LINH MỤC: TƯ TẾ HAY TRƯỞNG LÃO?
Tản mạn về chữ và nghĩa
Ai học tiếng Anh, Pháp
cũng biết rằng priest / prêtre là những từ tương ứng với linh
mục trong tiếng Việt. Thế nhưng xét kỹ một chút về từ nguyên thì không thấy
sự tương đương giữa linh mục và priest hay prêtre. Trước
đây người Công Giáo Việt Nam gọi các linh mục là thầy cả. Chính thầy
cả đã về hưu này mới có dây mơ rễ má với priest / prêtre của
người Anh / Pháp. Thật vậy, nhóm thầy cả / priest / prêtre liên
hệ trực tiếp với bàn thờ, với việc tế lễ, với Chúa-Giêsu-Thầy-Cả-Thượng-Phẩm.
Nhưng thầy cả đã chấp nhận nhường chỗ cho linh mục; điều này diễn
ra từ khoảng trước sau thời gian Công Đồng Vaticanô II, tức cách đây hơn 40
năm, như để thích nghi với cái nhìn mới mẻ của Vaticanô II về ‘chức thầy cả’.
Còn priest / prêtre tuy tuổi già nhưng sức chưa yếu, vẫn tiếp tục
cầm cự dài hơi... Nếu ngôn ngữ là chìa khoá bộc lộ sự cảm nhận, thì ở đây xem
ra linh mục của Việt Nam tiến bộ hơn priest / prêtre của
người Anh / Pháp nhiều!
Nhưng tại sao trong khi
bàn thờ, việc tế lễ vẫn còn đó, vẫn uy nghi và dạt dào ý nghĩa không kém thời
nào trước đây, và chắc chắn vẫn còn mãi trong thời gian, thì thầy cả lại
phải rút lui để nhường chỗ cho linh mục? Dường như chuyện này có liên
quan với chuyện bếp núc của Sắc Lệnh Presbyterorum ordinis (PO) ở
Vaticanô II. PO là văn kiện ‘đinh’ của Công Đồng về chức linh mục. Số là ban
đầu nó được gọi là De clericis (về giáo sĩ), rồi trở thành De
sacerdotibus (về các tư tế), rồi sau đó là De vita et ministerio
sacerdotium (về đời sống và tác vụ của các tư tế), để rồi cuối cùng được
chung quyết là De presbyterorum ministerio et vita (về tác vụ và đời
sống của các trưởng lão.) Trong nguyên ngữ La-tinh, sự khác biệt giữa sacerdos
(tư tế) và presbyter (trưởng lão) được thấy rất rõ ràng; và việc loại
chữ này để chọn chữ kia là một việc đầy hàm ý chứ không hề vu vơ. Bản văn PO
dùng họ từ presbyter 132 lần; họ từ sacerdos xuất hiện chỉ 62 lần
và chỉ những khi liên hệ cách riêng đến ý nghĩa “tư tế” - ta ghi nhận rằng Sắc
Lệnh về Đào Tạo Linh Mục Optatam totius, công bố hai tháng trước đó, đã
chỉ dùng họ từ sacerdos thôi, và không hề đá động đến từ presbyter!-
Tiếc là trong thực tế, cho đến tận hôm nay, khi dịch các bản văn La-tinh sang
Việt ngữ, ta thường đơn giản đánh đồng sacerdos và presbyter, dịch
cả hai bằng chung một từ linh mục thôi, coi như không cần biết đến sự
nhọc công cân nhắc của các đấng bậc đã biên soạn và phê chuẩn nguyên bản. Hoá
ra linh mục của Việt Nam vừa mới tỏ ra ‘ngon lành’ hơn priest / prêtre
của Anh / Pháp, thì bây giờ lại được thấy là một anh chàng ba phải, rách việc
khi dịch tiếng La-tinh. Thực ra, ngay cả ở đây priest / prêtre
của Anh / Pháp cũng ba phải và rách việc y như vậy, chứ không khá gì hơn linh
mục.
Trở lại chuyện thay sacerdos
bằng presbyter trong tựa đề của PO. Từ La-tinh sacerdos mang đậm
màu tế tự. Nó chỉ các tư tế, những người liên hệ trực tiếp tới hy lễ và đền
thờ. Hầu như trong mọi tôn giáo đều có giới tư tế này. Cách riêng trong đời
sống của người Ít-ra-en, các tư tế là hình ảnh rất quen thuộc. Con cái cháu
chắt của chi tộc Lê-vi là những người lo việc tế lễ, một công việc vốn diễn ra
khá thường xuyên tại Đền Thờ Giêrusalem. Vào thời Đức Giêsu, giới tư tế bao gồm
vị thượng tế, các tư tế, và nhiều chức sắc khác. Trong khi đó từ presbyter không
có âm hưởng tế tự. Nó gợi một điều khác. Một presbyter là một ‘trưởng
lão’, hay theo nghĩa chuyên biệt hơn thì đó là người có một thế giá hay thẩm
quyền nào đó trong một cộng đoàn cụ thể. Các trưởng lão không phải là các tư
tế. Đọc lịch sử Ít-ra-en ta gặp các trưởng lão trong nhiều trường hợp, thường
với vai trò những nhà cố vấn. Kitô giáo thuở đầu tiên cũng có các nhóm trưởng
lão; đây là những người thi hành một trách nhiệm cai quản nào đó trong các hội
đường.
Cùng với việc đổi sacerdotium
thành presbyterorum trong tựa đề của PO, còn có sự chuyển đổi thứ tự
trước sau giữa vita và ministerio nữa. Ban đầu là vita et
ministerio (đời sống và tác vụ), nhưng rồi các nghị phụ quyết định
sửa thành ministerio et vita (tác vụ và đời sống.) Ta có thể ngạc nhiên
trước quyết định có vẻ cắc cớ này. Tại sao lại tác vụ và đời sống mà
không là đời sống và tác vụ? Đời sống và tác vụ nghe không vừa
xuôi tai vừa hợp lý hơn sao? Đặt tác vụ trước đời sống sao nghe
giống như đặt tề gia, trị quốc, bình thiên hạ trước tu
thân vậy? ... Chắc phải có ý gì đây.
Đằng sau chữ và nghĩa ...
Với sự ‘cắc cớ’ nói
trên, các đấng ở Vaticanô II hẳn muốn nhấn mạnh rằng chức linh mục không phải tiên
vàn là một tình trạng (=bậc) sống cho bằng là một chức năng, một sự
phục dịch, một tác vụ. Nếu các linh mục được mời gọi sống loại đời sống nhân
bản và thiêng liêng nào đó thì đấy bởi vì loại đời sống ấy là phù hợp để giúp
họ thi hành tác vụ của mình. Chính từ nơi ministerio của linh mục mà vita
của linh mục được rút ra, chứ không ngược lại. Thật thú vị, ta thấy PO tỏ ra
nhất quán với nền móng của nó là Hiến Chế Lumen gentium (LG.) Trong Hiến
Chế này, nói về Giáo Hội, các nghị phụ Vaticanô II xác nhận rằng Giáo Hội tự
bản chất là thừa sai, nghĩa là sự hiện hữu của Giáo Hội được rút ra từ sứ mạng
thừa sai, chứ không ngược lại.
Để chống lại sự phi bác
của các nhà Cải Cách đối với một số yếu tố thuộc truyền thống Công Giáo như ấn
tích do truyền chức, bản chất hy tế của Thánh Lễ, chiều kích tư tế của tác vụ,
Công Đồng Trentô đã khởi đi từ Thánh Lễ và Bí Tích Thánh Thể để tiếp cận chức
linh mục thừa tác. Tầm quan trọng hàng đầu, vì thế, được gán cho vai trò tư tế,
cho quyền thánh chức để truyền phép Thánh Thể và tha tội, và cho ấn tích chức
thánh vĩnh viễn làm cho đương sự thành alter Christus. Trentô dạy rằng
vì Giáo Hội đã nhận từ Đức Kitô hy tế Thánh Thể hữu hình, nên cũng phải tuyên
nhận rằng trong Giáo Hội đó có một chức tư tế mới mẻ, hữu hình và riêng biệt.
Cũng vì bản chất đối phó của Trentô mà Công Đồng này đã không nhấn mạnh chức tư
tế phổ quát của người tín hữu - (có lẽ bởi điều này đã được các nhà Cải Cách
nhấn mạnh quá đủ rồi!) Bản văn 1Pr 2,4-10 thường xuyên được sử dụng ngày nay,
nói về chức tư tế phổ quát của người tín hữu, đã không được Trentô trích dẫn.
Xem thế, trong khi chúng ta mắc nợ Trentô về sự thiết lập và tổ chức các chủng
viện, thì Công Đồng này đã tỏ ra bất cập trong trình bày về chức linh mục.
Vaticanô II, đàng khác,
được định hướng về nguồn và canh tân, đã chọn tiếp cận chức linh mục chủ yếu qua
ngả Kitô học và Giáo Hội học, để cố gắng cung ứng một cái nhìn toàn diện và
đúng đắn hơn. Tất cả bắt đầu từ sứ mạng của Chúa Con. Như chính Ngài được sai
đến bởi Cha, Chúa Giêsu cũng sai các Tông Đồ và những người kế vị là các giám
mục. Sứ vụ của các giám mục, được thông dự bởi các linh mục, bao hàm ba chức
năng: ngôn sứ, tư tế và vua. Việc xếp thứ tự “ngôn sứ, tư tế và vua” (LG
25) cho thấy dường như vì nhận ra sự bất cập của Trentô nên Vaticanô II không
đặt chức năng tư tế lên hàng đầu nữa. Và nói cho cùng, đây không phải là ba
chức năng của riêng giám mục hay linh mục, mà trước hết là của toàn thể Dân
thánh. Bản chất của chức linh mục thừa tác chỉ có thể được hiểu trong bối cảnh
chức linh mục phổ quát của mọi người đã lãnh nhận Phép Rửa. Đã hẳn hai đàng
khác nhau tự yếu tính chứ không chỉ về mức độ, song điều đáng ghi nhận là các
nghị phụ tuyên bố rằng chức linh mục thừa tác tồn tại để củng cố
và nuôi dưỡng chức linh mục phổ quát (LG 10; PO 2). Ở đây người ta thấy phần
nào manh mối của việc PO thiên vị presbyter hơn là sacerdos. Việc
gọi các linh mục là presbyter gợi lại tính tập đoàn và mối dây huynh đệ
của các presbyter trong Tân Ước. Từ presbyter có thể diễn tả tác
vụ một cách thích đáng hơn. Thật vậy, thừa tác viên của Tân Ước không phải là
nhà truyền giảng, không phải là tư tế, cũng không phải là nhà cai quản – mà là
cả ba ‘nhà’ này cùng một trật. Việc tập chú chỉ một trong các khía cạnh ấy sẽ
làm cho thừa tác vụ thánh trở thành èo uột, thê thảm.
Khai triển bản chất sứ
mạng thừa sai của chức linh mục theo Vaticanô II, Tổng Giám Mục Joseph
Ratzinger (tức Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI hiện nay) hồi năm 1970 khẳng định
rằng nếu làm linh mục chính là được-sai-đi, thì làm linh mục cũng nhất
thiết có nghĩa là hiện-hữu-cho-người-khác. Nhưng hiện hữu của một người
gắn không rời với những việc người đó làm. Trở thành một người được Chúa Giêsu
sai đi, điều này không chỉ đòi hỏi đảm nhận một loại hoạt động chuyên biệt, mà
còn đụng chạm đến chính hữu thể của người ấy. Việc chấp nhận một sứ mạng như
thế đồng nghĩa với việc chấm dứt thuộc về chính mình, theo một cách thế hai mặt
được Ratzinger diễn tả cô đọng như sau: “Sự trung thành với bản chất
được-sai-đi này đòi phải chẻ tách hiện hữu của mình ra theo hai hướng. Một là,
phải biết tránh qua một bên để nhường bước cho Đấng mà mình thay mặt. Hai là,
phải nhìn nhận rằng mình không phải là cái cốt của sứ điệp.” Người ta
chỉ có thể hiểu được sự chẻ tách hiện hữu này khi nhìn vào chính Đức Giêsu,
Đấng là nhà thừa sai hoàn hảo đến nỗi có thể mô tả hiện hữu của Ngài là hiện-hữu-từ-Chúa-Cha
và là hiện-hữu-cho-chúng-ta. Cũng thế, người linh mục phải thường xuyên
ở trong sự căng thẳng này, sự căng thẳng làm cho anh ta trở thành “kỳ diệu,”
trở thành một cái gì “lưỡng diện,” vì anh ta “sống trong hai thế giới” – nói
theo ngôn ngữ của Tổng Giám Mục Fulton J. Sheen.
Vậy theo Vaticanô II,
nhiệm vụ hàng đầu của linh mục là gì và chức linh mục thừa tác tương quan thế
nào với Thánh Lễ và Bí Tích Thánh Thể? Câu trả lời thật rõ: Nhiệm vụ trước hết
là rao giảng Tin Mừng, vì nếu Tin Mừng không được rao giảng thì các bí tích sẽ
vẫn chỉ là những nghi thức trống rỗng, vô hồn. Việc giảng dạy Tin Mừng tông
truyền sẽ triệu tập dân Thiên Chúa lại. Họ sẽ dâng hiến chính mình cho Thiên
Chúa làm “một hy lễ sống động.” Nhờ tác vụ của linh mục thừa tác, hy lễ thiêng
liêng của tín hữu được làm cho hoàn hảo trong kết hợp với hy lễ của Đức Kitô,
khi Thánh Lễ được dâng nhân danh toàn Giáo Hội (PO 2). Con đường tiếp cận chức
linh mục thừa tác của Vaticanô II, như vậy, đạt tới chóp đỉnh của nó nơi việc cử
hành Thánh Thể (ta không quên đây vốn là khởi điểm trong lộ trình của Trentô!)
Nghĩa là, đối với Vaticanô II, Thánh Lễ vẫn là bổn phận chính yếu của người
linh mục.
Kể từ Vaticanô II
Sắc Lệnh PO của
Vaticanô II đã không ấm ớ khi trình bày về chức linh mục. Không may là chính
quan điểm sáng tỏ và mới mẻ của Vaticanô II đã có một số hiệu ứng phụ, như
những gì được thấy diễn ra trong thời gian tiếp sau Công Đồng này. Nhiều linh
mục, chưa kịp quen với cái nhìn mới và đầy thách đố này, bỗng ngơ ngác, hốt
hoảng, cảm thấy mình bị thất đoạt, thậm chí bị vuột mất ‘căn tính’. Việc nhấn
mạnh chức linh mục phổ quát của mọi tín hữu dường như ‘đe doạ’ chức linh mục
thừa tác! Việc xáo trộn vị trí của vai trò tư tế dường như đã ‘giáng cấp’ người
linh mục! Thế là xảy ra hiện tượng đào ngũ gần như hàng loạt vào những năm 1970
và cả những thập niên sau đó - từ ‘đào ngũ” ở đây được dùng bởi chính
Niên Giám Thống Kê của Toà Thánh. Đồng thời, con số chủng sinh và ngay cả con
số chủng viện cũng bắt đầu tụt giảm nhanh chóng. Và đây đó rộ lên những tranh
cãi về sự độc thân linh mục và về vấn đề truyền chức linh mục cho phụ nữ - điều
không hề thấy giữa những người Công Giáo Rôma trước thời Vaticanô II.
Có vẻ như Huấn Quyền
cũng lúng túng. Vì thế, vô hình trung, một tiến trình ‘tái lập trật tự’ được
sớm bắt đầu. Chức Linh Mục Thừa Tác chiếm một nửa nghị trình của Synod
1971, với văn kiện cùng tên được công bố vào cuối năm ấy. Văn kiện này dường
như quên mất những cố gắng của Vaticanô II trong cân nhắc từ vựng. Hai từ sacerdos
và presbyter hầu như được dùng thay thế nhau một cách không phân biệt.
Tiêu đề của phần thứ hai, Directoriae rationes quoad vitam et ministerium
sacerdotis (Những chỉ dẫn cho đời sống và tác vụ của tư tế), đã hoàn
toàn lật đổ thành quả đạt được ở tựa đề của PO. Sacerdos trở lại thay
thế presbyter, và vita tái chiếm vị trí của nó trước ministerio!
Rồi đến Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Pastores dabo vobis (PDV, năm
1992), văn kiện quan trọng mới nhất của Huấn Quyền cho đến nay về chức linh
mục. Hoà nhịp trong tiến trình ‘tái lập trật tự’ nói trên, PDV sử dụng họ từ “presbyter”
284 lần, trong khi họ từ “sacerdos” được dùng đến 571 lần – vượt hơn gấp
đôi!
Cũng phải kể đến dấu ấn
của Đức Gioan Phaolô II, một vị giáo hoàng đặc biệt quan tâm đến căn tính và sứ
vụ của các linh mục. Những Lá Thư Thứ Năm Tuần Thánh hằng năm của ngài
suốt 27 năm, từ năm 1979 cho đến 2005 là năm ngài qua đời, phản ảnh giòng suy
tư của vị giáo hoàng này về chức linh mục thừa tác. Điểm nổi bật nhất của những
Lá Thư này, nhất là khi so sánh với các văn kiện của Vaticanô II, đó là
sự thống trị của phạm trù tư tế. Trong một số Lá Thư, những từ như sacerdos,
sacerdotium, sacerdotalis xuất hiện trùng trùng hầu như ở tất cả các đoạn
văn. Thử làm một thống kê nho nhỏ: Lá Thư tương đối ngắn của năm 1987 sử
dụng từ sacerdotium 17 lần, sacerdos 12 lần, sacerdotalis
14 lần – trong khi đó từ presbyteri chỉ 2 lần, và presbyteratus
chỉ có 1 lần! Đức Gioan Phaolô II rõ ràng thiên về con đường của Trentô để tiếp
cận chức linh mục thừa tác. Phải chăng vì ngài quá bận tâm giải quyết các hiệu
ứng phụ, nhất là cuộc khủng hoảng ‘căn tính’, do Vaticanô II đem lại? Hay bởi
vì bối cảnh những Lá Thư của ngài luôn luôn là ... Thứ Năm Thánh, ngày
Chúa lập Bí Tích Thánh Thể và chức linh mục? Hay vì cả hai?
Thay lời kết
Điều quan trọng, nói
cho cùng, không phải là từ ngữ. Chẳng lẽ để hưởng ứng tinh thần của Vaticanô II
ta sẽ gọi các linh mục là “trưởng lão”? Nhiều linh mục còn lâu mới ‘lão’ và
cũng không muốn ‘lão’ chút nào kia mà. Cũng vậy, đây đó thỉnh thoảng râm ran
tranh luận về việc nên nói “truyền chức linh mục” hay nên nói “trao tác vụ linh
mục,” để rồi thực tế thấy cả hai vẫn cùng tồn tại. Nhiều linh mục thường xuyên
mặc ‘soutane’, nhiều linh mục khác cả năm chưa mặc ‘soutane’ một lần - tuỳ ý
nghĩa biểu tượng được gán cho chiếc ‘soutane’. Những sự khác biệt đại loại như
thế không gây chết chóc cho ai; tuy nhiên cách nào đó chúng có thể là dấu chỉ
rằng chúng ta hôm nay đang ở trong một mối căng thẳng giữa các nẻo đường tiếp
cận chức linh mục thừa tác.
Hiện nay, bên trong Công Giáo Rôma, rõ ràng không có duy chỉ một cách nhìn chức
linh mục thừa tác. Ta không nên buồn về điều đó. Tác vụ chức thánh là một thực
tại phong phú và đa chiều kích, và có nhiều ‘cổng’ để đi vào nó. Điều quan
trọng là ta cởi mở để khám phá và lĩnh hội càng nhiều càng tốt những yếu tố và
những khía cạnh của thực tại này.
Lm.
Lê Công Đức
(có tham khảo Donovan,
Daniel. What are they saying about the ministerial priesthood? New York:
Paulist Press, 1992.)