Tu đỨc linh
mỤc
theo Công
đỒng Vaticanô II
Linh mục là người được kêu gọi để lo những việc về Thiên Chúa và để lo
phục vụ con người.[1]
Vì thế con người linh mục phải có một cung cách thế nào trong mối liên hệ với
Thiên Chúa và với người khác trong ánh sáng đức tin và trong công việc mục vụ hằng
ngày. Từ đây chúng ta nói tới một nền tu đức của con người linh mục. Một linh
đạo của linh mục hay đời sống thiêng liêng, chúng ta nói tới sự thánh thiện của
linh mục. Gọi là tu đức linh mục, vì nền tu đức này liên hệ cụ thể tới con
người linh mục, theo như định nghĩa chung về tu đức "như là cách thế
chúng ta tiếp nhận, cảm hóa, và cụ thể hóa ơn huệ của Thiên Chúa, ơn thánh của
Ngài, trong tiến trình thể hiện sự hiện hữu của chúng ta".[2]
Nền tu đức này, trong chính bản thân linh mục, là một nền tu đức có chiều kích
cộng đoàn, xã hội nhiều hơn là chiều kích cá nhân vì linh mục dành trọn thời
giờ, đã tận hiến đời mình cho việc mục vụ giáo xứ hay các hình thức mục vụ
khác. Vì thế người ta cần tìm ra được cái căn cốt của nền tu đức của linh mục –
đặc biệt các linh mục làm mục vụ.[3]
Vấn đề này đã được trình bày trong truyền thống của Giáo Hội ngay từ đầu và qua
các thế hệ cho tới ngày nay và nhất là trong suy tư của Công Đồng chung
Vaticanô II.[4]
Chúng ta có thể nói đây là một cái nhìn mới về chân dung và sứ vụ của con người
linh mục.
Bài trình bày này dựa vào các văn kiện của Công Đồng Vaticanô II liên hệ
tới linh mục, như là nguồn mạch các điểm được nói tới trong bài này. Các Văn
kiện đó là :
- Hiến chế tín lý về Giáo Hội Ánh sáng muôn
dân (Lumen gentium), ban hành ngày 21-11-1964.
- Hiến chế về phụng vụ Thánh Công đồng
chung (Sacrosanctum Concilium), ban hành ngày 4-12-1963.
- Sắc lệnh về chức vụ và đời sống các linh mục
Chức linh mục (Presbyterorum ordinis), ban hành ngày 7-12-1965.
- Sắc lệnh về Đào tạo linh mục Mọi người
mong ước (Optatam totius), ban hành ngày 28-10-1965.
Ngoài ra chúng ta còn có Tông huấn hậu thượng Hội đồng giám mục thế giới
khóa họp năm 1971, Ta sẽ ban cho các con những vị mục tử (Pastores
dabo vobis).
Các văn kiện này cần được đọc trong ý hướng chung và mục vụ của Công
Đồng chung Vaticanô II, nghĩa là ưu tư canh tân bên trong Giáo Hội, đem Giáo
Hội đến với thế giới ngày hôm nay, như được nói tới trong chính Sắc lệnh về
chức linh mục : "Vì thế để đạt tới những mục đích mục vụ trong việc
canh tân bên trong Giáo Hội, để truyền bá Phúc Âm cho tất cả thế giới cũng như
để đối thoại với thế giới ngày nay, Thánh Công đồng này tha thiết khuyên tất cả
các linh mục hãy dùng mọi phương tiện thích hợp mà Giáo Hội ban cho để luôn nỗ
lực tiến cao hơn trên đường thánh thiện. Nhờ đó các ngài trở nên những khí cụ
ngày càng thích hợp hơn cho việc phục vụ toàn thể Dân Chúa".[5]
Các việc này phải được áp dụng và thể hiện ngay trong những người được trao ban
cho tác vụ rao giảng, thánh hóa và cai quản, tức là các giám mục, linh mục, phó
tế. Sự thánh thiện của linh mục được Công đồng Vaticanô II nhìn trong bối cảnh
của việc canh tân toàn thể Giáo Hội ngay từ bên trong cuộc sống và những liên
hệ hỗ tương bên trong của mình.
Hiến chế Ánh sáng muôn dân, đặt tác vụ linh mục tư tế trong bối
cảnh chung của sứ vụ của Giáo Hội được coi như là Dân Thiên Chúa, là dân đã
nhận được ơn tham dự vào ba sứ vụ của Chúa Kitô : ngôn sứ, tư tế và mục tử.
Hiến chế nói như sau : "Nhờ bí tích truyền chức thánh, linh mục được
thánh hiến theo hình ảnh Chúa Kitô, thầy cả thượng phẩm vĩnh viễn (x. Dt
5, 1-10); 7, 24; 9, 11-28), để rao giảng Phúc Âm, chăn dắt tín hữu và cử
hành việc phụng tự Thiên Chúa với tư cách tư tế đích thực của Tân Ước".[6]
Còn Sắc lệnh Chức linh mục bàn một cách đặc biệt về thừa tác vụ
linh mục, của các linh mục, nhất là các linh mục làm mục vụ. Tựa đề của Sắc
lệnh làm cho chúng ta nghĩ tới hai phần của văn kiện : tác vụ và đời
sống của con người linh mục. Trong Sắc lệnh này Công đồng cũng nói tới bản
tính của chức linh mục trong Giáo Hội : theo sự định liệu của Thiên Chúa, một
số tín hữu trong Giáo Hội lãnh nhận chức thánh từ đó họ có quyền tế lễ và tha
tội trong cộng đoàn tín hữu, và nhân danh Chúa Kitô họ chính thức thi hành chức
vụ linh mục cho loài người.[7]
Các linh mục tùy thuộc Giám mục, theo phẩm trật của chức thánh.[8]
Các linh mục lãnh nhận một bí tích riêng in dấu ấn đặc biệt.[9]
Tất cả những yếu tố đặc biệt do chức linh mục thể hiện nơi các linh mục,
như Lời Chúa, Bí Tích, Thánh Thể, tha tội, cầu nguyện cho dân..., đòi buộc các
ngài có một đời sống thiêng liêng thật sâu xa. Công đồng nói nhiều về điểm này,
với những kiểu nói khác nhau, những cách diễn tả khác nhau. Trong Sắc lệnh về Chức
linh mục Công đồng nói như sau : "Bởi vậy, trong chức vụ và đời
sống của mình, các linh mục phải nhằm mục đích tìm kiếm vinh danh Thiên Chúa
Cha trong Chúa Kitô....[10]
Các ngài không thể là thừa tác viên của Chúa Kitô nếu không là chứng nhân và
là người ban phát một đời sống khác đời sống thế tục".[11]
Như vậy đời sống thiêng liêng là một đời sống khác với đời sống thế tục. Đó là
một câu nói kết tóm kinh nghiệm và cái nhìn của giáo dân về con người linh mục.
Chúng ta sẽ lần lượt nói tới các điểm này để thấy rõ ý hướng của Công đồng
Vaticanô II và sự thúc bách của ơn gọi nên thánh gửi tới các linh mục.
I. CÁC KIỂU NÓI VỀ SỰ THÁNH THIỆN CỦA LINH MỤC
Chúng ta lần mở các trang viết của Công đồng Vaticanô II để trích ra các
kiểu nói Công đồng dùng để diễn tả sự thánh thiện của các linh mục.
Công đồng nói tới đời sống thiêng liêng này trong liên hệ với tác vụ mà
linh mục lãnh nhận và thực hiện. Tác vụ này thật cao cả và việc thực hiện tác
vụ này cũng thật là khó khăn. Vì thế các Nghị phụ công đồng đã đưa ra các
nguyên tắc, chỉ thị để giúp các linh mục có một đời sống tốt đẹp và tốt đẹp
thêm giữa những hoàn cảnh mục vụ và nhân sinh luôn chịu những biến chuyển sâu
xa".[12]
Trong phần mở đầu Sắc lệnh Chức linh mục, sự thánh thiện của linh mục đã được
trình bày như là một đời sống tốt đẹp hơn (atque eorumdem vitae
melius provideatur). Kiểu nói này gợi ý rất trống và tổng quát, vì là điều
Công đồng diễn tả ở số đầu tiên của Sắc lệnh, nhưng cũng làm chúng ta nghĩ tới
câu trả lời của Chúa Giêsu với bà Marta; “Maria đã chọn phần tốt hơn".[13]
Và cái phần tốt hơn này là cuộc sống thân mật với Chúa Kitô, bên cạnh Chúa
Giêsu như bà Maria. Sau đó các khía cạnh, các yếu tố khác của đời sống này sẽ
được cụ thể hóa trong toàn thể Sắc lệnh.
Sắc lệnh nói tới bản tính của tác vụ linh mục thừa tác, là nhân danh
Chúa Kitô mà rao giảng, thánh hóa và cai quản dân thánh Chúa, với quyền năng
của chính Chúa Kitô ban cho, mà các linh mục đã nhận được qua bí tích Truyền chức.[14]
Từ suy tư về quyền chức thánh do mối liên hệ mật thiết giữa Chúa Kitô và linh
mục, Công đồng đã nói tới một đòi hỏi nơi người linh mục, đó là : "Như
thế các ngài nên giống Chúa Kitô Linh Mục, đến nỗi có quyền thay mặt
Chúa Kitô là Đầu mà hoạt động".[15]
Kiểu nói "nên giống Chúa Kitô" ở đây mang ý nghĩa thần học, vì
nói tới quyền năng mà linh mục nhận được từ Chúa Kitô qua việc đặt tay của vị
Giám mục. Tuy nhiên, kiểu nói này cũng gợi ý cho các linh mục đòi hỏi tu đức mà
Giáo Hội muốn trong đời sống của các ngài, tức là phải "nên giống Chúa Kitô"
, hoặc "đi theo Chúa Kitô" (sequela Christi), và đây là nét
chính yếu của sự thánh thiện. Từ cách giống Chúa Kitô do ơn chức thánh, đến
cách giống Chúa Kitô qua sự thánh thiện của linh mục thực hiện, tức là do cố
gắng tu đức của ngài đạt tới và phải đạt tới vì ý thức sự cao cả của chức thánh
nhận được và vì các hoạt động mục vụ đang thực hiện. Nói theo kiểu thần học
kinh viện, "nên giống Chúa Kitô" theo cách thế ex opere operato,
và "nên giống Chúa Kitô" theo cách thế ex opere
operantis. Như vậy sự thánh thiện của linh mục được diễn tả như là một việc
nên giống Chúa Kitô là Đầu.
Tác vụ của linh mục nhằm giúp tín hữu dâng hy tế đời sống của họ lên
Thiên Chúa và làm đẹp lòng Ngài. Khi thi hành công việc này theo tác vụ, thì
linh mục nhận ra mục đích chính yếu của hoạt động và đời sống của mình là "tìm
kiếm vinh danh Thiên Chúa Cha trong Chúa Kitô... khi cầu nguyện cũng như khi
tôn thờ và giảng thuyết, khi dâng Hy Tế Thánh Thể và làm các Bí tích, cũng như
khi thi hành những tác vụ khác giúp người ta, các linh mục đều qui hướng về
việc làm vinh danh Thiên Chúa hơn, đồng thời giúp con người tiến tới đời sống
siêu nhiên".[16]
Ở đây chúng ta có hai kiểu nói : làm vinh danh Chúa Cha trong Chúa Kitô và
đời sống thiêng liêng.[17]
Kiểu nói thứ nhất áp dụng cho linh mục, còn kiểu nói thứ hai áp dụng
cho các tín hữu. Như vậy khi thi hành tác vụ, linh mục hoạt động theo hai chiều
: chiều lên, tức là tôn vinh Thiên Chúa, và chiều xuống là lôi kéo ơn Thiên
Chúa, đem sự sống Thiên Chúa cho con người, như hình ảnh chiếc thang của Giacob
trong Cựu Ước.[18]
Và từ đây, thì chính linh mục phải sống đúng theo hành động thánh của Ngài, tức
là hướng tất cả cuộc đời để tôn vinh Thiên Chúa và đón nhận dồi dào sự sống
Thiên Chúa cho chính mình và cho tín hữu. Vậy sự thánh thiện của linh mục được
diễn tả như một cuộc sống mang tâm thức tôn vinh Chúa và sống sự sống của
Thiên Chúa. Điều này cũng phù hợp với điều mà phụng vụ, mà linh mục là thừa
tác viên chính, nhắm tới là để tôn vinh Thiên Chúa và thánh hóa con nguời.[19]
Một cách rõ ràng và đặc biệt, Công đồng nói tới sự hoàn thiện mà linh
mục phải theo đuổi như được trình bày trong chương thứ III của Sắc lệnh Chức
linh mục. Sắc lệnh xác quyết như sau : "Nhưng các linh mục còn có lý do đặc biệt
phải đạt tới sự hoàn thiện này, vì khi lãnh nhận chức thánh là các ngài được
thánh hiến cho Thiên Chúa theo một cách thức mới : các ngài trở nên những dụng
cụ sống động của Chúa Kitô Tư Tế Vĩnh cửu, để qua mọi thời đại, các ngài có thể
tiếp tục công việc kỳ diệu của Đấng đã lấy quyền năng cao cả mà tái lập toàn
thể xã hội con người" .[20]
Đoạn văn này nói tới sự thánh thiện, sự hoàn thiện của linh mục, mà linh
mục phải có. Chúng ta còn có các kiểu nói khác để trình bày đời sống thiêng
liêng, đời sống tu đức, đời sống thánh thiện của linh mục. Nhưng ở đây không
thể nói hết tất cả các kiểu nói này. Các trích dẫn trên đây cho thấy hai điểm,
đó là linh mục phải nên thánh thiện, vì ơn gọi phổ quát gửi tới mọi tín hữu đạt
tới sự thánh thiện, và nhất là vì các linh mục còn có một lý do khác để cố gắng
nên thánh, đó là vì chức thánh đã lãnh nhận. Điểm thứ hai là việc nên thánh này
được thực hiện trong chính khi linh mục thi hành các tác vụ của một thừa tác
viên của Chúa Kitô. Sắc lệnh nói về điểm thứ hai này như sau : "Các
linh mục cũng vậy, sau khi được Chúa Thánh Thần thánh hiến bởi việc xức dầu và
được Chúa Kitô sai đi, các ngài tiêu diệt nơi chính mình những công trình của
xác thịt và hoàn toàn hiến thân phục vụ nhân loại : đó chính là sự thánh thiện
mà Đức Giêsu đã ban cho các ngài để nhờ đó mà tiến gần đến con người hoàn thiện".[21]
Chúng ta có thể kiểm chứng xác quyết này qua lời nhắn nhủ của Giám mục gửi tới
các ứng sinh lên chức linh mục : chính nhờ tác vụ thánh mà linh mục được thánh
hiến và trở nên thánh thiện,[22]
và “Chính thừa tác vụ của các ngài, vì mang một danh nghĩa đặc biệt, nên đòi
buộc các ngài không được theo thói thế gian".[23]
II. SỰ THÁNH THIỆN CỦA LINH MỤC
Sang tới phần này, chúng ta ghi lại một số suy tư của Công đồng Vaticanô
II về sự thánh thiện của linh mục.
1. Nên thánh là một đòi hỏi cốt yếu đối với các linh mục
Suy tư của các Nghị phụ công đồng thật đơn giản và hợp lý về bổn phận
phải nên thánh của các linh mục. Suy tư này đi từ việc nên thánh qua bí tích
rửa tội, như đối với các tín hữu khác. Đó là lý do thứ nhất : mọi người, trong
đó phải kể cả linh mục, đều được kêu gọi nên thánh theo như lời Chúa Giêsu đã
nói : "Các con hãy nên hoàn thiện như Cha các con ở trên trời là Đấng
hoàn thiện".[24]
Rồi sự đòi hỏi nên thánh nơi các linh mục, còn có một lý do khác nữa, đó là
chức thánh các ngài đã lãnh nhận và vì qua chức thánh đó và trong Chúa Thánh
Thần, con người linh mục đã được thánh hiến trong một tư cách mới, để hoàn toàn
thuộc về Thiên Chúa.[25]
Từ hai lý do này Công đồng đi tới một xác quyết chắc chắn, về sự thánh thiện mà
linh mục phải đạt tới, vì các ngài tiếp xúc với thế giới thánh thiêng, với các
thực tại, sự vật thánh thiện, và thi hành những công việc thánh thiện cũng như
là những người quản thủ các mầu nhiệm thánh : "Thánh Công đồng này tha
thiết khuyên tất cả các linh mục hãy dùng mọi phương tiện thích hợp mà Giáo Hội
ban cho để luôn luôn nỗ lực tiến cao hơn trên đường thánh thiện. Nhờ đó các
ngài trở nên những khí cụ ngày càng thích hợp hơn cho việc phục vụ toàn thể Dân
Chúa".[26]
Trong lời tiên tri Malachia quở trách các tư tế thời đó, người ta thấy có sự
xác định vai trò thánh thiện, cầm cân nảy mực trong dân, như sau : "Quả
thế môi của linh mục phải bảo tồn khoa học, và từ miệng của ngài người ta tìm
thấy những lời dạy bảo".[27]
Ý thức về sự thánh thiện này, linh mục cảm nghiệm được tự trong thâm tâm
của mình, mỗi ngày cảm nghiệm này trở nên mạnh mẽ hơn, rõ ràng hơn và xác tín
hơn. Lý do dễ hiểu là vì mỗi ngày linh mục đi sâu vào sự hiệp thông với Chúa
Kitô hơn, nên đồng hình dạng với Ngài hơn. Đàng khác, như đã nói trên đây, sự
thánh thiện của linh mục, được nhìn trong góc cạnh mục vụ, nghĩa là do việc
thực hành các tác vụ thánh liên hệ tới các linh hồn, mà linh mục có được cảm
nghiệm sâu xa về sự thánh thiện phải có. Vì trước khi rao giảng Phúc Âm và làm cho
người khác trở thành môn đệ của Chúa Kitô, thì chính linh mục đã phải là môn đệ
của Phúc âm. Mỗi ngày, khi linh mục dâng hy tế Thánh Lễ, khi ngài ngồi tòa giải
tội, khi ngài xức dầu bệnh nhân hay rửa tội... linh mục đụng chạm với các thực
tại thánh. Linh mục cũng cảm thấy nhu cầu nên thánh nơi các tâm hồn và giới hạn
của mình để đáp ứng nhu cầu nên thánh nơi tín hữu. Nơi linh mục cũng có thể có
tình trạng bão hòa, làm quá hóa quen với việc cử hành các bí tích, và đây là
một điều cần cố gắng vượt qua. Linh mục, nhất là các linh mục làm mục vụ lâu
năm, cũng có thể có một cảm nghiệm khác, đó là ý thức rằng các hành động thánh
mà ngài làm, rất hữu hiệu và có sức vạn năng vì do chính Chúa Kitô đặt để nơi
các bí tích. Nhưng cụ thể, thì tình trạng nên thánh nơi chính mình cũng như nơi
người tín hữu thật là chậm chạp và có khi còn như vô hiệu. Cảm nghiệm này đôi
khi thật là đáng sợ và có khi làm cho con người linh mục chán nản và không muốn
hoạt động, hoặc có khi nghi ngờ những giá trị mình đang nắm giữ. Nhưng đàng
khác, các cảm nghiệm này lại có cái hay của nó, đó là trở nên một thúc đẩy cho
cố gắng vươn lên và canh tân đời sống của mình để nên thánh hơn mỗi ngày. Đôi
khi gương thánh thiện của các tín hữu giáo dân mà linh mục tiếp xúc trong công
việc mục vụ hằng ngày, làm các linh mục suy nghĩ về sự thánh thiện và tự tìm
cách làm cho mình nên thánh trong đời sống mục vụ.
Cảm nghiệm về giới hạn là điều mà chính Công đồng Vaticanô II đã nói
trước cho các linh mục dưới nhiều hình thức khác nhau. Sắc lệnh Chức linh
mục nói : "Do đó, vì mỗi linh mục đều là hiện thân của Đức Kitô
theo cách thức riêng của mình, nên ngài nhận được những ơn riêng để trong khi
phục vụ dân được trao phó cho mình và phục vụ toàn thể dân Chúa, ngài có thể dễ
dàng nên hoàn thiện như Đấng mình đại diện, và để sự yếu đối của xác thịt
loài người được chữa trị nhờ sự thánh thiện của Đấng vì chúng ta đã trở nên
Vị Thượng Tế ‘thánh thiện, trong sạch, vô tội, tách biệt khỏi kẻ có tội" (Dt
7,26)[28]
(gạch dưới là của tôi). Linh mục được kêu gọi lãnh nhận chức thánh trong chính
giữa sự yếu đuối của xác thịt loài người, như những thừa tác viên bất xứng.[29]
Ngài cũng được mời gọi nên thánh trong chính tình trạng này. Ngài cũng cảm nhận
ước muốn nên thánh trong chính tâm thức yếu đuối này. Sắc lệnh Chức vụ linh
mục một lần nữa nói tới tâm thức này như sau : "Vậy ý thức những sự
yếu hèn của mình, thừa tác viên đích thực của Chúa Kitô khiêm tốn làm việc
trong khi tìm xem điều gì làm đẹp lòng Thiên Chúa...".[30]
Nhưng Thiên Chúa đã mời gọi linh mục nên thánh trong tác vụ tư tế của
linh mục. Sự nên thánh này phải được hiểu như thế nào? Sắc lệnh về chức vụ và
đời sống linh mục không đưa ra một định nghĩa về sự thánh thiện của linh mục,
nhưng lại đưa ra những nét vẻ riêng biệt nói lên sự thánh thiện của bậc linh
mục. Vậy khi ghi lại đây những nét vẻ này, chúng ta có thể chẩn đoán một hình
thức thánh thiện – nói một cách trừu tượng – của linh mục. Trước tiên sự thánh
thiện của linh mục phải được nhìn trong mối tương quan mật thiết và đặc biệt
với Chúa Kitô là Thừa tác viên của công việc cứu rỗi. Như thế sự thánh thiện
này là một thể hiện của mối dây liên kết chặt chẽ với Chúa Kitô và trong tư thế
là một tác viên của ơn cứu rỗi, của ân sủng,[31]
của công việc thánh hóa. Khía cạnh này được Sắc lệnh Chức linh mục diễn
tả qua nhiều kiểu nói khác nhau, như khí cụ hành động của Chúa Kitô Tư Tế
Vĩnh cửu,[32]
là hiện thân của Chúa Kitô theo cách thức riêng của mình,[33]
như là Đại diện của Chúa Kitô,[34]
là thừa tác viên Lời Chúa,[35]
như những vị cai quản và chăn dắt Dân Chúa,[36]
là người được Thánh Thần xức dầu thánh hiến và thi hành tác vụ của Chúa
Thánh Thần và của sự công chính.[37]
Các lối diễn tả này cho thấy mối dây liên kết chặt chẽ con người linh mục với
Chúa Kitô và từ đây sự thánh thiện của linh mục cũng khởi nguồn từ sự thánh
thiện của Chúa Kitô. Sự thánh thiện của linh mục được coi như là thể hiện chiều
sâu và chiều cao của mối dây liên kết chặt chẽ với Chúa Kitô. Nhờ mối dây liên
kết này các linh mục lãnh nhận chính sự thánh thiện của Chúa Kitô, như Sắc lệnh
Chức linh mục nói : "Các linh mục cũng vậy, sau khi được Chúa
Thánh Thần thánh hiến bởi việc xức dầu và được Chúa Kitô sai đi, các ngài tiêu
diệt nơi mình những công trình của xác thịt và hoàn toàn hiến thân phục vụ nhân
loại : đó chính là sự thánh thiện mà Đức Giêsu đã ban cho các ngài để nhờ đó mà
tiến gần đến con người hoàn thiện".[38]
Đây là lý do nội tại đòi buộc linh mục cố gắng nên thánh.
Ngoài ra sự thánh thiện của linh mục cũng không thể bỏ qua nền tảng nhân
bản nơi các ngài, mà các ngài phải tập luyện. Sắc lệnh Chức linh mục kê
khai các khía cạnh, các đức tính nhân bản nơi người linh mục như sau : "Để
được thế, cần phải có nhiều đức tính đáng cho xã hội loài người kính chuộng như
từ tâm, thành thật, dũng cảm, kiên nhẫn, say mê công chính, lịch thiệp và những
đức tính khác mà Thánh Tông đồ Phaolô khuyên nhủ khi ngài nói : ‘Tất cả những
gì là chân thật, là trong sạch, là công bằng, là thánh thiện, là khả ái, là
danh thơm tiếng tốt, hoặc nhân đức, hoặc hạnh kiểm nào đáng khen, thì xin anh
em hãy tưởng nghĩ đến’ (Pl 4, 8)".[39]
Trong Sắc lệnh về việc đào tạo linh mục Công đồng cũng diễn tả thật rõ ràng về
khía cạnh nhân bản này : "Vì thế một nền giáo dục khéo tổ chức cũng
phải nhằm huấn luyện các chủng sinh đạt được mức trưởng thành nhân bản cần
thiết nhất là mức trưởng thành đã được kiểm nghiệm trong một đức tính cương
nghị, trong khả năng quyết định chín chắn, và một óc phê phán xác đáng về con
người và về các biến cố... họ phải được huấn luyện cho có tính thần quả cảm, và
nói chung, phải biết quý chuộng những đức tính mà người đời thường quý chuộng
và không thể thiếu nơi các thừa tác viên của Chúa Kitô, thí dụ như lòng thành
thực, chuyên lo giữ đức công bình, đức tín trung, cư xử lịch thiệp, khiêm tốn
và bác ái trong ngôn từ".[40]
Các đức tính tự nhiên này được coi như cái nền cho việc xây dựng đời sống
thiêng liêng, và cũng được coi như là yếu tố cấu thành cho sự thánh thiện của
linh mục.
Việc nên thánh của linh mục, được hiểu như một điều bình thường của linh
mục, tuy nhiên nó mang những đòi hỏi thật tận căn nơi các ngài. Công đồng
Vaticanô II nhận thức điều này và đã giới thiệu cho các linh mục, ngoài việc
thi hành các tác vụ, những phương tiện khác để nên thánh. Công đồng nói : "Để
có thể sống kết hợp mật thiết hơn với Chúa Kitô trong mọi cảnh ngộ cuộc đời,
ngoài việc thực hành một cách ý thức thừa tác vụ của mình, các linh mục còn
hưởng nhờ những phương tiện chung và riêng, mới và cũ mà Chúa Thánh Thần không
bao giờ ngừng khơi dậy trong Dân Chúa và Giáo Hội hằng khuyến khích, đôi khi
còn buộc dùng, để thánh hóa các chi thể mình".[41]
Như vậy lòng sùng mộ Chúa Thánh Thần được coi như một yếu tố căn bản của sự
thánh thiện linh mục. Rồi Công đồng kể ra các phương tiện khác như : sống Lời
Chúa, cử hành Thánh Thể. Đây là hai phương tiện quan trọng hơn cả.[42]
Rồi đến việc năng lãnh nhận bí tích Cáo giải,[43]
lòng yêu mến Đức Trinh Nữ Maria.[44]
Việc viếng Mình Thánh Chúa và thờ lạy Chúa Kitô trong Thánh Thể.[45]
Việc cầu nguyện riêng và tâm nguyện.[46]
Việc khổ chế, một yếu tố của mọi tín hữu theo Chúa Kitô, với linh mục đó là một
thái độ tự nhiên phát xuất từ Hy tế Thánh Thể mà các ngài cử hành : "và
như thế các ngài được mời gọi bắt chước điều các ngài đang thi hành, vì khi cử
hành mầu nhiệm Chúa chịu chết, các Ngài phải lo khắc chế chi thể mình khỏi mọi
tật xấu và dục vọng".[47]
Với các lời khuyên Phúc Âm, như vâng lời,[48]
trong sạch [49]
và khó nghèo,[50]
tất cả đều được Công đồng mời các linh mục tuân thủ, nhưng với lý do là để nên
giống Chúa Kitô mục tử gương mẫu [51]
và làm phát sinh các hiệu quả mục vụ. Về đức vâng phục và khiêm tốn, Sắc lệnh Chức
linh mục đã khẳng định rõ ràng : "Trong những đức tính cần thiết
hơn cả cho chức vụ linh mục phải kể đến thái độ này, là bao giờ cũng sẵn sàng
tìm ý muốn Đấng đã sai mình chứ không tìm ý riêng... Vậy đức bác ái mục vụ thôi
thúc các linh mục đang hoạt động trong mối thông hiệp này biết hy sinh ý riêng
mình, qua việc vâng phục Chúa và anh em, bằng cách lấy đức tin mà lãnh nhận và
tuân theo những gì được Đức Giáo Hoàng, Đức Giám mục của mình, cũng như các Bề
trên khác truyền dạy và khuyên bảo, bằng cách hoàn toàn sẵn lòng tự hiến và tự
hiến hết mức trong bất cứ chức vụ nào đã được trao phó cho mình dù là thấp kém
và nghèo hèn".[52]
Sự tự hiến toàn diện của linh mục cho Thiên Chúa và cho nhân loại còn được cụ
thể hóa trong đời sống độc thân, như lời Công đồng nói : "Sự chế dục
hoàn toàn và vĩnh viễn vì Nước Trời vừa là dấu chỉ vừa là niềm khích lệ đức bác
ái mục vụ và là nguồn mạch đặc biệt làm phát sinh đời sống thiêng liêng phong
phú trên thế giới".[53]
Còn về đời sống khó nghèo, Công đồng căn dặn cách thật cụ thể như sau : "Vì
thế, các linh mục cũng như giám mục, được Chúa Thánh Thần hướng dẫn, Ngài là
Đấng đã xức dầu cho Chúa Cứu Thế và sai đi giảng Phúc Âm cho người nghèo khó,
phải tránh tất cả những gì bằng cách này hay cách khác có thể làm mình xa cách
người nghèo khó, và hơn các môn đệ khác của Chúa Kitô, các ngài phải loại bỏ
mọi thứ khoe khoang trong các đồ dùng của mình. Các ngài phải xếp đặt chỗ ở thế
nào để không ai coi đó là nơi bất khả xâm phạm, và để không ai dù nghèo hèn đến
đâu phải sợ hãi không bao giờ dám lui tới".[54]
Công đồng cũng khuyên các linh mục hãy dùng tới phương thế tĩnh tâm thiêng
liêng, việc đối thoại huynh đệ với một cha linh hướng [55]
hay một linh mục có kinh nghiệm thiêng liêng sâu xa và đầy bác ái. Đến đây
chúng ta phải nói tới một nhu cầu khá quan trọng, đó là trong mỗi giáo phận,
mỗi vùng, nếu có được những linh mục gương mẫu và là những điểm hướng định, bàn
hỏi, xưng tội mà anh em linh mục khác dễ dàng chạy tới, thì đó là phúc lớn cho
giáo phận và hàng linh mục.
Nhưng một điều khác thật quan trọng và là nét nổi bật của sự thánh thiện
mục vụ của linh mục, con người vừa sống đời kết hiệp với Thiên Chúa, lại vừa xả
thân thi hành các tác vụ mục tử : đó là việc thống nhất đời sống của linh mục.
Điều này được trình bày một cách rõ ràng trong số 14 của Sắc lệnh Chức linh
mục. Công đồng đưa ra một nhận định cụ thể, đó là ngày người ta nhận thấy
có sự phân hóa trầm trọng của con người trong các sinh hoạt hằng ngày. Các linh
mục cũng rơi vào tình trạng phân hóa này khi lãnh nhận bao nhiêu trách nhiệm,
bao công việc, rồi thời giờ của họ bị chia cắt. Linh mục thấy cần phải thống
nhất đời sống mình. Tuy nhiên họ không thể thực hiện việc thống nhất đời sống
này qua việc tổ chức đời sống mà thôi, nhưng nhất là bằng cách theo gương Chúa
Kitô trong việc chu toàn tác vụ : lo tìm thánh ý Thiên Chúa trong tất cả và
hiến thân cho đoàn chiên. Với ý thức này, linh mục nắm vững được nguyên lý
hướng dẫn và thống nhất đời sống mục vụ của mình trong mọi sinh hoạt hằng ngày.
Cụ thể là nguyên tắc sau đây : "Để có thể thực hiện sự thống nhất đời
sống cách cụ thể, các linh mục phải xét đoán mọi hoạt động của mình cho biết rõ
đâu là ý muốn của Thiên Chúa, nghĩa là biết rõ những hoạt động đó có thích hợp
với tiêu chuẩn của sứ mệnh Phúc Âm của Giáo Hội hay không" (s. 14).
Chúng ta còn có thể kéo dài suy tư và cảm nghiệm về chân dung của người
linh mục theo Công đồng Vaticanô II. Những suy tư này bắt nguồn từ cái nhìn đức
tin của các giám mục tham dự Công đồng, về chức linh mục và đời sống mục vụ của
các linh mục, với vui mừng cũng như mối lo âu trong khi thi hành các tác vụ của
mình và lo âu về sự hoàn thiện của mình. Tất cả được kêu mời để cầu nguyện cho
các linh mục, nhất là trong Năm Linh mục này. Ở đây tôi xin giới thiệu một Kinh
cầu cho các linh mục của Nữ tu Têrêsa Casini, sáng lập Dòng Các Nữ Tu Tận hiến
cho Thánh tâm Chúa Giêsu (Congregazione delle Suore Oblate al Sacro Cuore di
Gesù, Italia), một Dòng có đặc sủng cổ võ ơn gọi linh mục và cầu nguyện cho
việc thánh hóa các linh mục.
Kinh cầu cho các linh mục
Lạy Cha chí thánh,[56]
xin thánh hóa các linh mục của Cha,
xin thánh hóa họ trong chân lý,[57]
xin gìn giữ họ nhân danh Cha.[58]
Chớ gì tình yêu ở trong họ,[59]
cùng với tình yêu đó Cha đã yêu thương
Con của Cha là Thiên Chúa.
Xin Cha gìn giữ họ khỏi sự dữ.[60]
Họ còn ở trong thế gian [61]
và thế gian ghét ghen họ.[62]
Xin Cha gìn giữ họ.
Họ là của Cha.[63]
Xin đừng để một người nào
bị hư mất,[64]
dù chỉ một người thôi
trong số những người Cha
đã trao phó cho Con Cha.[65]
Lạy Chúa Giêsu,
xin Chúa nâng đỡ, tăng
sức mạnh66,[66]
cứu rỗi các linh mục của Cha.[67]
Lạy Thánh Thần Thiên Chúa,[68] là tình yêu,
xin đổ tràn trong họ đức
ái của Chúa.[69]
Xin Chúa dẫn đưa họ,
như Chúa đã dẫn đưa Chúa Giêsu,[70]
cho tới Thập Giá.[71]
Xin thương để các linh
mục
cũng là những hiến lễ
tình yêu [72] :
cho Thiên Chúa,
cho chính anh chị em của
họ
cho tất cả các linh hồn.[73] Amen.
Lời kinh này có một cơ cấu Ba Ngôi, gồm ba phần và lời
cầu nguyện tuyên xưng lên với Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần. Lời kinh
hầu hết gợi hứng từ Kinh Thánh, nhất những chương 14, 15, 16 và 17 của Phúc Âm
Thánh Gioan, như chúng ta thấy qua các chú thích. Lời Kinh có một cái nhìn thần
học khá đầy đủ về chức linh mục – cho dù được trình bày trong lối văn cầu
nguyện – như : chức linh mục là ơn huệ của Chúa Cha ban cho một số người, như
Chúa Cha đã đặt chính Chúa Kitô Con của Ngài làm thượng tế muôn đời; để lo phần
rỗi cho thế giới trong chính thế giới mà họ đang sống qua hy tế đời sống và qua
chính hy tế thập giá, và qua việc dâng hy tế của Chúa Kitô. Lời kinh không nói tới
việc thực thi ba tác vụ rao giảng, thánh hóa và cai quản, như trong giáo huấn
của Công đồng Vaticanô II. Việc thánh hiến này được thực hiện do Chúa Thánh
Thần. Đây là một điều khá mới mẻ, trong bối cảnh trước đây hơn 100 năm.
Rôma, ngày 13-6-2009
Lm. Phanxicô Borgia Trần
Văn Khả
[1] X. Dt 5, 1. X. Sắc lệnh Chức
linh mục, s. 3.
[2] Bruno
Secondin – Tullo Goffi (edd.), Corso di spiritualità. Esperienza –
Sistematica – Porjezioni, Ediz. Queriniana Brescia 1989, tr. 602.
[3] Sắc lệnh Chức
linh muc, s. 1.
[4] Ủy ban
Giám mục về Giáo sĩ và Chủng viện của Hội đồng Giám mục Pháp đã công bố một tài
liệu học hỏi về đề tài này trong cuốn sách mang tựa đề như sau : Commissione
Episcopale Francese del Clero e dei Seminari, I Sacerdoti nel Pensiero del
Vaticano II, Edizione dell’Unione Apostolica del Clero, Roma, 1966 (bản
dịch tiếng Ý của các Ủy ban Giáo sĩ toàn quốc và một số Ủy ban giáo phận tại
Ý); nguyên bản tiếng Pháp 1965 : Les prêtres dans la pensée de Vatican II, Editions
du Vitrail, Paris 1965.
[5] Sắc lệnh Chức
linh mục, s. 12.
[6] Hiến chế Ánh
sáng muôn dân, s. 26.
[7] X. Sắc
lệnh Chức linh muc, s. 2.
[8] X. Nt.,
s. 2.
[9] X. Nt.,
s. 2.
[10] Sắc lệnh Chức
linh mục, s. 2.
[11] Nt., s. 3.
[12] Nt., s. 1.4.
[13] Lc 10,42.
[14] Nt., s. 2.
[15] Nt., s. 2.
[16] Sắc lệnh Chức
linh mục, s. 2.
[17] Bản văn
Latin của Sắc lệnh : Ad vitam divinam provehendam (Đời sống Thiên Chúa).
[18] X. St 28,10-18.
[19] X. Hiến
chế về Phụng Vụ Thánh Công đồng chung, s. 7.
[20] Sắc lệnh Chức
linh mục, s. 12.
[21] Sắc lệnh Chức
linh mục, s. 12.
[22] Giám mục
chủ sự lễ truyền chức linh mục nhắn nhủ ở phần đầu với tín hữu và với các ứng
sinh như sau : “Vì phải nên giống Đức Kitô Thượng tế muôn đời, phải liên kết
với chức tư tế của Giám mục, thày sẽ được thánh hiến tư tế thật sự của Tân Ước,
để rao giảng Phúc Âm, chăn dắt dân Thiên Chúa và cử hành việc phụng tự nhất là
trong Thánh Lễ”. Nói với các ứng sinh : “Còn con thân mến, con sắp lên
chức linh mục, con sẽ thi hành nhiệm vụ giảng huấn trong Chúa Kitô là Thầy
chúng ta. Con đã vui mừng lãnh nhận Lời Chúa, con hãy đem ra phân phát cho mọi
người. Khi suy gẫm luật Chúa, con hãy chú tâm tin điều con đọc, dạy điều con
tin và thi hành điều con dạy. Vậy giáo lý của con phải nên lương thực nuôi dân
Thiên Chúa, hương thơm đời sống của con phải nên niềm vui thú cho các tín hữu
Đức Kitô, để lời nói và gương lành của con xây dựng nhà Thiên Chúa là Hội
Thánh”, trong Nghi Thức Phong Chức Giám mục, Linh mục và Phó tế, Bản
dịch của Hội đồng Giám mục Việt Nam, dịch theo bản mẫu năm 1990 và đã được Hội
nghị Giám mục Việt Nam năm 1991 cho phép tạm dùng, tr. 104. X. Hiến chế Ánh
sáng muôn dân, s. 27 : “Sau hết, vất vả truyền giáo và dạy dỗ (1Tm 5,17),
linh mục tin những gì các ngài được thấy và suy niệm trong lề luật Chúa, dạy dỗ
những điều mình tin và thực hành những điều mình dạy” .
[23] Sắc lệnh Chức
linh mục, s. 3.
[24] Mt 5,48; Sắc
lệnh Chức linh mục, s. 12; Hiến chế tín lý về Giáo Hội Ánh sáng muôn
dân, chương V.
[25] X. Sắc
Lệnh Chức linh mục, s. 12; x. Hiến chế tín lý về Giáo Hội Ánh sáng
muôn dân, s. 28. 41.
[26] Sắc lệnh Chức
linh mục, s. 12. 27
[27] Ml 2,7.
[28] Sắc lệnh Chức
linh mục, s. 12. 15.
[29] Nt., s.
12. Trong Nghi thức Thánh Lễ, chúng ta đọc được những kiểu nói diễn tả tâm thức
bất xứng mà linh mục cảm nhận được khi đứng trước toà Thiên Chúa, khi dâng tiến
hy lễ cao cả cực thánh : Kinh Cáo Minh và Kinh Thương Xót; trươc khi
công bố bài Phúc Âm : “Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin thanh tẩy tâm hồn và
môi miệng con, để con xứng đáng và đủ tư cách công bố Tin Mừng của Chúa”.
Khi linh mục rửa tay : “Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con
phạm, xin Ngài thanh tẩy”. Hoặc lời kinh Tưởng nhớ sau Truyền Phép (Kinh
nguyện Thánh Thể II) : “Vì vậy lạy Chúa, khi kính nhớ Con Chúa chịu chết và
sống lại, chúng con dâng lên Chúa bánh trường sinh và chén cứu độ để tạ ơn Chúa,
vì Chúa đã thương cho chúng con được xứng đáng hầu cận trước Tôn nhan và phụng
sự Chúa”. Kinh đọc trước khi ban bình an và trước khi rước lễ : “Xin
đừng chấp tội chúng con, nhưng xin nhìn đến đức tin của Hội Thánh Chúa; xin
đoái thương ban cho Hội Thánh được bình an và hợp nhất theo thánh ý Chúa”.
[30] Nt., s.
15.
[31] Sắc lệnh Chức
linh mục, s. 18.
[32] Nt., s.
12.
[33] Nt., s.
12. 13.
[34] Nt., s.
12.
[35] Nt., s.
13.
[36] Nt., s.
13.
[37] Nt., s.
12.
[38] Nt., s.
12.
[39] Sắc lệnh Chức
linh mục, s. 3.
[40] Sắc lệnh
về đào tạo linh mục Mọi người mong ước (Optatam totius), 28-10-1965, s.
11.
[41] Sắc lệnh Chức
linh mục, s. 18.
[42] Nt., s.
18. Lời Chúa được đào sâu để giúp cho đời sống thiêng liêng của linh mục như
cách thế lectio divina : đọc lời Chúa với suy tư và cầu nguyện.
[43] Nt., s.
18.
[44] Nt., s.
18.
[45] Nt., s.
18.
[46] Nt., s.
18.
[47] Nt., s.
13.
[48] Nt., s. 15
[49] Nt., s.
16.
[50] Nt., s.
17.
[51] Với đức
khó nghèo Sắc lệnh nói như sau : “Thật vậy, vì nhận Chúa là phần và là gia
nghiệp của mình (Ds 18, 20), nên các linh mục chỉ được sử dụng những của
cải trần gian vào những mục đích mà giáo lý Chúa Kitô và quy luật của Giáo Hội
ấn định” (s. 17).
[52] Nt., s.
15.
[53] Nt., s.
16.
[54] Nt., s.
17.
[55] Nt., s.
18.
[56] X. Ga 17,11.
X. Ga 17,25 chúng ta có lời cầu khẩn : “Lạy Cha công chính” (Pater
iuste).
[57] X. Ga 17,17 : “Xin Cha thánh
hóa họ trong chân lý” (Sanctifica eos in veritate). Ga 17,19
: “Vì chúng mà Con đã thánh hóa chính mình Con, để chính họ cũng được thánh
hóa trong chân lý” (et pro eis ego sanctifico me ipsum, ut sint et ipsi
et ipsi sanctificati in veritate).
[58] Ga 17,11-12 : “Lạy Cha chí thánh,
xin gìn giữ họ nhân Danh Cha. Danh mà Cha đã ban cho Con, để họ nên một như
Chúng Ta. Khi Con còn ở với họ, Con đã gìn giữ họ nhân Danh Cha, Danh mà Cha đã
ban cho Con và Con đã giữ lấy, và không ai trong họ hư mất, trừ người con của
sự hư mất, để Kinh Thánh được nên trọn”” (Pater sancte, serva eos in
Nomine tuo quod dedisti mihi, ut sinh unum sicut nos. Cum essem cum eis, ego
servabam eos in Nomine tuo quod dedisti mihi et custodivi, et nemo ex his
periit, nisi filius perditionis, ut Scriptura impleatur).
[59] X. Ga 15,8.
[60] X. Ga 17,15 : “Con không cầu
xin để Cha đưa họ ra khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi sự dữ” (Non
rogo ut tollas eos de mundo, sed ut serves eos ex Malo).
[61] X. Ga 17,11 : “Và Con không ở
trong thế gian, nhưng họ còn ở trong thế gian, còn Con thì về cùng Cha” (Et iam non sum in mundo, et hi in mundo
sunt, et ego ad te venio).
[62] X. Ga 15,19.
[63] Ga 17,9-10 : Con cầu xin cho họ; Con
không cầu xin cho thế gian, nhưng cho những người đó mà Cha đã ban cho Con, vì
họ là của Cha. Và những gì là của Con thì cũng là của Cha và những gì là của
Cha cũng là của Con” (Ego pro eis
rogo; non pro mundo rogo sed pro his quos dedisti mihi, qui tui sunt, et mea
omnia tua sunt et tua mea).
[64] X. Ga 17,12.
[65] X. Ga 17,3-4.
[66] X. 2Tm 2,1 : “Phần con, con
thân mến của cha, hãy tăng cường sức mạnh trong ân sủng nơi Chúa Kitô Giêsu” (Tu ergo, fili mi, conforare in gratia quae
est in Christo Iesu”.
[67] X. 2Ks
6,41 : trong lời cầu nguyện khi thánh hiến đền thờ, Vua Salomon kêu xin cho các
linh mục, tư tế như sau : “Lạy Chúa là Thiên Chúa, xin cho linh mục của Chúa
mặc lấy ơn cứu rỗi và các tín hữu của Chúa được hưởng sự thịnh vượng dồi dào” .
[68] X. Kn 1,7. Lc 4,12.
[69] X. Rm 15,30 : “Vì thế, thưa anh
em, vì Chúa chúng ta Đức Kitô Giêsu và vì tình yêu của Chúa Thánh Thần, tôi
khẩn nài anh em : hãy chiến đấu với tôi bằng lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa
để tôi được cứu thoát khỏi các người vô đạo ở Giuđêa và cho việc phục vụ của
tôi tại Giêrusalem được các thánh thương chấp nhận” .
[70] X. Lc 4,1.
[71] Mt 10,38 : “Ai không đón nhận thập giá
mình và theo Ta thì không đáng là môn đệ của Ta” (et qui non avvipit crucem suam et sequitur me, non est me dignus).
Ga 19,17 : “Và Chúa Giêsu vác lấy thập giá trên mình, và ra đi tới
nơi gọi là Calvario” .
[72] X. Rm 12,1 : “Vì vậy tôi
khuyên anh em, thưa anh em, vì lòng nhân từ của Thiên Chúa, hãy dâng hiến thân
xác anh em làm hiến lễ sống động và đẹp lòng Thiên Chúa” .
[73] X. Dt 7,27 : “Ngài không cần, như
các thượng tế khác phải dâng hiến lễ mỗi ngày, trước là để đền bù tội lỗi mình
và sau là đền bù tội lỗi của dân”.