THẦN HỌC CỦA TRENTÔ VÀ VATICANÔ II VỀ CHỨC
LINH MỤC
Đối với Giáo hội
Công giáo, giáo lý của Công đồng Trentô về các bí tích, đặc biệt về bí tích
Thánh Thể và chức linh mục, rất quan trọng. Có nhiều điều Công Đồng đã định
tín, trở nên đối tượng của đức tin Công giáo. Các tín điều ấy nhằm xác định rõ
nội dung đức tin chống lại những sai lầm.
Ngày nay nhiều người
công nhận rằng thần học Công giáo và Tin lành về bí tích Thánh Thể không xa
nhau như trước đây nhiều người nghĩ. Đã có những gặp gỡ trao đổi phong phú,
mang lại nhiều hứa hẹn cho sự hiệp nhất trong tương lai. Nhưng thần học về thừa
tác vụ trong Giáo Hội còn rất xa nhau. Có những điểm gần như hoàn toàn trái
ngược nhau. Công đồng Trentô đã định tín nhiều điều về chức linh mục, chống lại
những sai lầm đi ngược với giáo lý truyền thống của Giáo Hội. Điều đó không có
nghĩa là thần học của Công đồng Trentô hoàn toàn đầy đủ. Cái nhìn của Công đồng
Trentô tuy đúng, nhưng có chỗ còn hạn hẹp, vì bối cảnh tranh luận và vì thần
học về chức linh mục bấy giờ chưa phong phú.
Công đồng Vaticanô II,
trong hai sắc lệnh về giám mục và linh mục, lấy lại những điều đã được Công
đồng Trentô định tín, nhưng đi xa hơn và có một cách nhìn toàn diện hơn. Đặc
biệt là thần học của Vaticanô II về giám mục mới mẻ, rõ ràng và phong phú hơn
nhiều so với giáo lý Công đồng Trentô. Ở đây chúng tôi nhấn mạnh nhiều hơn tới
chức linh mục, dù biết rằng đi từ chức giám mục thì phù hợp với tinh thần Công
đồng hơn.
Khởi điểm thần học
Linh mục thời nào cũng
là con người của Giáo Hội, sống bởi Giáo Hội, cho Giáo Hội và vì Giáo Hội.
Nhưng trước đây, ý tưởng này chưa được làm nổi bật trong thần học về chức linh
mục.
Đối với Công đồng
Trentô, khởi điểm của thần học về linh mục là bí tích Thánh Thể : “Trong Bữa
Tiệc Ly, Đức Kitô đã để lại một hy lễ hữu hình, đã trao phó cho các tông đồ và
những người kế vị các ngài trong chức vụ linh mục” (DZ 938).
Lý do hiện hữu của
chức linh mục rõ ràng và dễ hiểu: “Vì hy tế Thánh Thể hữu hình, phải có chức tư
tế hữu hình” ( DZ 957).
Linh mục là đấng nhận
lãnh quyền tế lễ và tha tội. Ai cũng biết linh mục vẫn là con người yếu đuối,
nhưng được trao cho quyền hành to lớn: linh mục có quyền trên Mình Máu Chúa
Kitô. Vì thế, linh mục là con người cực trọng, cao hơn các thiên thần; thậm chí
có người còn dám nói linh mục còn cao hơn Đức Mẹ, vì Đức Mẹ chỉ sinh Chúa Giêsu
có một lần, còn linh mục làm cho Chúa Giêsu hiện diện hữu hình mọi ngày
trên bàn thờ, trong Thánh lễ, hiện diện mãi giữa nhân loại, từ đời nọ
sang đời kia và cho đến tận thế.
Cách nhìn này không
sai, nhưng chưa được đầy đủ. Các khía cạnh khác của các tác vụ linh mục hơi bị
lãng quên: trách nhiệm “Phúc Âm hóa” bằng việc rao giảng Lời Chúa, trách nhiệm
hướng dẫn và chăn dắt con chiên trong đời sống đạo hằng ngày.
Không ai thấy
được sự khác biệt giữa chức linh mục và chức giám mục, vì cả hai đều có quyền
biến đổi bánh và rượu thành Mình và Máu Chúa Kitô.
Công đồng Vaticanô II
khẳng định lại uy quyền cực thánh và cao trọng này của chức linh mục: “Nhờ chức
thánh, họ được trao quyền tế lễ và tha tội” (x. LM 2).
Nhưng Công Đồng mở
rộng tầm nhìn của Giáo hội và đã lồng quyền tế lễ của linh mục vào trong sứ
mạng của Giáo Hội.
Cũng như Chúa Kitô đã
được thánh hiến và sai đi loan báo Nước Thiên Chúa, Giáo Hội được thánh hiến và
sai đi rao giảng Tin Mừng, tiếp nối sứ mạng của Chúa Kitô.
Chúa Kitô đã cho toàn
thể Giáo Hội thông phần vào sự xức dầu mà Người đã lãnh nhận từ Chúa Cha. Thánh
Thần hay là “Dầu Xức” đã biến Giáo Hội trở thành Hội Thánh, Thân Thể huyền
nhiệm của Chúa Kitô.
Trong Đức Kitô, nhờ
Đức Kitô và với Đức Kitô, Giáo Hội đích thực là một dân tư tế, được mời gọi để
dâng lễ tế của Chúa Kitô lên cho Thiên Chúa và để làm chứng cho tình thương của
Thiên Chúa trong Chúa Kitô trên khắp cùng mặt đất.
Chức vụ linh mục được
thiết lập để phục vụ dân thánh Chúa, giúp cho dân có khả năng hiến tế và làm
chứng. Chức vụ linh mục, cùng với chức vụ giám mục và ở một mức độ tùy thuộc
vào chức giám mục, tiếp nối sứ mạng Chúa Kitô đã trao phó cho mười hai tông đồ.
Sứ mạng của các ngài là sứ mạng tông đồ (mission apostolique).
1º Khác với Công đồng
Trentô, khởi điểm thần học của Vaticanô II về chức linh mục là khởi điểm Giáo
Hội học, thực ra cũng là khởi điểm Kitô học: sự hiến thánh và sứ mạng của Chúa
Kitô.
Khởi điểm này không
khai trừ quyền tế lễ của linh mục, cũng không làm mất sự khác biệt bản chất
giữa linh mục và giáo dân.
Vì sự hiến thánh và sứ
mạng của Chúa Kitô gắn liền nhau cách bất khả phân, sự hiện hữu của Giáo
Hội và sứ mạng Phúc Âm hóa cũng không thể tách biệt.
Khởi đi từ Chúa Kitô
và Giáo Hội, Công đồng Vaticanô II giải quyết thỏa đáng những khó khăn và thắc
mắc của các nghị phụ: đề cao việc Phúc Âm hóa của linh mục hay nhấn mạnh khía
cạnh phượng tự và hy tế Thánh Thể?
2º Điểm khác biệt thứ
hai gắn liền với điểm 1º là sự kiện Chúa Kitô thiết lập chức linh mục:
Theo Công đồng Trentô,
lý do Chúa Giêsu thiết lập chức linh mục là để tiếp tục Hy Lễ Thập Giá bằng
hiến tế Thánh Thể. Đây là một cái nhìn thuần túy phượng tự, làm nổi bật quyền
hành của linh mục và sự khác biệt bản chất giữa chức tư tế thừa tác với vai trò
và sứ mạng của người giáo dân thường. Sự nhấn mạnh này là phản ứng chống lại
phong trào cải cách của Luther.
Dĩ nhiên đó là một lý
do hiện hữu quan trọng của chức linh mục. Công đồng Vaticanô II không chối bỏ
lý do này, nhưng muốn đi xa hơn. Công Đồng không sợ lẫn lộn giữa vai trò linh
mục và vai trò giáo dân. Ngược lại, Công Đồng cố gắng định vị chức linh mục
thừa tác trong chức tư tế vương giả của toàn thể dân Chúa, để từ đó khám phá lý
do sâu xa của việc Chúa Giêsu thiết lập chức linh mục, làm nổi bật sự khác biệt
bản chất giữa chức tư tế thừa tác với chức tư tế vương giả, mà không tách rời
linh mục ra khỏi dân Chúa.
Sau khi đã nói tới
chức tư tế vương giả (toàn thể dân Chúa được thánh hiến bằng Dầu Xức của Chúa
Kitô là Thánh Thần), Công Đồng đề cập ngay đến sự “duy nhất đa diện” của Nhiệm
Thể Chúa Kitô. Chính vì Thân Thể Duy Nhất mà chức tư tế thừa tác được thiết
lập. Chúa Giêsu đã cắt đặt giữa cộng đồng các tín hữu một số “ thừa tác
viên” có quyền tế lễ và tha tội nhờ chức thánh, để nhân danh Chúa Kitô, họ
chính thức thi hành chức vụ linh mục cho loài người (x. LM 2).
Ở đây Vaticanô II
trích dẫn Công đồng Trentô (khóa 23, ch.1: DZ 957), nhưng thêm vào mấy chữ
“trong cộng đồng các tín hữu” (in societate fidelium), cho thấy lý do sự hiện
hữu của các thừa tác viên là để phục vụ dân Chúa. Chữ “chính thức” (publice)
cũng được thêm vào để phân biệt rõ cương vị linh mục với cương vị giáo dân.
Cuối cùng, Vaticanô II còn xác định thêm là chức linh mục được thi hành “nhân
danh Chúa Kitô cho loài người” (pro hominibus nomine Christi), để làm nổi bật
khía cạnh “sống cho” (pro-existence) của tác vụ linh mục.
Câu trích dẫn và một
số chi tiết thêm vào cho thấy rằng các nghị phụ Vaticanô II vừa muốn nối kết
với truyền thống của Trentô, vừa nới rộng cái nhìn của truyền thống.
Đức Kitô thiết lập
chức linh mục lúc nào ?
Công đồng Trentô trả
lời một cách rõ ràng và xác quyết: “Nếu ai nói rằng Đức Kitô không có phong
chức linh mục cho các tông đồ khi nói : “Các con hãy làm việc này mà nhớ đến Ta”
thì phải vạ tuyệt thông” (DZ 949). Vì thế Công Đồng gọi các linh mục là những
người kế vị các tông đồ trong chức tư tế.
Dĩ nhiên Công đồng
Trentô không giới hạn vào bữa Tiệc Ly, nhưng còn nói đến việc Đức Kitô ban
Thánh Thần để tha tội. Dù sao, ý tưởng Chúa Giêsu lập chức tư tế trong bữa Tiệc
Ly vẫn chiếm ưu thế. Quan niệm này không sai, nhưng nếu được sử dụng cách mù
quáng và cực đoan, sẽ làm lu mờ sứ vụ của Giáo Hội và của linh mục (linh mục là
người được sai đi, trong lòng một Giáo Hội thừa sai).
Công đồng Vaticanô II
lấy lại quan điểm của Trentô, nhưng định vị nó trong một toàn bộ rộng
llớn hơn. Công Đồng
không muốn xác định “ lúc” mà Đức Kitô thiết lập hàng tư tế. Quan điểm của Cộng
Đồng hoàn toàn quy chiếu về sứ vụ của Chúa Kitô: “Chúa Kitô đã sai các tông đồ
như chính Người được Chúa Cha sai, và qua các tông đồ, Người đã làm cho các
đấng kế vị là các giám mục cũng được tham dự việc thánh hiến và sứ vụ của chính
mình Người. Tác vụ (munus) này của giám mục cũng được trao cho linh mục ở mọi
cấp độ tùy thuộc, để một khi đã gia nhập hàng linh mục, họ là những cộng sự
viên của hàng giám mục, chu toàn một cách tốt đẹp sứ vụ tông đồ do Chúa Kitô
trao phó” (LM 2).
lKhẳng dịnh này của
Vaticanô II phát xuất từ những lý do thần học rất quan trọng.
Trước hết, không thể
bàn đến việc thiết lập chức linh mục mà không đề cập đến vấn đề rộng llớn hơn
là “tổ chức hàng giáo phẩm”. Ý tưởng đó là một tiến bộ so với Công đồng Trentô.
Vaticanô II không muốn
xác định rõ “thời điểm” của việc thiết lập chức linh mục, sợ làm như vậy sẽ
giới hạn sứ vụ của linh mục. Rõ ràng Công Đồng chỉ muốn nối kết chặt chẽ việc
thiết lập chức linh mục với sứ vụ của các tông đồ và các giám mục. Do đó, sứ vụ
của linh mục có một chiều kích phổ quát. Giới hạn duy nhất của sứ vụ là do “cấp
độ tùy thuộc” (subordinato gradu), nghĩa là tùy thuộc vào các giám mục.
Tính đặc thù của chức
linh mục
Cả Trentô lẫn Vaticanô
II khẳng định chức linh mục là một bí tích ghi “ấn tín” (character) đặc biệt và
trường tồn. Bí tích, ân sủng và ấn tín là ba từ ngữ căn bản chung cho cả hai
Công Đồng.
Công đồng Trentô lên
án những ai quan niệm chức linh mục như một quyền bính tạm thời, và có thể trở
thành giáo dân nếu không thi hành tác vụ nữa (x.DZ 964).
Vaticanô II xác nhận
“chức linh mục, tuy đòi hỏi phải có những bí tích khai sinh đời sống Kitô giáo,
nhưng lại được một bí tích riêng in dấu đặc biệt’ (LM 2).
Cả hai Công Đồng đều
quan niệm “chức linh mục” như một hồng ân đặc biệt Chúa ban (Gratia
Ministerii), không phải ai cũng có.
Công đồng Trentô lên
án những ai nói rằng các Kitô hữu đều là những linh mục của Giao Ước mới như
nhau, không phân biệt (promiscue). Không được coi linh mục và Kitô hữu có quyền
thiêng liêng như nhau (pari inter se potestate spirituali, DZ 960).
Vaticanô II cũng khẳng
định là không thể trở thành linh mục do ý muốn riêng, nhưng do hồng ân của
Thiên Chúa, và không thể là linh mục chỉ do phép Rửa Tội, nhưng do bí tích
Truyền Chức là một bí tích riêng.
Sự khác biệt giữa hai
Công Đồng phát xuất từ hai bối cảnh khác nhau. Bối cảnh Công đồng Trentô là bầu
khí ưu tư lo lắng của Giáo Hội trước giáo lý của Luther phủ nhận giá trị bí
tích của phép Truyền Chức. Bối cảnh của Vatiacnô II là bối cảnh đổi mới, cởi mở
và đại kết. Công Đồng không bận tâm bênh vực đặc tính bí tích của phép Truyền
Chức. Công Đồng như không lo lắng về những quá khích của Luther, nhưng chỉ muốn
nhìn những điểm tích cực nhắc nhở Giáo Hội về chức tư tế cộng đồng của
dân Chúa.
Sự khác biệt bối cảnh
này đưa tới cách suy nghĩ và trình bày khác. Chức linh mục theo Vaticanô II ít
được coi như một quyền hành trên bí tích Thánh Thể hơn là một ân sủng dành cho
sứ vụ. Về “ấn tín”, các nghị phụ chỉ nhắc lại điều cốt yếu của Công đồng Trentô
là “các linh mục được một bí tích riêng in dấu đặc biệt” (LM 2). Công Đồng
không rút ra hệ luận tu đức từ “ấn tín”, nhưng hướng “ấn tín” về chức năng đặc
thù của linh mục trong Giáo Hội là “thay mặt Chúa Kitô là Đầu mà hành động”.
Để hiểu rõ hơn giáo lý
của Công đồng Vaticanô II, chúng ta cần lưu ý ba điểm :
1º Vaticanô II không
thể xác định chức năng đặc thù của linh mục mà không nối kết với chức giám mục
(utpote Ordini Episcopali conjunctum). Linh mục lãnh nhận chức năng của mình từ
Chúa Kitô, luôn phải thi hành chức năng ấy trong Giáo Hội, liên kết mật thiết
với chức giám mục. Linh mục thông phần “quyền bính mà Chúa Kitô dùng để xây
dựng, thánh hóa và cai trị Giáo hội. Chức linh mục là “quyền thừa tác” trong
Giáo Hội.
2º Vaticanô II không
tách rời bí tích Truyền Chức khỏi ba bí tích khai tâm Kitô giáo (Rửa Tội, Thêm
Sức, Thánh Thể). Tương quan không thể xóa bỏ với ba bí tích làm nên dân Chúa
chứng tỏ mục tiêu của chức linh mục là xây dựng Nhiệm Thể Chúa Kitô.
3º Điểm thứ ba là một
câu rất quan trọng: “ut in persona Christi Capitis agere valeant”. Câu này làm
nổi bật tính đặc thù của phẩm trật trong Giáo Hội. Điều khác biệt căn bản nhất
giữa linh mục và Kitô hữu giáo dân là: linh mục là dấu chỉ của Đức Kitô làm Đầu
Giáo hội. Linh mục không những là người chủ sự Thánh Thể nhân danh Đức Kitô, mà
còn là đầu trong toàn bộ sứ vụ. Sứ vụ làm đầu này không do phép Rửa, nhưng do
“bí tích riêng in dấu đặc biệt”.
Nội dung chức tư tế
thừa tác
Đối với Công đồng
Trentô, nội dung chức tư tế thừa tác là “quyền tư tế”, là “quyền thánh chức”
(potestas ordinis), quyền trên bí tích Thánh Thể. Linh mục là người tế lễ.
Đối với Vaticanô II,
nội dung chức tư tế thừa tác rộng hơn: tất cả công tác “Phúc Âm hóa” hướng về
Hy Tế Thánh Thể. Linh mục là thừa tác viên rao giảng Tin Mừng cho lương dân,
thừa tác viên xây dựng Giáo hội, thừa tác viên cử hành Thánh Thể. Chức tư tế
thừa tác bao trùm mọi sinh hoạt của Giáo hội, nhưng một cách đặc biệt hơn gắn
liền với nhiệm vụ loan báo Tin Mừng.
+ Phaolô Bùi Văn Đọc
Giám mục giáo phận Mỹ Tho