Suy tư về Năm Linh Mục
(Vietcatholic 24 Mar 2010 13:19)
Suy tư về Năm Linh Mục
Từ Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu năm 2009 cho
tới Lễ Thánh Tâm Chúa Giêsu năm 2010 (11 tháng 6) đã được Giáo Hội chọn làm Năm
Linh Mục để mọi con cái của Giáo Hội, Linh Mục cũng như giáo dân, có dịp nhìn
lại và nhận chân được các giá trị chân chính và thánh thiêng của sứ vụ Linh Mục
rập theo mẫu mực Đức Kitô, vị Linh Mục tối cao.
1. Đức Kitô muốn luôn có họ ở bên Người
Ngày nay người ta thường nghe các giáo dân
thuộc nhiều xứ đạo ở khắp nơi trên thế giới nuối tiếc: „Giáo xứ chúng tôi đã
khá lâu rồi không có cha Quản Xứ nữa“. Thực trạng các giáo xứ thiếu Linh
Mục phụ trách công tác mục vụ là một trong những vấn đề bức xúc nhất hiện nay
của Giáo Hội. Vì thế, trong Giáo Hội đã có nhiều suy tư, nhiều đề nghị và nhiều
chương trình canh tân, cải tổ và chỉnh đốn thế này thế kia, hầu mong cho đời
sống giáo xứ nói chung và các sinh hoạt mục vụ trong giáo xứ nói riêng vẫn được
xuôi chảy bình thường, chứ không bị mất mát, xáo trộn hay trì trệ.
Nhưng ở đây có lẽ người ta cũng cần tự hỏi:
Điều gì là trọng tâm của sứ vụ Linh Mục? Hay: sứ vụ quan trọng nhất của người
Linh Mục là gì?
Trước những câu hỏi như thế người ta thường
trả lời: Sứ vụ chính yếu của Linh Mục là cử hành Thánh Lễ, ban phát các Bí
tích, các lễ nghi phụng vụ, thăm viếng và an ủi các người bất hạnh, các người
đau ốm bệnh tật hay các người nghèo đói túng thiếu, neo đơn, v.v...!
Những câu trả lời trên đây hay những câu
trả lời khác tương tự như thế chắc chắn không sai. Nhưng người ta cũng không
nên quên tự hỏi: Mục tiêu đầu tiên mà Đức Kitô nhằm tới khi Người kêu gọi các
Tông đồ là gì? Hay: Đức Kitô đã kêu gọi các Tông đồ trước hết là để làm gì?
Tất nhiên câu trả lời phải là: Đức Kitô
muốn luôn có họ bên Người, Người muốn cùng họ lập nên một cộng đồng huynh đệ
hợp nhất và sống động, một gia đình đầy yêu thương trong tình yêu và sự hợp
nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi. Dĩ nhiên, Người cũng đã sai họ đi loan báo Tin
Mừng Nước Trời cho người khác.
Chúng ta có thể đưa ra một so sánh: Trước
khi xuất hiện công khai với các tác phẩm xuất sắc của mình, thì nhà họa sĩ đã
phải trau dồi năng khiếu của mình trong bao lâu? Hay: Trước khi xuất hiện trước
công chúng, người nghệ sĩ đã phải miệt mài luyện tập nghề nghiệp sân khấu của
mình trong bao lâu? Hay: Trước khi tham dự một cuộc thi thế vận hội, nhà thể
thao đã phải khổ luyện và tập dượt lâu như thế nào?
Cũng tương tự như thế: Phải sống với Đức
Kitô trong bao lâu thì người Linh Mục mới thấm nhuần được giáo huấn của Người
và nhất là mới có thể biết rõ về Người và mới có thể yêu mến Người hết lòng và
mới có thể nói chính xác về Người cho những người khác?
Dĩ nhiên, một thực tại quá hiển nhiên không
thể phủ nhận được, đó là công tác mục vụ của các Linh Mục ngày nay trong các
giáo xứ như vừa đề cập tới ở trên là nhiều khi vượt khả năng, nếu không nói là
bất khả kham: một mình phải phụ trách nhiều giáo xứ, nên đặc biệt vào các ngày
Chúa Nhật và các ngày Lễ trọng phải dâng lễ hết nhà thờ này lại phải đến nhà
thờ kia. Tất cả phải cấp tốc vội vàng, phải kịp giờ. Đó là chưa kể đến việc an
táng, rửa tội, dạy giáo lý, v.v…
Nhưng kết quả sẽ ra sao, nếu một người nghệ
sĩ không còn kiên trì trau dồi công việc nghệ thuật của mình? nếu một nhà thể
thao không còn ham thích luyện tập môn thể thao chuyên biệt của mình? Và cũng
thế, công tác mục vụ của một người Linh Mục sẽ mang lại được những gì, nếu
người Linh Mục không còn sống kết hiệp mật thiết với Đức Kitô qua việc suy gẫm
lời Chúa, qua các kinh nguyện hằng ngày, qua việc cử hành sốt sắng Bí tích
Thánh Thể? Thử hỏi trong trường hợp như thế, thì người Linh Mục vẫn còn có thể
san sẻ và thông ban cho những người khác được những gì? Phải chăng ngài vẫn có
thể mang Đức Kitô đến cho người khác, trong khi chính ngài lại xa lìa Đức Kitô
hay không có quan hệ mật thiết với Người?
Dĩ nhiên, vấn đề được nêu lên ở đây không
phải là để chê trách hay phàn nàn, nhưng là để nêu lên những bức xúc và khắc
khoải thực tiễn trong đời sống người Linh Mục hôm nay.
2. Sứ vụ Linh Mục là một ơn huệ Thiên
Chúa ban nhưng không
Sứ vụ Linh Mục không phải là một „Job“,
không phải là một nghề nghiệp, nhưng là một ơn huệ Thiên Chúa ban cho con người
một cách nhưng không, chứ hoàn toàn không phải do công trạng hay sự xứng đáng
về phía con người. Vì thế, không một ai có thể tự „làm“ cho mình trở
thành Linh Mục được, nhưng tuyệt đối do chính Thiên Chúa kêu mời và tuyển chọn.
Vâng, qua Bí tích Truyền Chức, người Linh Mục được lãnh nhận sứ vụ Linh Mục và
những ơn huệ cần thiết để ngài thực thi sứ vụ đó một cách xứng đáng và đầy đủ.
Một điều quan trọng ở đây là những gì người Linh Mục được lãnh nhận từ Thiên
Chúa, là chỉ vì sứ vụ Linh Mục mà thôi, chứ không phải vì việc nên thánh của cá
nhân ngài, nghĩa là chỉ cốt giúp cho người Linh Mục thực thi sứ vụ của mình mà
thôi. Nói cách khác, những gì người Linh Mục được lãnh nhận, ngài phải tiếp tục
thông ban ra cho người khác, chứ ngài không được giữ riêng cho mình.
Để nắm bắt được điều đó, chúng ta có thể
làm một ví dụ: Sứ vụ người Linh Mục cũng có thể so sánh với trách nhiệm một
huấn luyện viên đối với đội banh của mình. Mà trách nhiệm của một huấn luyện
viên là lo sao cho đội banh do ông phụ trách phải có khả năng chơi tốt và mang
lại kết quả tốt. Cũng vậy, sứ vụ người Linh Mục là lo sao cho mọi thành phần
giáo xứ của ngài thực sự sống đạo sốt sắng, thực sự sống đúng tinh thần Phúc
Âm. Dĩ nhiên, qua Bí tích Truyền Chức, người Linh Mục đã được ban cho đặc sủng
(Charisme) để ngài có thể chu toàn được sứ vụ thiêng liêng đó của mình kèm theo
sự nổ lực trở nên hoàn thiện mỗi ngày của cá nhân.
3. Rao giảng Lời Chúa và cử hành các Bí
tích là hai bổn phận chính yếu của người Linh Mục
Việc rao giảng lời Chúa trong việc cử hành
lễ nghi thờ phượng cũng như trong việc cử hành các Bí tích và qua chính đời
sống cá nhân là những bổn phận chính yếu của sứ vụ Linh Mục. Dĩ nhiên, ý niệm
„lễ nghi thờ phượng„ không bị giới hạn trong việc rao giảng lời Chúa và việc cử
hành các Bí tích. Vào thế kỷ IV, thánh Chrysostomus đã nói về điểm này rằng Bí
tích Bàn Thờ (Bí tích Thánh Thể) và Bí tích người ghèo khổ (sự thực thi đức bác
ái) là chính việc thờ phượng vậy. Bí tích Bàn Thờ phải được cụ thể hóa trong
tình yêu đối với người khác. Nhờ thế, „hoa quả“ của Thánh Thể Chúa được
trở nên đầy đủ trọn vẹn một cách cụ thể trong cuộc sống.
4. Đồng hành với các Linh Mục bằng kinh
nguyện và cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh Mục
Ngày nay, những đòi hỏi nơi các Linh Mục
nhiều và đa dạng. Thật vậy, ngoài những bổn phận chính yếu trong sứ vụ tông đồ
của mình, người Linh Mục còn phải là:
* một người có tâm hồn cầu
nguyện,
* nắm vững các kiến thức thần
học,
* đầy lòng thông cảm và nhân hậu
của Đức Kitô khi ngồi tòa giải tội,
* hiểu biết và dẫn dắt tốt thanh
thiếu niên,
* có lòng kính yêu các bậc lão
thành,
* có lòng yêu mến, thông cảm và
biết an ủi kẻ đau ốm bệnh tật cũng như người nghèo khổ một cách vô vị lợi,
* điều hành và quản trị tốt các
tổ chức và đoàn thể trong giáo xứ.
Vì lý do các trách nhiệm đầy phức tạp, nặng
nề và quá tải của đời sống Linh Mục hôm nay trong các giáo xứ, trong khi chính
người Linh Mục cũng chỉ là một con người bình thường với các khiếm khuyết như
bao người khác, nên các Linh Mục cần được nâng đỡ bằng kinh nguyện hầu các ngài
có thể chu toàn được các bổn phận đa dạng của mình.
Bởi vậy, nhiều Dòng Tu và nhiều đoàn thể
trong Giáo Hội có điều luật đặc biệt hay truyền thống thánh thiện, là dành một
thời giờ nhất định nào đó trong ngày để chầu Mình Thánh Chúa và cầu nguyện cho
Đức Thánh Cha, cho các Đức Giám Mục và các vị Linh Mục cũng như cho tất cả
những ai có trách nhiệm trong Giáo Hội. Những giờ chầu Mình Thánh Chúa và những
lời cầu nguyện sốt sắng như thế thực sự là một „dòng điện kinh nguyện“,
như Đức Thánh Cha đòi hỏi, vụt bay lên tận Trời Cao, hầu không những làm cho
Thiên Chúa củng cố các vị Linh Mục trong sứ vụ của họ mà Người còn tiếp tục kêu
mời các thanh thiếu niên biết hăng hái hy sinh chọn lý tưởng sống Linh Mục.
Điều đó cũng muốn xác nhận rằng, cách thức
đồng hành và nâng đỡ các Linh Mục cũng như cầu nguyện cho ơn thiên triệu Linh
Mục một cách đúng đắn và có hiệu quả nhất là việc tham dự sốt sắng các Thánh
Lễ, các giờ chầu Thánh Thể và lần hạt Mân Côi. Vâng, chính những lời cầu nguyện
đơn sơ, thành tâm và đầy lòng tin tưởng phó thác là cách thức „làm mủi lòng“
Thiên Chúa nhất, và đồng thời cũng được Người đáp trả lại một cách tương xứng.
5. Đòi hỏi sự can đảm hy sinh
Chính trong thời đại hôm nay, một thời đại
thiếu vắng các Linh Mục một cách trầm trọng, người Linh Mục càng cần phải biết
hy sinh và quên mình hơn bao giờ hết. Và sự hy sinh quên mình đó được cụ thể
hóa không chỉ luôn sẵn sàng vui vẻ ban phát các Bí tích, nhưng còn luôn biết
sẵn sàng sống cho người khác như một người bạn chân tình và trung thành nhất,
một người bạn không quản ngại hy sinh các quyền lợi cá nhân để giúp đỡ, an ủi
và mang lại niềm vui cho người khác khi họ cần đến mình. Bởi vậy, người ta
thường so sánh sứ vụ người Linh Mục với bổn phận người lính cứu hỏa: hễ ở đâu
và vào bất cứ lúc nào có hỏa hoạn là người lính cứu hỏa đều phải có mặt tại
chỗ, vâng, vào bất cứ lúc nào và ở bất cứ đâu, hễ giáo dân có nhu cầu khẩn cấp
và cần đến sự giúp đỡ của Linh Mục, cần được hưởng các Bí tích, nhất là Bí tích
Hòa Giải, thì ngài cần phải có mặt.
Ngày 16.6.2009, trong phần mở đầu Tông Thư
của ngài, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã viết: „Các Linh Mục không bao giờ
được phép chán nản thất vọng khi nhìn thấy tòa giải tội trống vắng hay rút lui
khi thấy các tín hữu không còn thiện cảm với Bí tích này nữa“.
Chính trong trường hợp cụ thể ấy, đòi hỏi
người Linh Mục phải biết nhẫn nhục hơn bao giờ hết. Nói cách khác, người Linh
Mục luôn phải biết sẵn sàng ban phát Bí tích Hòa Giải, sẵn sàng ngồi tòa giải
tội bất cứ lúc nào, ngay cả trước hay sau Thánh Lễ. Ngoài ra, ngài còn luôn sẵn
sàng hy sinh thời giờ riêng tư cho các nguyện vọng chính đáng của giáo dân, như
các dịp tang chế, các vấn đề gia đình, hoàn cảnh thất nghiệp, tản cư, v.v…
Nhưng đồng thời người Linh Mục cũng không bao giờ quên sống điều ngài cầu
nguyện trong Kinh Nhật Tụng: „Lạy Chúa Kitô, con luôn kết hiệp với Chúa hết
cả sức lực và hết cả linh hồn con. Con chỉ yêu mến một mình Chúa, con chỉ tìm
kiếm một mình Chúa và con chỉ bước theo một mình Chúa mà thôi“.
Lm Nguyễn Hữu Thy