, vì hôm nay nó gặp được
“tảng đá sống” (x. Pr 2:4), Đức Giêsu phục sinh. Là Hội Thánh, chúng ta được
xây dựng trên Người, và cả khi chúng ta trở nên ngã lòng và bị cám dỗ phán đoán
tất cả dựa theo các thất bại của chúng ta, Người vẫn đến để làm mới mọi sự”.[37]
Chúng ta hãy để cho lòng biết ơn của chúng ta khơi dậy
lời ngợi khen và niềm phấn khởi mới cho sứ vụ của chúng ta là xức dầu hi vọng
cho các anh chị em chúng ta. Chúng ta hãy là những người sống chứng tá cho lòng
trắc ẩn và lòng thương xót mà chỉ mình Đức Giêsu có thể ban cho chúng ta.
Xin Chúa Giêsu ban phúc lành cho anh em và xin Đức Trinh
Nữ gìn giữ anh em. Và xin anh em vui lòng đừng quên cầu nguyện cho tôi.
Thân
ái,
PHANXICÔ
Rôma, tại Thánh Đường Thánh Gioan Latêranô,
Ngày 4 tháng 8, 2019
Lễ nhớ Thánh Gioan Vianney, Cha Xứ Ars
[1] Xem Tông huấn Anno
Iubilari (23-4-1929): ): AAS 21 (1929), 312-313.
[2] Diễn Từ cho Hội
Đồng Giám Mục Ý (20-5-2019). Tình phụ tử thiêng liêng đòi hỏi một giám
mục không được bỏ các linh mục của mình mồ côi; điều này có thể cảm thấy không
chỉ trong việc ngài mở rộng cửa cho các linh mục, nhưng cũng tìm kiếm họ để
chăm sóc và đồng hành với họ.
[3] Xem THÁNH GIOAN XXIII,
Thông điệp Sacerdotii Nostri Primordia về Kỷ Niệm Một Trăm Năm
Cha Xứ Thánh Ars qua đời (1-8-1959): AAS (51 (1959), 548.
[4] Xem Thư gửi Dân
Chúa (20-8-2018).
[5] Gặp gỡ các Linh
Mục, Tu Sĩ, các Người Thánh Hiến và các Chủng Sinh, Santiago de Chile
(16-1-2018).
[6] Xem Thư gửi Dân
Lữ Hành của Thiên Chúa tại Chilê (31-5-2018).
[7] Gặp gỡ các Linh
Mục Giáo Phận Rôma (7-3-2019).
[8] Bài giảng Vọng
Phục Sinh (19-4-2014).
[9] Tông huấn Gaudete
et Exsultate, 7.
[10] Xem JORGE MARIO
BERGOGLIO, Las cartas de la tribulación (Herder, 2019), 21.
[11] Xem Diễn từ cho các
Linh Mục Chánh Xứ của Rôma (6-3-2014).
[12] Tĩnh tâm cho các Linh Mục. Bài
Suy Niệm I (2-6-2016).
[13] A. SPADARO, Phỏng vấn ĐGH
Phanxicô, trong La Civiltà Cattolica 3918 (19-9-2013), tr.
462.
[14] Tông huấn Evangelii
Gaudium, 137.
[15] Xem Diễn từ cho các
Linh Mục Chánh Xứ tại Rôma (6-3-2014).
[16] Xem Tông huấn Evangelii
Gaudium, 268.
[17] Tông huấn Gaudete et
Exsultate, 7.
[18] Tông huấn Misericordia
et Miseria, 13.
[19] Tông huấn Gaudete et
Exsultate, 50.
[21] Xem JORGE MARIO
BERGOGLIO, Reflexiones en esperanza (Vatican City, 2013), tr.
14.
[22] Journal d’un curé de
campagne (Paris, 1974), tr. 135; xem Tông huấn Evangelii Gaudium,
83.
[23] Xem BARSANUPH OF GAZA, Letters,
trong VITO CUTRO – MICHAŁ TADEUSZ SZWEMIN, Bisogno di paternità (Warsaw,
2018), tr. 124.
[24] L’arte di purificare il
cuore, Rome, 1999, tr. 47.
[25] Tông huấn Evangelii
Gaudium, 2.
[26] Tông huấn Gaudete et
Exsultate, 137.
[27] Tông huấn Evangelii Gaudium,
1.
[29] JORGE MARIO BERGOGLIO, Reflexiones
en esperanza (Vatican City, 2013), tr. 26.
[30] Tông huấn Evangelii Gaudium,
94.
[31] Gặp gỡ các Linh Mục, các
Người Thánh Hiến và các Thành Viên Hội Đồng Mục Vụ, Assisi (4-10-2013).
[32] Xem Tông huấn Evangelii
Gaudium, 268-270.
[33] Xem Nican Mopohua,
107, 118, 119.
[34] Tông huấn Evangelii Gaudium,
288.
[35] Xem AMELIO LUIS CALORI, Aula
Fúlgida, Buenos Aires, 1946.
[36] Tông huấn Evangelii Gaudium,
286.
[37] Bài giảng Vọng Phục Sinh (20-4-2019).
Bản dịch tiếng Việt:
Lm. Đaminh Ngô Quang Tuyên
(https://www.hdgmvietnam.com/chi-tiet/thu-duc-thanh-cha-phanxico-gui-cac-linh-muc-nhan-ky-niem-160-nam-thanh-gioan-vianney-cha-xu-ars-qua-doi-35157)