Hội Thảo Khai Mạc Năm Linh
Mục tại TGM Bùi Chu: Việc đào tạo Linh mục hôm nay
Hội Thảo Khai Mạc Năm Linh Mục tại TGM Bùi
Chu ngày 16/6/2009
VIỆC ĐÀO TẠO LINH MỤC HÔM NAY
HIỆP THÔNG VỚI TRUYỀN THỐNG KHÔNG GIÁN
ĐOẠN CỦA GIÁO HỘI
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu đã thiết lập
Bí Tích Thánh Thể và chức linh mục. Ngài đã cầu nguyện cho các tông đồ, là các
linh mục đầu tiên của Ngài, và qua họ, cho mọi linh mục sẽ tới, và chúng ta hôm
nay: “Lạy Cha chí thánh, xin Cha thánh hóa họ trong sự thật. Như Cha đã sai
con vào thế gian, con cũng sai họ vào thế gian. Vì họ, con thánh hóa chính mình
để họ cũng được thánh hóa trong sự thật” [1]
Chính vì thế, trong diễn văn loan báo Năm
Linh Mục vào dịp Hội nghị khoáng đại của Bộ Giáo sĩ ngày 16/03/2009 vừa qua,
Đức Thánh Cha mong muốn “giúp các linh mục hướng đến sự hoàn thiện thiêng
liêng mà tính hiệu quả của thừa tác vụ của họ đặc biệt tùy thuộc.” [2]
Để mừng Năm Linh Mục (19/6/2009-19/6/2010)
với Ơn Toàn Xá, mà Đức Thánh Cha sẽ khai mạc vào ngày 19 tháng 6, lễ Thánh Tâm
Chúa Giêsu và ngày Quốc tế cầu nguyện cho sự thánh hóa các linh mục, kỷ niệm
150 năm ngày mất của cha thánh Gioan Maria Vianey, với sự hưởng ứng của linh
mục đoàn Giáo phận Bùi Chu chúng ta hôm nay, con xin trình bày đề tài việc
đào tạo linh mục hôm nay hiệp thông với truyền thống không gián đoạn của Giáo
Hội “để hăng say tìm hiểu giá trị của căn tính linh mục, hiểu biết
thần học về chức linh mục công giáo và ý nghĩa đặc biệt của ơn gọi và sứ vụ của
linh mục trong Giáo hội và trong xã hội.” [3]
I. TRUYỀN THỐNG KHÔNG GIÁN ĐOẠN CỦA GIÁO
HỘI
1. Truyền thống không gián đoạn của Giáo
Hội về nguồn gốc chức Linh mục
Trong xã hội tục hóa hôm nay, ảnh hưởng của
tinh thần tôn sùng vật chất đang thao túng mãnh liệt. Địa vị, tiền bạc và lạc
thú được đại đa số xem như là tất cả hạnh phúc của con người. Sự phóng túng
tình dục và chủ nghĩa hưởng lạc cuốn hút bao trái tim và đầu óc của người trẻ.
Do đó, độc thân khiết tịnh, nhất là nơi giới đàn ông, bị nghi ngờ và coi là
không thể.
Nhưng đối với Giáo Hội Công giáo Rôma, đời
sống độc thân linh mục là một thực hành bắt buộc rất cựu trào, dựa vào truyền
thống Tông Đồ, chẳng hạn thế kỷ IV, Công Đồng Carthage (năm 390) đã nói: “Những
người phục vụ các mầu nhiệm thánh phải hoàn toàn tiết dục hầu cho những gì các
Tông Đồ đã giảng dạy và người xưa gìn giữ thì nay chúng ta cũng tuân giữ nó.” Quả
thế, ngay từ đầu, Chúa Giêsu và thánh Phaolô đã nêu gương chọn cuộc sống ấy. Rõ
nét hơn từ Công đồng Latêranô I (1123), luật độc thân được áp dụng trong Giáo
Hội Công Giáo đối với mọi linh mục theo lễ nghi La-tinh.
Thế kỷ 14-15 cho thấy bức tranh toàn cảnh
lịch sử Giáo Hội của một nền luân lý suy đồi dẫn đến thời kỳ Phục Hưng nguy
hiểm và kết thúc với cuộc ly khai Thệ phản. Công đồng Trentô (1543) đã đưa đến
một cuộc canh tân thiêng liêng sâu xa và bền bỉ về chức linh mục và thừa tác
mục vụ linh mục.
Thời đại chúng ta chứng kiến nhiều cuộc
tranh luận về vấn đề kỷ luật này. Một số người đã cho rằng chẳng mấy hữu lý khi
đòi buộc những người sẽ chịu chức linh mục phải sống bậc độc thân; họ vịn cớ cả
Chúa Giêsu lẫn thánh Phaolô không trình bày bậc độc thân như là một thực hành
bắt buộc đối với các môn đệ. Một ít người còn đi xa hơn nữa đổ lỗi cho bậc độc
thân phải chịu một phần trách nhiệm về cuộc khủng hoảng ơn gọi linh mục và
những gương mù giới tính đã xảy ra tại nhiều nước Bắc Mỹ và Âu Châu. [4]
Dù vậy, qua Sắc lệnh Chức vụ và Đời sống
linh mục của Công đồng Vatican II, Giáo Hội vẫn duy trì truyền thống không
thay đổi, nhưng nhấn mạnh đặc biệt đến mối liên hệ chặt chẽ giữa độc thân khiết
tịnh và đức ái mục tử vì Nước Trời [5] của chức linh mục thừa tác của linh mục.
Đức Phaolô VI trong Sacerdotalis Coelibatus
khẳng định: “Luật độc thân thánh, mà Giáo Hội canh giữ từ nhiều thế kỷ nay
như một viên ngọc quý rạng ngời, bảo tồn toàn bộ giá trị của nó cả ở thời đại
chúng ta vốn tiêu biểu bằng một sự biến đổi sâu xa các não trạng và các cơ cấu.”
[6]
THĐGM 1971 khẳng định sự cần thiết phải duy
trì luật độc thân linh mục trong Giáo Hội Latinh, với việc giải thích nền tảng,
các động cơ và điều kiện ủng hộ nó mà linh mục thi hành với Chúa Kitô và trong
Chúa Kitô. [7]
Bộ Giáo luật 1983 lặp lại: “Các Giáo sĩ
buộc phải giữ tiết dục hoàn toàn và vĩnh viễn vì Nước Trời, và vì thế phải tuân
giữ luật độc thân, ân sủng đặc biệt Thiên Chúa ban, nhờ đó các thừa tác viên
chức thánh có thể kết hiệp dễ dàng hơn với Đức Kitô bằng một tâm hồn không chia
sẻ, tự hiến trọn vẹn và tự do hơn cho việc phục vụ Chúa và con người.” [8]
Tông huấn hậu THĐGM Pastores Dabo Vobis
trình bày luật độc thân như một đòi hỏi căn bản trong toàn cảnh bốn chiều kích
đào tạo nhân bản, thiêng liêng, tri thức và mục vụ.
Sách Giáo lý Công giáo lặp lại: “Tất
cả các thừa tác viên được truyền chức linh mục trong Giáo Hội Latinh, ngoại trừ
các Phó Tế Vĩnh Viễn, được chọn một cách bình thường giữa các tín hữu đang sống
độc thân và có ý chí giữ luật độc thân vì Nước Trời” .
Trong cuộc họp với lãnh đạo các Bộ của Giáo
triều ngày 16.11.2008, ĐTC Biển Đức XVI đã tái khẳng định giá trị của chọn lựa
đời sống độc thân của các Linh mục, hợp với truyền thống Công Giáo chưa bị gián
đoạn và lập lại đòi buộc phải có một đào tạo nhân bản và Kitô giáo vững vàng,
cho cả các chủng sinh lẫn các Linh mục đã chịu chức.
Chỉ Nam cho thừa tác vụ và đời sống linh
mục năm 1994 của Bộ Giáo sĩ khẳng định: “Xác tín vào những động cơ thần
học và mục vụ sâu xa làm cơ sở cho mối tương quan giữa sự độc thân và chức linh
mục, được soi sáng bằng chứng tá còn giá trị ngày hôm nay của rất nhiều cuộc
đời linh mục vững mạnh về mặt thiêng liêng và Phúc Âm, mặc dầu xảy ra nhiều
trường hợp đau thương, Giáo Hội đã tái xác nhận, qua Công đồng Vatican II và
giáo huấn của các Giáo hoàng về sau, ‘ý muốn mãnh liệt duy trì luật đòi buộc
tình trạng độc thân vĩnh viễn tự do chọn lựa cho các ứng viên linh mục theo
nghi lễ Latinh’ [9], xác tín rằng đó là ân huệ mang lại thiện ích cho Giáo Hội
và thế giới.” [10]
Và mới đây nhất, trong bài diễn văn khai
mạc Công Nghị Giáo Phận Rôma ngày 26/5/2009 “Mọi thành viên Giáo Hội và
sự đồng trách nhiệm mục vụ” , ĐTC Biển Đức XVI khẳng định “không hề
có gián đoạn hay đối lập giữa Giáo Hội trước và Giáo Hội sau Công đồng Vatican
II.” [11]
2. Truyền thống không gián đoạn của Giáo
Hội về ý nghĩa và bản chất của bậc độc thân linh mục
Đặc sủng sống độc thân thánh hiến giả thiết
linh mục phải có một dấn thân dứt khoát dõi theo một đời sống tự chủ bản thân
và khiết tịnh. Từ thời các tông đồ, Giáo Hội đã muốn bảo tồn ơn tiết dục vĩnh
viễn của giáo sĩ và hướng về giải pháp chọn ứng viên chức thánh nơi những người
độc thân (x. 2 Th 2,15; 1 Cor 7,5; Tt 1,6-8). [12] Sự dấn thân được lựa chọn
cách tự do và quảng đại là lời đáp trả hồng ân quảng đại của Thiên Chúa. [13]
Vậy độc thân linh mục được ghi tạc ngay tại nội tâm của một tương quan đối
thoại liên lỉ giữa Thiên Chúa và mỗi linh mục.
Qua việc cho đi chính đời sống mình được
diễn tả bằng cách chọn đời sống độc thân, linh mục càng ngày càng sống cho
Thiên Chúa và tha nhân hơn, qua sự lột bỏ liên lỉ, một sự “tự hủy” (Ph 2,7),
làm cho mình “nhỏ bé đi để cho Chúa lớn lên” (Ga 3,30) và góp phần vào
sự tăng trưởng của Giáo Hội và của từng người trong anh chị em mình.
Độc thân linh mục không thể tách rời khỏi
toàn bộ đời sống kitô “không còn là tôi sống, nhưng chính Đức Kitô sống
trong tôi” (Gal 2,19-20), trong đó linh mục cố gắng nên đồng hình dạng với
Chúa Kitô Mục Tử “ban sự sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). Chính
trong khung cảnh đó mà sự tự do của linh mục không ngừng được củng cố trưởng
thành bản thân sẵn sàng phục vụ Thiên Chúa qua việc phục vụ dân Ngài. Vị linh
mục chấp nhận tình trạng sống ấy sẽ gặp được kho báu hàm chứa việc “mang
trong thân xác sự chết của Chúa Giêsu, để sự sống của Ngài cũng được bày tỏ
trong thân xác mình” (2 Co 4,10), hầu học biết ban phát sự sống mình cho
đoàn dân được trao phó cho mình, nhờ đó được thúc đẩy loan báo Tin Mừng “lúc
thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện” (2 Tim 4,2).
Mỗi thời đại diễn tả đức tin và thực hành
của Giáo Hội trong trạng huống văn hóa riêng của mình, tùy theo mức độ được đâm
rễ chắc chắn trong Truyền Thống mà chúng ta sống nhờ đó. Giáo huấn của Giáo Hội
cung cấp cho chúng ta những căn bản cần thiết để suy nghĩ và định hình lời trả
đáp của chúng ta đối với hồng ân của Thiên Chúa trong bậc độc thân thánh hiến.
Cuộc sống độc thân khiết tịnh tự bản chất
là liên hệ, liên hệ với Thiên Chúa, liên hệ với con người và thế giới. Nó định
phẩm cho căn tính của linh mục là một con người của liên hệ. Nó tăng cường
những liên hệ của linh mục với Giám Mục và với linh mục đoàn của giáo phận
mình. Nó mời gọi linh mục nhận rõ sự bổ túc của mình với các bậc sống khác và
những mối liên hệ mình phải duy trì với họ. Nó cũng cho phép linh mục thiết lập
các liên hệ nhân bản, kể cả các liên hệ bạn hữu chân chính với người nam lẫn
người nữ.
Chúng ta lưu ý những điểm giáo huấn nổi bật
này của Giáo Hội[14]:
Sống độc thân thánh hiến là một cách thức
yêu mến và hiện hữu với tha nhân. Nó khai mở một cuộc sống không tự đóng kín
nơi chính mình, nhưng khai sáng những liên hệ và đời sống cộng đồng, tôn trọng
phẩm giá những người mình gặp gỡ, kêu gọi mọi người cùng nhau tìm kiếm sự thánh
thiện và làm cho Nước Chúa ngự đến.
Sống độc thân khiết tịnh hệ tại sự dấn thân
tất cả cuộc đời: Nhờ bí tích Truyền Chức, lời hứa sống độc thân thánh hiến đâm
rễ sâu xa vào chính thực thể của linh mục và phải được nhắc lại trong suốt
chiều dài của đời sống linh mục, đặc biệt trong ngày lễ Truyền Dầu.
Đời sống độc thân thánh hiến của linh mục
tìm được tất cả ý nghĩa của nó trong liên hệ với các lời khấn khác, được diễn
tả ra hay hiểu ngầm trong các nghi thức truyền chức. Nó mang dấu ấn của một
cuộc sống giản dị và hướng tới một đời sống cầu nguyện chuyên cần, vì đây là
một hồng ân phải nhận lãnh và làm mới lại không ngừng, khuôn mình cách mật
thiết với những mầu nhiệm mà linh mục cử hành.
Đời sống độc thân thánh hiến giả thiết một
khổ hạnh, dù ngày nay ít được nhấn mạnh, nhưng vẫn là thiết yếu. Sự thận trọng,
dè dặt, tỉnh thức, từ bỏ, chấp nhận mọi thánh giá trong suốt cả đời sống, và
những yếu tố khác cùng loại, làm thành bấy nhiêu phương diện của một quan niệm
toàn vẹn về cuộc sống độc thân khiết tịnh. [15]
Chọn lựa sống độc thân thánh hiến là trao
hiến đời sống mình để nhắm tới một sự phong phú đặc biệt. [16] Linh mục đã chọn
sống độc thân thánh hiến phải có một quan niệm lành mạnh về tình phụ tử và danh
hiệu “cha” mà những người được trao phó thường gọi mình. Đời sống của ngài phải
hoàn toàn quy hướng về sự tăng trưởng của họ trong đức tin, đức cậy và đức mến.
Thánh Kinh cung cấp rất nhiều phương sách
để suy tư và cầu nguyện, hầu hiểu được căn bản Phúc âm của bậc độc thân thánh
hiến: kỷ luật của Giáo Hội Roma không chỉ thuộc về sự gắn bó với truyền thống
lâu đời không hề xa lạ với Thánh Kinh, mà còn mặc lấy một hình thức bắt buộc,
cho dù một hình thức như vậy không được đặt định trong Tân Ước. Nhưng bằng
nhiều cách, Tân Ước vẫn làm vang lên lời mời gọi vào bậc độc thân thánh hiến.
Đời sống độc thân hiến thánh của linh mục
cũng phải tựa trên nền tảng thần học nghiêm chỉnh và sâu xa, cho phép chủng
sinh và linh mục hiểu rõ ý nghĩa Kitô học, Giáo hội học, Thánh Kinh học, ý
nghĩa hôn ước và tông đồ của bậc sống họ, cả trong thời gian đào tạo khởi đầu
cũng như trong thời gian thi hành sứ vụ và thường huấn, đào sâu tính “thích hợp”
của bậc độc thân với chức vụ linh mục mà sắc lệnh Chức vụ và đời sống linh
mục nói đến.
Ngoài ra còn phải lưu ý đến tầm quan trọng
của cộng đồng giáo dục như là yếu tố căn bản của việc đào tạo khởi đầu về đời
sống độc thân thánh hiến, nhờ sự phân định và quân bình giữa những thời gian
trao đổi và những thời gian trầm mặc, những chia sẻ giữa chủng sinh và nhà đào
tạo. Nhưng đừng quên vai trò của các cộng đồng khác, là những cộng đồng tự
nhiên như gia đình, hoặc cộng đồng Giáo hội như các xứ đạo.
Nhưng bậc độc thân thánh hiến phải là một
chọn lựa tự do dấn thân được Giáo Hội chuẩn nhận, chứ không phải là một gánh
nặng áp đặt từ bên ngoài. Và như thế, kỷ luật độc thân trở nên như một sự che
chở bảo vệ và một gánh nhẹ nhàng cho linh mục.[17]
3. Truyền thống không gián đoạn của Giáo
Hội về mối hiệp thông phẩm trật
Toàn thể Giáo Hội thông phần vào chức tư tế
cộng đồng của Chúa Giêsu trong Chúa Thánh Thần. Hiệp thông với Chúa Kitô như là
đầu của thân thể, chức tư tế thừa tác được trao ban cho các tông đồ trước tiên,
tiếp đến được hiện hữu nơi các người kế vị là các Giám mục, rồi qua việc đặt
tay truyền chức, các Giám mục thông truyền cho linh mục một phần chức linh mục
trọn vẹn của mình.[18]
Sắc lệnh Chức Vụ và Đới Sống Linh Mục viết:
“Chúa Kitô đã sai các tông đồ như chính Người được Chúa Cha sai, và qua các
tông đồ, Người đã làm cho các đấng kế vị là các giám mục cũng được tham dự việc
thánh hiến và sứ vụ của chính mình Người. Tác vụ này của giám mục cũng được
trao cho linh mục ở cấp độ tùy thuộc, để một khi đã gia nhập hàng linh mục, họ
là những cộng sự viên của hàng giám mục, chu toàn một cách tốt đẹp sứ vụ tông
đồ do Chúa Kitô trao phó.” [19]
Như thế, nhờ việc thánh hiến, linh mục được
trao ban quyền bính thiêng liêng, thông phần vào quyền bính mà Chúa Kitô điều
khiển Giáo Hội nhờ Chúa Thánh Thần, nghĩa là linh mục được thông hiệp cách
riêng biệt và đặc thù với Thiên Chúa Ba Ngôi. Quả thế, bản chất và sứ vụ linh
mục không thể được xác định nếu không có những tương quan bắt nguồn từ Chúa Ba
Ngôi, được kéo dài trong sự hiệp thông của Hội Thánh và của toàn thể nhân loại.
[20]
Đời sống và sứ vụ của linh mục là sự tiếp
nối đời sống và sứ vụ của Chúa Kitô. Căn tính linh mục liên quan thiết yếu với
tình thương cứu độ của Chúa Cha, với sự tuyển chọn và kêu gọi đích danh của
Chúa Kitô, và với ân huệ thông ban sự sống của Chúa Thánh Thần, nhờ đó linh mục
tìm được sức mạnh hướng dẫn cộng đoàn đã được trao phó cho mình và gìn giữ cộng
đoàn ấy trong sự hiệp nhất như Chúa muốn. [21]
Là thành phần tư tế thừa tác của Giáo Hội,
Thân Thể và Hiền Thê của Chúa Kitô, Giám mục tham dự vào hôn ước của Chúa Kitô,
được biểu thị qua nghi thức trao nhẫn trong lễ tấn phong Giám mục [22]. Cũng
thế, được thông phần vào chức tư tế duy nhất của Chúa Kitô ở cấp độ thấp, linh
mục cũng thông phần một cách nào đó vào chiều kích hôn ước đối với Giáo Hội,
nên phải hết lòng yêu mến Giáo Hội bằng cách cống hiến mọi năng lực và tự hiến
trong đức ái mục tử đến độ hy sinh chính cuộc sống mình mỗi ngày cho đoàn chiên
được trao phó. [23]
Do bí tích truyền chức và thừa tác vụ lãnh
nhận, linh mục liên kết và hiệp thông phẩm trật với Giám mục đoàn phục vụ toàn
thể Giáo Hội, nên chức linh mục cũng có tính cách phổ quát, và dù nhập tịch ở
một Giáo Hội địa phương, linh mục phải có con tim và não trạng thừa sai, luôn
rộng mở cho mọi như cầu của Giáo Hội và thế giới. [24]
Linh mục phải luôn sống trong sự hiệp thông
phẩm trật này: “Không có thừa tác vụ linh mục ở ngoài sự hiệp thông với Đức
Giáo Hoàng và Giám mục đoàn, đặc biệt với Giám mục giáo phận, trong lòng tôn
kính như con thảo và sự tuân phục đã hứa khi thụ phong.” [25] Sự hiệp thông
được diễn tả và củng cố qua cử hành Thánh Thể, nhất là thánh lễ đồng tế do Giám
mục chủ sự với linh mục đoàn; cũng như qua sự hiệp nhất phẩm trật trong việc
thi hành thừa tác vụ mục vụ: [26] Linh mục không làm gì mà không có Giám mục,
nhưng ngày nay nhấn mạnh nhiều về nguyên lý bổ trợ (subsidiary principle). [27]
Mối hiệp thông của linh mục đoàn được thiết
lập bởi đức ái tông đồ, thừa tác vụ và tình huynh đệ bí tích, diễn tả bằng việc
đặt tay của linh mục đoàn trong nghi lễ truyền chức và việc nhập tịch/nhập vụ
vào một Giáo hội địa phương. [28]
Linh mục còn sống hiệp thông với giáo dân,
tu sĩ, những người sống đời thánh hiến, nỗ lực khơi dậy và phát triển sự đồng
trách nhiệm trong cùng một sứ mạng cứu độ duy nhất của Giáo Hội. [29] Ngoài ra
còn cố gắng tiếp tay với Chúa Thánh Thần để khơi dậy ơn gọi linh mục tiếp nối
thừa tác vụ của mình. [30]
Giáo Hội là một cộng đoàn gồm những con
người hiệp thông với Chúa Ba Ngôi và hiệp thông với nhau. Sự hiệp thông này
mang hai chiều kích: hiệp thông hướng nội và hiệp thông hướng ngoại. Hiệp thông
hướng nội bao hàm sự hiệp nhất và bổ sung cho nhau ngay trong lòng Giáo Hội với
ĐTC, với các Giám mục, các linh mục, những người sống đời thánh hiến và giáo
dân để trở thành “Giáo Hội tham gia” , nghĩa là mọi người đều đảm nhận
ơn gọi và vai trò riêng của mình trong lòng Giáo Hội. Hiệp thông hướng ngoại là
sự hiệp thông của Giáo Hội với thế giới, với mọi người thuộc mọi tôn giáo và
văn hóa khác nhau.
Công cuộc đào tạo phải trang bị cho các
linh mục tương lai một ý thức hiệp thông nhạy bén sâu sắc và một kinh nghiệm cá
nhân sống động về việc xây dựng cộng đoàn, để họ biết cách hiệp thông với Giám
mục, với Bề trên, với anh em linh mục đoàn, với các tu sĩ, với các cộng sự
viên, với giáo dân trong giáo xứ, cả với những người thuộc các tôn giáo và văn
hóa khác, hầu sống và làm việc trong hòa điệu và yêu thương, sẵn sàng đảm nhận
những trách nhiệm và vai trò khác nhau trong cộng đoàn.
II. TIẾN TRÌNH CÁC GIAI ĐOẠN LIÊN TỤC
ĐÀO TẠO LINH MỤC
Tiến trình đào tạo linh mục qua các giai
đoạn liên tục nhằm sự đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, cho cả ứng sinh lẫn
nhà đào tạo.
Trước hết nhà đào tạo phải theo mẫu gương
của Chúa Giêsu. Ngài đã sống với các môn đệ liên tục không gián đoạn trong ba
năm cuộc đời công khai cho đến khi chết trên thập giá. Ngài đã đồng hành cùng
họ với tình yêu bao dung, nhẫn nại và săn sóc ân cần để họ được lớn lên trong
đức tin và trưởng thành, thiêng liêng lẫn nhân bản. Ngài biết rõ mỗi người,
những cá tính, những điểm mạnh và những điểm yếu của họ. Ngài nhẫn nhục chịu
đựng những khuyết điểm, những bất toàn, những tham vọng trần tục, những bướng
bỉnh, thiếu lòng tin và chậm hiểu các mầu nhiệm Nước Trời; và Ngài kiên trì chờ
đợi Thánh Thần đến kiện toàn công cuộc đào tạo họ: “Thầy còn nhiều điều để
nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không thể hiểu. Khi Thần Chân Lý đến,
Người sẽ hướng dẫn anh em biết tất cả sự thật” (Ga 16,12-13). Chúa Giêsu
cũng hằng cầu xin Chúa Cha giữ gìn bảo vệ các môn đệ: “Con không xin Cha cất
họ ra khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi tay ác thần” (Ga 17,15).
Các giai đoạn đào tạo tuy khác nhau nhưng
phải có sự liên tục tiệm tiến và tổng thể, ăn khớp mắt xích với nhau trong
chiều hướng canh tân tìm kiếm một phương thức thể hiện mới để Giáo Hội hiện
diện hữu hiệu trong hoạt động dưỡng giáo lẫn truyền giáo. Phương thức này đòi
hỏi canh tân các giá trị, các tâm thức, các quan điểm, các mối quan hệ, cách
suy nghĩ và hành động, lối sống và cách thi hành sứ vụ, nghĩa là một cuộc canh
tân sâu sắc và toàn diện trong Giáo Hội.
Để thực hiện trọng trách dưỡng giáo và
truyền giáo của mình trong thời đại mới, linh mục hôm nay phải được đào tạo
hiệp thông với truyền thống không gián đoạn của Giáo Hội, được coi như một
đòi hỏi bức thiết của thời buổi hiện nay. Công cuộc đào tạo này là trách
nhiệm của mọi thành phần Dân Chúa, và được Giáo Hội ủy thác cách riêng cho các
nhà đào tạo, từ giai đoạn Tiền Chủng viện, qua giai đoạn đào tạo khởi đầu trong
Chủng viện, đến giai đoạn đào tạo thường xuyên diễn ra trong suốt cả cuộc đời
mỗi linh mục, với những hình thức rất đa dạng và thích hợp cho từng hoàn cảnh
và độ tuổi.
Việc đào tạo ngày nay được thực hiện với
nhiều người và cho nhiều người, nhưng phải chú trọng đến sự hợp tác của từng cá
nhân với từng hoàn cảnh cá biệt, nghĩa là phải được cá nhân hóa và nội tâm hóa,
tức vừa được đào tạo vừa tự đào tạo, trong một tổng thể liên tục qua ba giai
đoạn đào tạo và tự đào tạo tiền chủng viện, chủng viện và hậu chủng viện. [31]
1. Giai đoạn đào tạo tiền chủng viện
Người có trách nhiệm trước nhất và cao nhất
trong việc tuyển chọn và đào tạo linh mục là Giám Mục giáo phận. Nhưng đây cũng
là trách nhiệm của mọi thành phần Dân Chúa, giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân, đặc
biệt là các cha xứ (GL 233,1). Nhưng trong chiều kích “Giáo Hội tham gia”, Giám
mục giáo phận ủy nhiệm cho một số nhà đào tạo đã được chuẩn bị kỷ lưỡng cộng
tác với Ngài để đồng hành với các ứng sinh, tiệm tiến thẩm tra và giúp ứng sinh
biện phân ý Chúa và thực thi ý Chúa, bảo đảm cho ứng sinh là anh được Thiên
Chúa kêu gọi, mời gọi anh tham gia vào việc đào tạo chính anh bằng việc tự đào
tạo chính mình, và sau cùng, chính việc Giám Mục gọi ứng sinh lên chịu chức
linh mục xác nhận ơn gọi đích thực của Chúa đối với anh.
Bộ Giáo dục Công giáo yêu cầu “trong
giai đoạn chuẩn bị gia nhập chủng viện, cần lưu tâm trước nhất việc đào tạo
thiêng liêng.” [32] Đào tạo toàn diện đòi hỏi ứng sinh phải có trưởng thành
nhân cách, tri thức và thiêng liêng. Giai đoạn chuẩn bị này nên làm ở một nơi
thích hợp ngoài chủng viện để đón nhận, nuôi dưỡng và vun trồng các ơn gọi,
nhận định, đánh giá và tuyển chọn ứng sinh, căn cứ vào đời sống cầu nguyện,
thực hành đức tin, sự phát triển nhân cách với các nhân đức như thành thật,
trung tín, can đảm và trách nhiệm, trình độ văn hóa và khả năng tri thức, vì
nếu lúc nào cũng phải đối phó với việc học thì việc đào tạo thiêng liêng và
toàn diện sẽ bị giới hạn và không hiệu quả, [33] phải quan tâm đến thái độ của
ứng sinh đối với giới tính và khả năng sống độc thân thánh hiến, [34] đồng thời
phải xem ứng sinh có ngăn trở Giáo luật nào không (x. GL 1024-1052).
Ứng sinh cũng cần có một cam kết khởi đầu về
ý ngay lành và tính trung thực của việc theo đuổi ơn gọi, liên quan đến bối
cảnh gia đình “xét như chủng viện đầu tiên,” [35] những điều kiện bên
ngoài, những điều kiện tự nhiên và những điều kiện thiêng liêng. Ứng sinh cũng
được yêu cầu trải qua một cuộc kiểm tra sức khỏe tổng quát và trắc nghiệm tâm
lý; lãnh vực đời sống tình cảm cũng cần được khảo sát và chữa lành hầu đạt được
sự ổn định cần thiết cho đời sống linh mục mai ngày; những gánh nặng nội tâm
cần được tháo gỡ và giải quyết nhờ sự trợ giúp của vị linh hướng (GL 220;
239,2; 240,2; 246,4). [36]
Tóm lại, việc chuẩn bị các ứng sinh thích
hợp là nhiệm vụ hàng đầu của cộng đoàn Giáo phận, mà trên hết là của Giám Mục
Bản Quyền và những người Ngài tin tưởng ủy thác cho công cuộc tối quan trọng
này. Sự chuẩn bị nhắm đến việc tiếp nhận các ứng sinh vào chủng viện, qua việc
phân định, nhận xét, đánh giá, tuyển chọn và khai tâm họ đi vào sự cam kết khởi
đầu tiến trình tự biến đổi và cam kết với sứ vụ (GL 241). Việc đào tạo ở chủng
viện tùy thuộc vào phẩm chất của các ứng sinh đã được nhận vào.
2. Giai đoạn đào tạo khởi đầu ở chủng
viện
Có thể nói đây là giai đoạn đào tạo ứng
sinh trở thành linh mục, nói cách khác là giai đoạn ứng sinh học làm
linh mục. Đây là giai đoạn đào tạo và tự đào tạo toàn diện với bốn chiều
kích nhân bản, thiêng liêng, tri thức và mục vụ, diễn ra trong một chu kỳ 8
năm:
- Một năm Tu đức
- Hai năm Triết học
- Hai năm Thần Học 1 & 2
- Năm Thực tập Mục vụ
- Hai năm Thần học 3 & 4
Việc đào tạo và tự đào tạo ở Chủng viện
nhằm đến con người toàn diện và làm cho người linh mục tương lai có thể đạt tới
sự trưởng thành nhân bản, trưởng thành trong đời sống kitô giáo và trưởng thành
trong đời sống linh mục. Vì thế, chủng sinh phải được đào luyện với một trình
độ và khả năng tri thức đầy đủ, nền tảng thần học kiên vững, tinh thần cầu
nguyện, tinh thần khổ chế, đức vâng lời đích thực và trưởng thành, tinh thần
sống giản dị theo Phúc âm và khiết tịnh vì Nước Trời.
Chủng sinh cũng phải học và thực hành những
nhân đức nhân bản và xã hội vốn được dân chúng ngưỡng vọng và đức ái đòi hỏi,
chẳng hạn: lòng thành thật, ý niệm về đức công bằng, trung thành giữ lời hứa,
lịch thiệp và tín cẩn, tinh thần phục vụ và dấn thân, khả năng làm việc chung,
có trách nhiệm, v.v…
Trong khi cố gắng trang bị kiến thức, ngày
nay phải nhấn mạnh hơn đến sự tương tác giữa việc đào tạo nhân bản và đào
tạo thiêng liêng. Việc đào tạo nhân bản cho ứng sinh được bắt đầu với sự
trợ giúp của gia đình và xứ đạo trước khi anh vào Chủng viện. Việc đào tạo nhân
bản không chỉ đem lại lợi ích cho ứng sinh trong thời gian học tại chủng viện
mà còn có một ảnh hưởng sâu xa đến sứ vụ tương lai của anh nữa. Nó tùy thuộc
phần lớn vào sự trưởng thành, sự quân bình tâm lý và sức mạnh ý chí của ứng
sinh. Vì thế, việc đào tạo nhân bản luôn phải hòa quyện với đào tạo thiêng
liêng. Những trách cứ mà người thời nay than phiền ở linh mục, nhất là các linh
mục trẻ, có nguyên nhân là sự thiếu cân đối trong việc đào tạo nhân bản, đào
tạo thiêng liêng và thiếu đời sống nội tâm siêu nhiên.
Chính vì thế, hầu hết các Đại Chủng Viện
điều chỉnh lại chương trình đào tạo, nâng đào tạo thiêng liêng lên tầm cao mới:
Môn Tu Đức được dạy trãi dài cho mọi lớp cho đến khi ra trường, chứ không phải
một hai năm khi mới vào Chủng viện như trước đây. Việc đào tạo thiêng liêng cho
các linh mục tương lai sẽ hữu hiệu và đáp ứng đúng lòng mong đợi của Hội Thánh
và thế giới, nếu nó được thực hiện trong viễn ảnh của Giáo Hội học của Công
Đồng Vatican II, của Truyền giáo, của Cộng tác với Giáo dân, của Truyền Thông
và Đối Thoại.
Trong tiến trình đào tạo này, việc linh
hướng chiếm một chỗ rất quan trọng (GL 240,2). Việc linh hướng nhằm giúp chủng
sinh kinh nghiệm về Chúa và sự hiện diện của Ngài, khám phá ra đường lối Chúa
kêu gọi và đáp lại với tự do nội tâm, dấn thân đi theo và sống tương quan thân
mật với Chúa, nhận rõ trách nhiệm của mình và phát triển nó dưới sự hướng dẫn
của Chúa Thánh Thần.
Cầu nguyện là yếu tố quan trọng nhất của
đời sống thiêng liêng, được nuôi dưỡng và thăng tiến nhờ sự thinh lặng bên
trong cũng như bên ngoài, nhờ Lời Chúa và Thánh Thể. Các chủng sinh được khích
lệ áp dụng những cách cầu nguyện theo kiểu Á Châu, chẳng hạn như cầu nguyện tập
trung và cầu nguyện thân thể. Tập cho họ chủ tọa và hướng dẫn các buổi cầu
nguyện chung của cộng đoàn chủng viện là cách tốt nhất để họ trở thành người
hướng dẫn cầu nguyện cho đoàn chiên tương lai.
Đời sống cầu nguyện và đời sống nội tâm làm
phong phú và nuôi dưỡng đời sống và sứ vụ linh mục. Do đó, các ứng sinh không
chỉ học triết học, thần học, các khoa học xã hội và nhân văn, nhưng họ cũng cần
được các nhà đào tạo giúp biết cầu nguyện và chiêm ngắm ở trong và qua các đòi
hỏi kiến thức hàn lâm này.
Tương tác giữa toà trong và toà ngoài bảo
đảm tự do nội tâm cho chủng sinh. Trong việc đào tạo thiêng liêng, một công
việc vừa nhân loại vừa thần linh, Chúa Thánh Thần luôn giữ vai trò cốt yếu và
Đức Giêsu Nadarét là mẫu gương tối cao của mọi nhà đào tạo, vốn là những dụng
cụ trong bàn tay Thiên Chúa. Các tác nhân đào tạo khác là hội đồng chủng viện,
cộng đoàn giáo dục, môi trường thực tập mục vụ, và nhóm nhỏ các bạn đồng môn.
Nhưng tác nhân không thể thay thế được là chính chủng sinh, vì nếu không có tự
đào tạo thì việc đào tạo sẽ mất hết hiệu quả mong đợi của nó. Việc lượng giá
của chủng viện và tự đánh giá của ứng sinh là bắt buộc và phải đi đôi với nhau
trong suốt tiến trình đào tạo và tự đào tạo, đặc biệt là trong thời gian giới
thiệu ứng sinh lên chịu chức linh mục.
3. Môi trường thực tập mục vụ và việc
đào tạo ứng sinh linh mục
Môi trường thực tập mục vụ là cần thiết và lý
tưởng để mở rộng việc tự đào tạo của chủng sinh, cũng như việc đào tạo linh mục
của Hội Thánh. Trong suốt thời gian này, chủng sinh tham gia vào đời sống và sứ
vụ của các linh mục, được bao nhiêu tốt bấy nhiêu.
Các cha xứ có cơ hội để biết, làm việc với
các chủng sinh và trở nên một phần trong việc đào tạo chủng sinh, mà một ngày
kia họ sẽ hội nhập với các ngài trong sứ vụ linh mục. Vai trò và sự đóng góp
của cha xứ rất quan trọng trong việc đào tạo ứng sinh. Môi trường thực tập mục
vụ này sẽ cung ứng cho chủng sinh nhiều cơ hội thuận lợi để anh:
• được kinh nghiệm và tham dự vào
sứ vụ giáo xứ;
• phát triển đời sống cầu nguyện
của anh ngay trong bối cảnh đời sống giáo xứ, vì đó sẽ là cuộc sống thực sự của
anh sau này;
• học hỏi với cha xứ mà anh đang sống
với ngài như người tập sự;
• được làm quen với nhiều giáo xứ
khác nhau trong Giáo phận;
• đem những gì đã học trong chủng
viện vào hành động, trong những hoàn cảnh thực tế;
• kinh nghiệm được cuộc sống nhà
xứ.
• Sự hiện diện hữu hình của các
chủng sinh ở trong giáo xứ sẽ thăng tiến việc phát triển các ơn gọi;
• Qua việc phục vụ và cộng tác
với giáo dân, chủng sinh có thể học được nơi họ rất nhiều điều, là một chuẩn bị
tuyệt vời cho sứ vụ của anh sau này.”
4. Giai đoạn đào tạo thường xuyên (hậu
chủng viện)
a. Yêu sách của Huấn quyền về đào tạo
thường xuyên
Các thẩm quyền Giáo Hội rất đặt nặng việc
đào tạo và tự đào tạo thường xuyên này, chẳng hạn:
Sứ Vụ và Đời sống Linh Mục dành trọn
chương III, số 69-92, để nói về việc đào tạo thường xuyên này như “một bổn
phận và quyền lợi chính đáng của linh mục…. và của Hội Thánh” , phù hợp với
“mục đích cơ bản của sự trưởng thành trong đời sống thiêng liêng,” [37]
mà “không ai có thể thay thế được linh mục trong việc canh chừng chính mình”
(x. 1 Tm 4, 16). [38]
Trong khi đó Tông Huấn Pastores Dabo Vobis
cũng dành trọn chương VI, số 70-82, để nói về việc đào tạo thường xuyên này của
linh mục, như “sự tiếp tục tự nhiên và tuyệt đối cần thiết của tiến trình
xây dựng nhân cách của linh mục, vốn đã được khởi sự và phát triển từ trong
chủng viện.” [39]
Còn Optatam Totius khuyến cáo rằng “việc
đào tạo linh mục, nhất là trong bối cảnh của xã hội hiện đại, cần phải được
tiếp tục và hoàn thiện hoá sau khi đã hoàn tất chương trình đào tạo trong chủng
viện.” [40]
Ngoài ra, Ratio Fundamentalis Institutionis
Sacerdotalis số 100-101 mô tả việc đào tạo hậu chủng viện, “cách riêng trong
những năm đầu tiên sau khi chịu chức …. để các linh mục mới ra trường có thể
được trang bị tốt hơn, ngõ hầu họ có thể gánh vác và hoàn thiện các bổn phận
của người tông đồ. [41]
Và Tông Huấn Ecclesia in Asia mở ra
một hướng rộng lớn: “Để phục vụ Hội Thánh như ý Đức Kitô, các Giám mục và
linh mục cần một đào tạo chắc chắn và thường xuyên, có thể cung ứng những cơ
hội khả dĩ cho một cuộc canh tân thiêng liêng và mục vụ” [42]
Liên Hội Đồng Giám Mục Á Châu đã thực hiện
lời khuyên này sớm nhất, qua cuộc hội thảo số 5 mang tựa đề “đào tạo tiếp
tục cho các linh mục Á Châu.” [43]
Chỉ Nam Cho Thừa tác vụ và Đời sống linh
mục 1994 của Bộ Giáo sĩ dành cả chương III để bàn về việc huấn luyện thường
xuyên các linh mục, trong mọi phương diện tuổi tác, khả năng, hoàn cảnh sống và
phận vụ mục vụ. [44]
b. Những năm đầu đời linh mục
Đây là giai đoạn cho người mới chịu chức
linh mục dần dần đi vào đời sống linh mục thực sự, hay nói cách khác là sống
linh mục: Càng sống đời linh mục càng trở nên linh mục hơn.
Việc chịu chức linh mục khép lại giai đoạn
được đào tạo và tự đào tạo ở chủng viện, nhưng lại mở ra một giai đoạn mới,
giai đoạn đào tạo và tự đào tạo thường xuyên kéo dài suốt đời của linh mục: “Việc
huấn luyện không bao giờ được xem như chấm dứt, cả về phía Giáo Hội trao ban
lẫn về phía thừa tác viên nhận lãnh.” [45] Các linh mục trẻ tự trắc nghiệm
mình giữa cái học có tính cách lý thuyết hàn lâm và sự thực hành trong các thực
tại của đời sống sứ vụ của họ. [46]
Giai đoạn đào tạo và tự đào tạo này nhằm
mục đích giúp các linh mục trẻ chu toàn cách trung thành và vui tươi sứ vụ của
họ trong những hoàn cảnh khác nhau, chấp nhận và vượt thắng những chiến đấu và
cám dỗ cả bên trong lẫn bên ngoài.
Những mối tương quan tốt lành, hài hoà,
quân bình và trưởng thành được điều chỉnh và thăng tiến mỗi ngày, với chính
mình, với thiên nhiên, với tha nhân, nhất là với những người khác phái, là
những phương tiện nhân loại. Tương quan thân mật với Thiên Chúa, sự trung thành
với cam kết của mình khi chịu chức, với đời sống cầu nguyện và với sứ vụ, lòng
tôn sùng kiên trì và nhiệt thành với Chúa Giêsu Thánh Thể, Thánh giá và Mẹ
Maria là những phương tiện siêu nhiên. Những phương tiện tự nhiên và siêu nhiên
này sẽ thực sự bảo đảm cho sự thành công và lòng trung thành của họ.
Các linh mục trẻ sẽ thi hành sứ vụ trong
một thế giới đang thay đổi của nền văn minh khoa học kỹ thuật, của chủ nghĩa
tục hoá và hưởng thụ, của thần học giải phóng, của việc đề cao phẩm giá phụ nữ.
Vì thế, việc đào tạo và tự đào tạo thường xuyên phải được nhấn mạnh và thực
hành nhiều hơn; nó sẽ giúp họ được trưởng thành trong suy nghĩ, trong việc tự
mình quyết định và hành động, cũng như trong mọi lãnh vực đời sống. Họ cũng
phải làm việc trong sự hợp tác với mọi người trong Giáo Hội cũng như ngoài xã
hội. Vì thế, họ cần được đào tạo thích hợp và phải tự mình điều chỉnh và thăng
tiến các mối tương quan hài hoà, quân bình và trưởng thành với Thiên Chúa, với
chính mình, với thiên nhiên và với người khác, nam cũng như nữ, giáo dân hay tu
sĩ.
Do đó, “việc huấn luyện này phải bao gồm
và hòa hợp mọi khía cạnh, nghĩa là nó phải nhằm giúp linh mục phát triển nhân
cách con người đã chín mùi trong tinh thần phục vụ kẻ khác, dầu đang nắm chức
vụ gì; giúp linh mục được đào tạo về mặt trí thức, cả trong các khoa học tự
nhiên lẫn trong các khoa học nhân văn, trong mức độ liên quan đến thừa tác vụ
của mình, ngõ hầu linh mục chu toàn phận vụ làm chứng đức tin một cách hữu hiệu
hơn; giúp linh mục có được một đời sống thiêng liêng sâu xa, được nuôi dưỡng
bằng tình thân mật với Đức Giêsu Kitô và bằng tình yêu Giáo Hội; giúp linh mục
chu toàn thừa tác vụ mục vụ với nhiệt tình và nhiệt tâm.” [47]
Các đề tài bàn luận như Thần học cơ bản,
Tín lý, Luân lý, Thánh Kinh, Phụng vụ, Giáo luật, Đại kết... không được mang
tính tranh luận, thuần túy lý thuyết hoặc thông tin, nhưng phải khuyến khích
một sự huấn luyện đích thực, nghĩa là khuyến khích cầu nguyện, hiệp thông và
làm việc mục vụ... liệu sao cho các văn kiện của huấn quyền được đào sâu chung
với nhau dưới sự hướng dẫn của một nhân vật có thẩm quyền, để đưa tới sự thống
nhất giải thích và thống nhất chương trình hành động mục vụ trong giáo phận.
[48]
c. Những năm về sau cao tuổi cuộc đời
linh mục
Các linh mục sau nhiều năm thi hành thừa
tác vụ cần được khuyến khích, đề cao giá trị vai trò và đào sâu hơn việc huấn
luyện mình trong mọi chiều kích để duyệt xét lại chính mình và công việc mình
làm, hầu làm sống dậy các động lực của thừa tác vụ thánh... Các vị nầy cần đến
sự hiệp thông linh mục và tình bạn của Giám mục để lướt thắng những kinh nghiệm
mệt mỏi, thất vọng, cô đơn... hầu tìm lại được những nguồn mạch sâu thẳm của
linh đạo linh mục. [49]
Các linh mục cao niên tìm “xác nhận lại một
cách thư thái và ôn hòa vai trò mà các ngài còn được mời gọi nắm giữ trong linh
mục đoàn... để tự thấy mình còn hữu dụng như làm cha giải tội kinh nghiệm, linh
hướng, chia sẻ kinh nghiệm, khích lệ, đón tiếp, lắng nghe và trấn tĩnh anh em
đồng sự. [50]
Các linh mục ở vào một hoàn cảnh suy yếu
thể lý hay mệt mỏi tinh thần, cô đơn, thất vọng cần được khích lệ tiếp tục phục
vụ Giáo Hội một cách bình thản và can trường, nêu chứng từ ghi dấu thánh giá,
cam chịu trong hy vọng và niềm vui Vượt Qua (x. Col 1,24). [51] Trách nhiệm của
Giám mục và linh mục đoàn là phải tránh sự cô đơn nảy sinh do sự chểnh mảng
tình hiệp thông linh mục đối với các anh em đó. [52]
Ước gì để việc cử hành Năm Linh Mục mang
lại hiệu quả lâu dài trong cả hai chiều kích dưỡng giáo và truyền giáo, trong
bối cảnh Giáo Hội Việt Nam tổ chức Năm Thánh Công Nghị 2010 kỷ niệm 50 thành
lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, Giáo phận Bùi Chu chúng ta có thể tiến đến tổ chức
một “Công nghị giáo phận”, noi gương ĐTC đã làm cho giáo phận Rôma của ngài
ngày 26-29/5/2009 với đề tài “Mọi thành viên Giáo Hội và sự đồng trách
nhiệm mục vụ” [53]
KẾT LUẬN
Cuối cùng, chúng ta hãy nhấn mạnh việc tôn
thờ bí tích Thánh Thể, trung tâm và chóp đỉnh của đời sống Giáo Hội, cũng là
trung tâm linh đạo của linh mục, cùng với việc tôn sùng Đức Trinh Nữ Maria
trong việc đào tạo và sống sứ vụ linh mục. Mẹ đã giáo hóa Chúa Giêsu Hài Đồng
và đã dẫn dắt Ngài đến tuổi trưởng thành nhân bản, thì hôm nay Mẹ cũng luôn
hiện diện trong việc đào tạo linh mục, khởi đầu và thường xuyên, đặc biệt trong
việc sống sứ vụ linh mục độc thân khiết tịnh.
Mẹ đã hiến dâng bản thân đồng trinh khiết
tịnh cho Chúa một cách đặc biệt. Sự hiến dâng của Mẹ không thể tách rời khỏi sứ
mệnh duy nhất của Mẹ trong lịch sử cứu độ là ban Con Mẹ cho thế giới. Mẹ hướng
chúng ta tới sự hiểu biết về bậc độc thân như là sự hiến dâng bản thân để mở
thế giới này ra cho Chúa Kitô ngự đến. Việc truyền chức hiến dâng linh mục cho
Chúa Kitô để họ được sai đi loan báo Phúc âm trong thế giới. Sự chọn lựa bậc
độc thân diễn ra trong định hướng đồng hình dạng với Chúa Kitô cả trong cách
sống riêng tư sâu kín nhất của Ngài. Do đó, dù không tuyệt đối phải liên kết
với chức vụ linh mục, bậc độc thân vẫn có một sự thích hợp đặc biệt với chức vụ
này, mà Mẹ là một trợ lực quý báu để đưa dẫn chúng ta trên đường bắt chước Con
Mẹ.
Để kết thúc phần trình bày này, con xin
mượn nhận định lạc quan, hy vọng và đầy an ủi của ĐHY Claudio Hummes, Tổng
Trưởng Bộ Giáo Sĩ: “một số rất nhỏ các linh mục thỉnh thoảng bị lôi vào
những vấn nạn nghiêm trọng và những tình huống tội phạm cần phải phân xử và ra
hình phạt, nhưng đa số áp đảo các linh mục là những người rất xứng đáng, toàn
tâm toàn ý cho thừa tác vụ linh mục, những người chuyên tâm cầu nguyện và làm
việc bác ái mục vụ, đặt cả cuộc đời vào việc thực hiện ơn gọi và sứ mệnh của họ”...”Trong
suốt Năm Linh Mục này (năm cầu nguyện của linh mục, với linh mục và cho linh
mục), Giáo Hội muốn nói trước hết với các linh mục, nhưng cũng cả với mọi kitô
hữu, với xã hội trần thế, qua các phương tiện truyền thông thế giới rằng Giáo
Hội hãnh diện biết bao về các linh mục của Giáo Hội; Giáo Hội yêu mến, tôn
kính, ngưỡng mộ họ dường nào và nhìn nhận với lòng tri ân công tác mục vụ của
họ và cuộc đời chứng nhân của họ.”
Con xin hết lòng cám ơn Đức Cha, Cha Chính,
Quí Cha Quản Hạt, Quý Cha Cố, Quý Cha và Quý Thầy đã chịu khó nghe con trình
bày. Nguyện xin Chúa Thánh Thần tiếp tục cho đến hoàn thánh tốt đẹp những gì
Ngài đã thương khởi sự với chúng ta và cho chúng ta hôm nay. Con xin mời cộng
đoàn thư giản một chút với slideshow BÀI HỌC QUÉT LÁ.
BÀI HỌC QUÉT LÁ
Thơ: Diệu Nhân - Nhạc: Võ Tá Hân – Ca
sĩ: Xuân Phú
Vâng lời Thầy, con đi quét lá, lá vàng rơi
lả tả khắp nơi. Lá khô rơi như kiếp một con người, giờ phút cuối là về cùng cát
bụi. Con vừa quét sạch một gốc cây, quay trở lại đã thấy đầy rơi rụng. Con hỏi
nếu như gió đừng rung động thì lá kia hẳn còn trên cành. Một kiếp người cũn
thế, quá mong manh, một hơi thở nếu đi rồi không đến nữa. Thầy đã cho con bài
học quét lá thâm sâu như một triết lý không cùng. Con ra về lòng luống những
bâng khuâng: Lá và con cũng trong vòng sinh diệt. Lá vừa sinh đã có mầm huỷ
diệt, con vừa sinh đã hẹn có ngày đi.
Suy tư: Có ai biết chốc lát nữa mình sẽ
chết mà còn ham hố những sự đời này, còn gieo rắc bất công hận thù, còn ghen
ghét tranh chấp hơn thua, mà không trái lại, an hòa với mọi người, tôn trọng
lương tâm kẻ khác, giao phó cho lòng nhân từ của Chúa lời phẩm bình cuối cùng
và sự xét đoán chung thẩm, nỗ lực chuẩn bị tâm hồn để ra đi trong bình an về
với Chúa?
Một làn gió có sức mạnh gì đâu, mà lá rơi
không thể nào cưỡng lại? Hơi thở con cũng giống như làn gió ấy, nếu không về
thì con sẽ đi đâu? Đã lâu rồi vẫn lặn hụp chìm sâu trong mê mải con đi tìm sự
nghiệp: Con vẫn mơ có một căn nhà rộng đẹp, con vẫn mơ con cái học thành tài.
Con vẫn mong, vẫn đợi một ngày mai lũ con cháu trở nên người thành đạt. Con vẫn
chưa có gì cho con hết làm hành trang khi cất bước lên đường. Tạ ơn Thầy đã cho
con chút tư lương, là bài học quét lá vàng rơi rụng. Lá và con cũng có cùng số
phận: đi về đâu do con chọn lấy con đường. Tạ ơn Thầy đã cho con chút tư lương,
là bài học quét lá vàng rơi rụng. Lá và con cũng có cùng số phận: đi về đâu do
con chọn lấy con đường. ĐI VỀ ĐÂU, DO CON CHỌN LẤY CON ĐƯỜNG!
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1. Người thời đại nghi ngờ đức khiết tịnh
và cho là không thể. Chúng ta cũng nhìn nhận những chiến đấu cam go của phận
người. ĐHY Carlo Maria Martini nói: “Mọi kitô hữu, mọi Giám mục, mọi linh
mục phải xác tín rằng không ai chắc chắn bền đỗ được; mối nguy lớn nhất là
tưởng rằng mình đã đạt đến một mức ổn định đến nỗi không cần thận trọng nữa.” [54]
Vậy chúng ta sử dụng các phương thế tự nhiên và siêu nhiên như thế nào để đứng
vững trong các mối quan hệ khác giới, kể cả với các nữ tu? [55]
2. ĐHY Hummes, Tổng trưởng Bộ Giáo sĩ viết:
“Cũng thật buồn là có một số linh mục đôi khi đã bị dính líu vào những vấn
đề nghiêm trọng và những hoàn cảnh phạm tội. Cần phải tiếp tục điều tra những
vấn đề này, xét xử họ và phạt họ như cần phải.” [56] Chúng ta cần lưu ý đặc
biệt tránh khỏi ba trường hợp tội với vạ tiền kết dành riêng cho ĐGH: Lỗi ấn
tòa giải tội, khuyến dâm trong tòa và giải tội cho đồng phạm (x. GL.1048; 220).
[57]
3. Chỉ Nam Linh Mục 1994 số 32 ghi: “Một
đòi hỏi không thể lẫn tránh của đức ái mục vụ là mỗi linh mục tiếp tay với ơn
Chúa Thánh Thần, quan tâm khơi dậy ít nhất một ơn gọi linh mục để có thể tiếp
nối thừa tác vụ của mình.” Chúng ta đang làm gì và sẽ làm gì để tích cực tham
gia vào công cuộc mở Đại Chủng viện Bùi Chu (GL 237,1; 242,2) và đào tạo các ơn
gọi linh mục Giáo phận cần, để ước nguyện và nỗ lực của Đức Cha sớm được thực
hiện?
4. Giáo Hội dạy rằng thường huấn là một
quyền lợi và bổn phận của anh em linh mục chúng ta. Vậy chúng ta sẽ có thể làm
gì để triển khai và phát huy quyền lợi và bổn phận đó giữa các độ tuổi của
chúng ta: nhóm linh mục trẻ, nhóm linh mục trung niên, nhóm linh mục cao tuổi,
nhóm linh mục già nghỉ hưu?
5. Thư Chủ tịch Bộ Giáo sĩ [58] viết: “(Năm
Linh Mục) còn phải là một năm trong đó người ta chú ý đến những hoàn cảnh cụ
thể và điều kiện vật chất mà các linh mục sống, đôi khi bị giảm thiểu thành
những hoàn cảnh nghèo nàn khó khăn.” Chúng ta có thể làm gì để nâng đỡ
nhau, nhất là khi ốm đau và hưu dưỡng? Phải chăng đã đến lúc thích hợp để nghĩ
đến một “Qũy tương trợ linh mục giáo phận Bùi Chu” chúng ta?
LM Micae-Phaolô Trần Minh Huy pss
Chú thích:
[1] Ga 17, 18-19.
[2] Trích thư của ĐHY Cláudio
Hummes, Bộ trưởng Bộ Giáo sĩ, Zenit.org ngày 23/5/2009.
[3] Trích thư của ĐHY Cláudio
Hummes, Bộ trưởng Bộ Giáo sĩ, Zenit.org ngày 23/5/2009.
[4] Các nước Á châu, và ngay cả tại
Việt Nam, không phải là không có đâu, nhưng không bị bạch hóa ồn ào vì tâm thức
dè dặt kín đáo và tế nhị của người mình thôi.
[5] Presbyterorum Ordinis, số 16.
[6] Sacerdotalis Coelibatus số
12.
[7] Pastores Dabo Vobis số 29.
[8] x. GL 277,1.
[9] PDV. 29; PO. 16; Sacerdotalis
Coelibatus 14; GL 277,1.
[10] Chỉ Nam 1994 số 57.
[11] Zenit.org ngày 26/5/2009.
[12] Sđd. số 59.
[13] Bộ GDCG, Đường hướng giáo
dục trong việc huấn luyện độc thân linh mục số 16.
[14] Hội Xuân Bích, Vì Nước Trời
– Những khái niệm suy tư về việc đào tạo bậc độc thân linh mục số 27.
[15] x. Bộ Giáo dục Công giáo,
Huấn luyện thiêng liêng trong các chủng viện II,3 “những khổ chế thiêng liêng”;
Jean-Jacques OLIER, “Con đường nên thánh là con đường thập giá”.
[16] 1 Co 4, 14-15 về tình phụ tử
của thánh Phaolô đối với các tín hữu.
[17] Chỉ Nam 1994 số 58.
[18] Pastores Dabo Vobis số 79.
[19] Presbyterorum Ordinis số 2.
[20] Pastores Dabo Vobis số 12.
[21] Chỉ Nam 1994 số 4-11; PO số
6
[22] Lumen Gentium số 28.
[23] Chỉ Nam 1994 số 13.
[24] Sđd. số 14-15.
[25] PDV. 28; LG. 28; PO 7,15; GL
245,2.
[26] Chỉ Nam 1994 số 22-24.
[27] Archbishop Celestino
Migliore, Vatican 6/2/2009: “Luận lý của tình liên đới và nguyên lý bổ trợ là
dụng cụ rất thích hợp để vượt lên mọi vấn đề và bảo đảm sự tham gia của mọi
người cho công cuộc phát triển chung của cộng đồng”; JP II, Centesimus Annus,
số 48: «Nếu tôn trọng nguyên lý bổ trợ, tổ chức cấp trên không được can thiệp
vào cuộc sống nội bộ của tổ chức cấp dưới bằng cách lấy đi những khả năng
chuyên môn của nó, đúng hơn phải nâng đỡ nó khi cần thiết»
[28] Chỉ Nam 1994 số 25-29.
[29] Sđd. số 30-31; đề tài của
Công nghị giáo phận Rôma 26-29/5/2009: Mọi thành viên Giáo hội và sự đồng trách
nhiệm mục vụ.”
[30] Sđd. số 32.
[31] Micae-Phaolô Trần Minh Huy,
Đào tạo và tự đào tạo thiêng liêng của các linh mục tương lai trong bối cảnh
Việt Nam ngày nay, tr.188-315.
[32] Bộ GDCG, Đào tạo thiêng
liêng trong các chủng viện tr.24.
[33] Calpotura, Nhật ký đào tạo
tác vụ tr.9-10.
[34] Bộ GDCG, Chỉ dẫn việc huấn
luyện độc thân linh mục tr.7-75.
[35] Optatam Totius số 2.
[36] FABC, 7th Plenary Assembly,
Spiritual Direction.
[37] Presbyterorum Ordinis số 72
và 82.
[38] Sđd. số 87.
[39] Pastores Dabo Vobis số 71.
[40] Optatam Totius số 22.
[41] Ratio Fundamentalis
Institutionis Sacerdotalis số 100.
[42] Ecclesia in Asia số 43
[43] FABC 92e, Về đào tạo thường
xuyên cho linh mục tại Á Châu.
[44] Chỉ Nam 1994 số 69-97.
[45] Chỉ Nam 1994 số 73.
[46] Sđd. số 93.
[47] Chỉ Nam 1994 số 74.
[48] Chỉ Nam 1994 số 77-78.
[49] Pastores Dabo Vobis số 77;
Chỉ Nam 1994 số 94.
[50] Sđd. số 95.
[51] Chỉ Nam 1994 số 96-97.
[52] Sđd. số 97.
[53] Vatican Information Service
ngày 26/5/2009.
[54] ĐHY Carlo Maria Martini,
Thánh Phaolô đối diện với chính mình in Alleluiah 109.
[55] ĐTC Biển Đức hứa sẽ ra một
Chỉ Nam cho các cha giải tội và linh hướng trong Năm Linh Mục này.
[56] Như trường hợp từ chức của
ĐTGM Paulin Pomodimo Giáo Phận Bangui bên Trung Phi.
[57] Vatican giải thích Luật mới
cho phép Giám mục được giải trừ tình trạng giáo sĩ của các Linh mục có những
lỗi nghịch lại sứ mệnh Giáo Hội. CAN June 5, 2009.
[58] ĐHY Cláudio Hummes, Thư nhân
Năm Linh Mục Zenit.org ngày 27/5/2009.
LM Micae-Phaolô Trần Minh Huy, pss