Tại Sao Gọi Là CHỨC LINH MỤC
Với hình thức cắt nghĩa chức năng linh mục như một tác vụ được cộng đoàn
Dân Chúa giao phó để thi hành công việc mục vụ, thần học của nhóm Cải Cách Tin
Lành, từ thế kỉ 16, đã đối lập hoàn toàn với lối cắt nghĩa thần học về chức
năng linh mục của giáo hội Công Giáo, và đã tạo nên một hiểu lầm lớn cho những
người Công giáo không hiểu thấu đáo giáo huấn của Giáo Hội trong chức năng này.
Câu hỏi được đặt ra là: có phải linh mục là một Chức hay không? Hay
chỉ là một thừa tác vụ được kêu gọi để phục vụ? Và trong Thánh Kinh
không thấy nói đến Chức này, vậy Chức này hình thành khi nào?
Trước hết, hãy đọc lại lời dạy của Giáo Hội trong giáo lí Công Giáo số
1536: “Chức Thánh là bí tích qua đó sứ mạng Chúa Ki-tô ủy thác cho các tông
đồ tiếp tục được thực hiện trong Hội Thánh cho đến tận thế; vì thế, được gọi là
bí tích của thừa tác vụ tông đồ. Bí tích này gồm 3 cấp bậc: giám mục, linh mục
và phó tế.”[1]
Tiếp đó, Giáo Hội đặt câu hỏi: Tại sao gọi Bí Tích này là Chức, và
đã trả lời như sau:
Số 1537 “Vào thời cổ Rô-ma, người ta dùng từ
"Ordo" để chỉ những tập thể dân sự, nhất là tập thể lãnh đạo.
"Ordinatio" chỉ việc được nhận vào tập thể đó. Trong Hội Thánh có
những tập thể như vậy mà truyền thống, phần nào dựa trên cơ sở Kinh Thánh (x.
Dt 5,6; 7,11; Tv 110,4), ngay từ xưa gọi là Taxeis (tiếng Hy lạp) hay
"Ordines" (tiếng La-tinh). Chẳng hạn, Phụng vụ nói đến hàng giám mục,
hàng linh mục, hàng phó tế. Nhiều nhóm khác cũng được gọi là "Ordo":
giới dự tòng, giới trinh nữ, giới vợ chồng, giới góa bụa….””
Số 1538 “Việc gia nhập vào một tập thể của Hội Thánh xưa
kia thường được cử hành bằng một nghi thức gọi là Ordinatio. Ðó là một hành vi
tôn giáo và phụng vụ, có thể là thánh hiến, chúc lành hay bí tích. Ngày nay, từ
Ordinatio dành riêng cho việc cử hành bí tích gia nhập hàng giám mục, linh mục
và phó tế. Việc này có giá trị hơn việc cộng đoàn bầu cử, chỉ định, ủy nhiệm
hay cắt đặt, vì ban hồng ân Thánh Thần cho phép thi hành một "quyền thánh
chức" (x. LG 10) do chính Chúa Ki-tô ban qua Hội Thánh. Ordinatio còn được
gọi là thánh hiến, nghĩa là được Ðức Ki-tô tách riêng và bổ nhiệm để phục vụ
Hội Thánh. Việc giám mục đặt tay và lời nguyện thánh hiến, làm nên dấu chỉ hữu
hình của sự thánh hiến này.”
Bối Cảnh Lịch Sử:
Giáo Hội, ngoài căn tính mầu nhiệm phản ảnh sự hiện diện của Chúa Kitô trên
trần gian, còn là một tổ chức xã hội hữu hình, với những cấu trúc chịu ảnh
hưởng của xã hội và học hỏi những ưu điểm của xã hội.
Về phương diện hành chính, giáo hội đã trưởng thành cùng với xã hội qua
những thăng trầm trong lịch sử, và đã học từ xã hội để tạo cho mình một phẩm
trật có hiệu quả trong hành trình tiếp tục công việc rao giảng Tin Mừng của
Chúa Giêsu Kitô.
Bí Tích Truyền Chức Thánh cho giám mục, linh mục và phó tế được nghi thức hoá cũng là kết qủa của
những học hỏi này.
Danh từ Chức được sử dụng từ thời cổ Roma. Với những người tìm hiểu
Thánh Kinh, họ không tìm thấy Chức trong những người được kêu gọi làm
Tiên Tri hay Tư Tế, họ cũng không tìm thấy bằng chứng Chúa Giêsu Kitô đã phong Chức
cho các tông đồ trong bữa ăn cuối cùng (Tiệc Ly), và không thấy nói đến các
Tông Đồ cũng như những người kế vị được phong Chức trong các thư ghi lại
trong Tân Ước.
Dĩ nhiên, bằng chứng về những người được tuyển chọn để tiếp tục sứ mạng rao
giảng Tin Mừng qua việc đặt tay của các Tông Đồ hay những người kế vị các Tông
Đồ thì rõ ràng trong Thánh Kinh, nhưng để gọi những người này lãnh nhận Chức
linh mục hay Chức giám mục thì không tìm thấy trong lịch sử giáo hội sơ
khai.
Vì thế, dù về phương diện lịch sử, họ không có nhận Chức như ta hiểu
ngày nay, nhưng về mặt tín lý, giáo hội luôn tin và dạy rằng Chức linh
mục hay giám mục họ lãnh nhận từ Chúa Giêsu Kitô qua việc đặt tay của các giám
mục là Bí Tích với Chức Năng không hề thay đổi và không hề khác với những gì
các linh mục và giám mục lãnh nhận ngày nay (dĩ nhiên cách giải thích và
nghi thức ngày nay hoàn toàn khác xưa).
Điều muốn nói ở đây không phải là những người xưa có chịu Chức hay
không, nhưng là Chức họ lãnh nhận đã hình thành thế nào trong lịch sử
giáo hội.
Lịch Sử Hình Thành Chức Trong Giáo Hội
Như trong giáo lí Công Giáo giới thiệu, từ vài thế kỉ trước công nguyên, xã
hội Hi Lạp-La Mã đã có một tổ chức chặt chẽ về hành chính. Trong xã hội, họ có
những Chức (tiếng Latin là Ordines – số nhiều) gồm có: chức nghị
viên (ordo senatorius), chức trưởng kị binh (ordo decurionum),
chức hiệp sĩ (ordo equester). Những người trong các chức vụ này được
kính trọng và những chức vụ tự nó, được coi là thánh thiêng (sacrosanct).
Thỉnh thoảng trong văn chương Hy-Mã, ta cũng tìm được “Chức người
dân” trong một vài sách lịch sử, nhưng Chức này không được phổ biến, và
tư tưởng “Chức người dân” (hay trong văn Latin gọi là ordo plebeius)
không thông dụng.
Trong xã hội Hy-Mã, họ phân biệt rõ ràng giữa những người có Chức
với những người dân thường.[2] Khi giáo
hội hình thành và đang tìm cho mình một mẫu mực về mặt tổ chức, xã hội thời đó
là đối tượng để giáo hội học hỏi theo.
Từ cuối thế kỉ thứ 2 vào đầu thế kỉ thứ 3, danh từ Chức (Latin, số
ít, Ordo) dần dần bắt đầu được áp dụng trong giáo hội cho các giám mục,
linh mục và phó tế.[3] Trong giáo hội, Chức cũng được
dùng để phân biệt với thường dân (populus), hay đúng hơn là giáo dân (laikos).
Tín lí của giáo hội dạy rằng Chức Linh Mục (hay giám mục, hay phó
tế) không là “quyền” của một giáo dân, nhưng là một ân huệ cho những người được
lựa chọn; nghĩa là, một Kitô hữu không đòi hỏi mình phải được làm linh mục (như
đòi hỏi được quyền tự do đi lại, tự do ngôn luận, hay tự do ứng/ bầu cử), nhưng
phải được giáo hội kêu gọi và chọn lựa để ban Chức này. Vì thế, một
người trở nên một vai vị có Chức trong Kitô giáo, không phải vì sinh ra
trong gia đình hay dòng dõi Lêvi như trong Cựu Ước, cũng không phải vì công đức
đóng góp cho giáo hội, nhưng được lựa chọn qua việc Phong Chức hay Truyền
Chức.
Qua việc chọn lựa và Phong Chức này, một nhóm mới được hình thành
gọi là Tu Sĩ (klerikos) để phân biệt với những người không có Chức
là giáo dân (laikos). Sự phân biệt này cũng nói lên vai trò lãnh đạo và
phục vụ của Tu Sĩ (klerikos) khác với người được phục vụ, giáo dân (laikos).
Thật ra việc Phong Chức và dùng danh xưng phân biệt Tu Sĩ với Giáo
Dân tự nó không tạo nên cách biệt về giai cấp, chức vụ, nghĩa là không phải vì
thế mà những Tu Sĩ trở nên cao trọng hơn, và Giáo Dân trở nên thấp kém hơn.
Điều làm cho cách biệt này xảy ra trong lịch sử là vì những lợi dụng quyền
năng đi đôi với chức vụ khiến Tu Sĩ trở thành một giai cấp cách ly với Giáo
Dân. Nói cách khác, phẩm trật tổ chức có thể là điều kiện nhưng tự nó không thể
gây nên sự phân biệt “Chủ-Tớ” mà là những người trong những địa vị ấy đã
sống không đúng với ý nghĩa đích thực của chức năng.
Về mặt thần học, ý nghĩa hiểu biết của những Chức này phát triển
chậm hơn nhiều so với phát triển của xã hội. Nghĩa là, đầu thế kí thứ 3, trong
giáo hội đã hình thành Chức giám mục, linh mục và phó tế, nhưng chưa có
một giải thích thần học nào rõ ràng để cắt nghĩa về căn tính của những Chức
này.
Lí do của những phát triển chậm này là vì (a) những hiểu biết về thần học
của Chức linh mục bấy giờ đều dựa trên sự hiểu biết về chức năng Tư Tế
trong Cựu Ước, và (b) ta không thấy danh từ Chức trong Tân Ước cũng như
trong thời kì các tông đồ.
Vì thế, trong ba thế kỉ đầu, giáo hội hiểu Chức giám mục hay linh
mục trong bối cảnh của thần học hiểu về “Lãnh đạo Mục Vụ.” Nghĩa là giáo hội
nói nhiều đến chức năng lãnh đạo, phẩm chất của người lãnh đạo, và những yêu
cầu cần thiết một người lãnh đạo phải có. Điều ta cũng cần biết là danh từ Chức
mà ta hiểu trong văn hoá Hy-Mã và trong những thế kỉ đầu của giáo hội hoàn toàn
khác với những gì ta hiểu ngày nay.
Đến cuối thế kỉ 2 và đầu thế kỉ 3, những giáo phụ như Origen, Tertullian,
Cyprian, và Hippolytus bắt đầu thần học hoá các thừa tác vụ (hay gọi là công
việc mục vụ) của giáo hội, và nghi thức hoá những chức năng cần thiết trong
giáo hội để làm sáng tỏ ý nghĩa thần học và tín lí, đó là: những người phục vụ
giáo hội là những người được lựa chọn.
Ví dụ, để cắt đặt một người làm lãnh đạo một cộng đoàn, các giám mục chọn
và ban Chức Linh Mục cho người này qua một nghi thức long trọng được
giáo hội công nhận; và các nghi thức Phong Chức cũng được hệ thống hoá
để làm vai trò linh mục được rõ ràng hơn.
Nhờ những nghi thức trang trọng này, một người nhận Chức Linh Mục
lúc này không còn hiểu Chức như trước nữa. Nghĩa là, nghi thức lúc này
được diễn giải với ý nghĩa thần học, và Chức trở thành một phần giáo
huấn của giáo hội cho mọi Kitô hữu.
Chức Linh Mục không còn là một
chức năng thuần túy hành chánh, như coi sóc giáo xứ hay giảng dạy giáo lí, mà
mang một ý nghĩa thần học là những người được lựa chọn để làm công việc riêng.
Dựa vào ý nghĩa thần học này, các giáo phụ tiếp tục quan tâm đến các nghi
thức trong những dịp lễ Phong Chức để Chức này tự nó có giả trị
và được kính trọng hơn.
Nói như thế không có nghĩa là Chức linh mục trước đó không được kính
trọng hay không có cùng một ý nghĩa như sau này, nhưng nghi thức hoá Chức
này (nghĩa là đặt ra những nghi lễ cùng với luật lệ rất cụ thể cho các nghi lễ)
làm cho vai trò Chức được rõ rang, hiển thị hơn.
Tại Sao Cần Có Chức Trong Giáo Hội
Về phương diện xã hội, tất cả mọi tổ chức nếu muốn tồn tại, bắt buộc phải
có Lãnh Đạo, có Quyền Hành, có Trật Tự, có Cấp Bậc. Giáo hội cũng không ngoại
lệ.
Vì tất cả những thừa tác vụ của Giáo Hội là công khai (personae publicae
in ecclesia) nên bắt buộc phải có những nghi thức công khai chính thức công
nhận những người lãnh đạo này. Việc Phong Chức là một hình thức công
nhận công khai vai trò lãnh đạo cộng đoàn, và một hình thức cử hành những phụng
vụ chung của cộng đoàn. Đây cũng là một hình thức dò xét và tìm hiều những nhà
lãnh đạo của họ, và ghi nhận những gì Thiên Chúa đã làm cho họ qua những người
lãnh đạo này.
Về mặt chính trị, sau khi đại đế Constantine hợp thức hoá Kitô giáo (năm
313), giáo quyền và chính quyền có nhiều liên hệ mật thiết với nhau, và nhiều
lúc các vị lãnh đạo tôn giáo cũng mang nhiều trách nhiệm trong chính quyền. Vì
thế, việc Phong Chức cũng là một lời giới thiệu của giáo hội với chính
quyền về vai trò của vị lãnh đạo mới trong cộng đoàn.
Một số người cho rằng Chúa Giêsu không Phong Chức cho các tông đồ,
và thời kì Ngài sống không có “giai cấp”. Điểu này không hẳn là đúng. Việc Phong
Chức như ta hiểu với những nghi lễ đính kèm thì chắc chắn không có trong
thời Chúa Giêsu (vì mãi đến đầu thế kỉ 3 mới có), nhưng phẩm trật giai cấp với
Phêrô là người đứng đầu, với Juda là người lo tài chính v.v… đã có với Chúa
Giêsu.
Sự Khác Nhau Giữa Chức Và Thừa Tác Vụ
Ta cần phân biệt sự khác nhau giữa Chức linh mục và các Thừa Tác
Vụ khác trong giáo hội.[4] Giáo lí Công Giáo số 873: “Trong Hội Thánh có nhiều thừa
tác vụ khác nhau nhưng đều cùng chung một sứ mạng. Chúa Ki-tô đã trao phó cho
các tông đồ và những người kế nhiệm các ngài nhiệm vụ nhân danh và lấy quyền
Người mà giảng dạy, thánh hóa và cai quản. Còn phần giáo dân, vì họ tham dự
thực sự vào nhiệm vụ tư tế, tiên tri và vương giả của Chúa Ki-tô nên họ cũng
đảm nhận phần việc của mình trong sứ mạng chung của toàn Dân Thiên Chúa, trong
Hội Thánh và ở giữa trần gian" (x. AA 2).
Danh từ Thừa Tác Vụ có gốc nghĩa là Phục Vụ,[5] xuất hiện rất sớm trong giáo hội, và tìm thấy trong Tân Ước.
Danh từ này có một ý nghĩa đặc biệt đối với những Kitô hữu đầu tiên vì nó nói
lên căn tính phục vụ của những người theo Chúa Kitô: “Con Người đến không
phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ" (Mk 10:45). Nói
cách khác, Phục Vụ chính là Thừa Tác Vụ trong giáo hội.
Ngày nay, khi dùng danh từ Thừa Tác Vụ, giáo hội muốn nói đến một số
cụ thể những công việc của giáo hội được các Kitô hữu thi hành, trong đó cỏ cả
những người lãnh nhận Chức như giám mục, linh mục, phó tế, cả những
người sống đời khấn nguyện theo bậc tu trì (gọi chung là tu sĩ nam nữ), và giáo
dân.
Những ai quen thuộc với đời sống tu trì trước công đồng Vatican II, nhất là
với những người dọn mình lãnh nhận Chức linh mục, thường hay nghe các
danh từ như Thầy Ba, Thầy Sáu, hay Chức Giúp Lễ, Chức Đọc Sách.
Thật ra những Thừa Tác Vụ này vẫn được coi là Chức trong giáo
hội kể từ thế kỉ thứ hai. Số lượng Chức này thay đổi tùy theo thời gian.
Hippolytus nói đến Phó Tế và Phụ Phó Tế (đầu thế kỉ 3 trong Traditio
Apostolica). Didascalia Apostolorum (thế kỉ 3) nói đến Phó Tế và Đọc
Sách. Đức Giáo Hoàng Cornelius (251-253) nhắc đến trong thư Ngài những chức:
Giám mục, Linh mục, Phụ phó tế, Phó tế, Giúp lễ, Trừ qui, và Giữ cửa. Thánh
Cyprian (thế kỉ 3) nói đến Phụ phó tế, Giúp lễ, Trừ qủi và Đọc sách. Eusebius
nói đến Đọc Sách và Trừ Qủi.
Vào cuối thể kỉ thứ tư, những Thừa Tác Vụ hay các Chức này đã
hình thành khá rõ ràng trong toàn thể giáo hội, nhưng hình thức áp dụng và thi
hành thì tùy thuộc địa phương, nghĩa là, có nơi hình thành bảy hay tám Chức,
có nơi hai hay ba Chức. Đối tượng lãnh nhận những Chức này cũng
khác nơi. Ban đầu, nhiều giáo dân lãnh Chức Đọc Sách hay Trừ Qủi
nhưng dần dần các linh mục hay tu sĩ thi hành những chức vụ này, và không còn
giáo dân nữa.
Cuối thế kỉ thứ 5, trong bộ sách luật Statuta Ecclesiae Antiqua, ta
có thể đọc thấy 9 Chức như: Người Xướng Hát Thánh Vịnh (psalmist), Người
giữ cửa (porter), Đọc sách (lector), Trừ Qủi (exorcist), Giúp lễ (acolyte), Phụ
Phó tế (subdeacon), Phó tế (deacon), Linh mục (presbyter) và Giám mục (bishop).
Từ sau thế kỉ 11, thời kì Peter Lombard, chỉ còn 7 Chức được nhắc
tới trong đó không có Người Hát Thánh Vịnh và Giám mục. Bộ luật
năm 1150 cũng chỉ ghi lại 7 Chức: Người giữ cửa, Đọc sách, Trừ Qủi, Giúp
lễ, Phụ Phó tế , Phó tế, và Linh mục. Thời kì này, giám mục không được coi là
một phần của Chức thánh nữa, mà chỉ là một Vinh Dự trong phẩm trật mà
thôi. Nghĩa là, chức Linh Mục là chức cao cả nhất, và sau khi chịu chức thánh
Linh Mục, người được chọn làm giám mục không còn nhận chức thánh mà chỉ nhận
vinh dự được ban tặng mà thôi.
Sau công đồng Trent (1545-1563), Chức giám mục được nhận là Chức
Thánh. Những Chức này được chia làm hai nhóm gọi là Chức Nhỏ
(gồm Giữ cửa, Đọc Sách, Trừ Qủi, Giúp Lễ), và Chức Lớn (gồm Phụ Phó tế,
Phó tế, Linh mục và Giám mục).
Năm 1972, Đức Giáo Hoàng Paul VI quyết định chỉ giữ lại danh từ Chức
cho Phó tế, Linh Mục, và giám mục mà thôi. Các vai trò khác trước đây gọi là Chức
thì không còn nữa, mà chỉ được coi là Thừa Tác Vụ: như Thừa Tác Vụ
Đọc Sách và Thừa Tác Vụ Giúp Lễ.[6] Các
vai trò khác (Giữ cửa, Trừ Qủi, Phụ Phó Tế) không còn được nhắc tới.
Như thế, các Chức (ordines) hay còn gọi là các Chức Thánh
(sacri ordinis) hoàn toàn khác với Thừa Tác Vụ mà giáo dân lãnh
nhận. Cho dù trong thời gian đầu của giáo hội, khó phân biệt rõ ràng ý nghĩa
khác nhau giữa danh từ Thừa Tác Vụ và Chức vì cả 2 đều gắn liền
với đời sống Giáo Hội từ khai sinh, nhưng ngày nay thì rõ ràng.
Kết Luận
Chức Linh Mục là một
hồng ân Thiên Chúa ban cho con người. Dù lịch sử đặt những người nhận Chức
này vào một vị trí tách biệt khỏi giáo dân, các linh mục nhận Chức này
phải nhận thức được rằng đây không là điều kiện để tôn vinh cá nhân hay lợi
dụng quyền thế. Trái lại, Chức Linh Mục là điều kiện để giáo hội công
nhận những người lãnh đạo cách công khai, và theo Chúa Giêsu Kitô, lãnh đạo
không gì hơn là phải biết Phục Vụ người khác: “Con Người đến không
phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ" (Mk 10:45).
[1] Thật ra trong bản gốc Latin, giáo hội không gọi là Chức
Thánh mà chỉ gọi là Chức (Ordo), nhưng khi được dịch ra các ngôn ngữ
khác, như tiếng Anh, họ thêm vào Chức Thánh để dễ hiểu và đúng với ý
nghĩa bản Latin muốn viết.
[2] Đôi khi trong lịch sử ta vẫn còn tìm thấy trong các bài
viết hay những công trình kiến trúc có chữ viết tắt SPQR (senatus
populusque romanus – nghị viên và dân chúng) để minh định vai trò những
người có Chức với dân thường, hay những dấu tích ghi lại Chức của
người dân Roma (ordo populus romanus).
[3] Tiếng Hilạp dùng là episkopos nay ta gọi là giám
mục, presbyteros nay gọi là linh mục, và diakonos nay gọi là phó
tế.
[4] Trong Anh ngữ, Thừa Tác Vụ là Ministry; Thừa Tác Viên là
Minister; Chức là Order.
[5] Thứa Táv vụ dích từ danh từ tiếng Hi lạp là dikaiosynè
hay diakonia, có nghĩa là việc phục vụ, với động từ diakoneo
là Phục vụ, và người làm những dịch vụ này là diakonos. Chính
danh từ diakonos này được áp dụng cho những người mà ta dịch là Phó Tế.
[6] Hai Thừa Tác Vụ này thường dành cho những chủng
sinh dọn mình làm Linh Mục, nhưng đôi khi giáo dân cũng lãnh nhận tác vụ này.
Lm Nguyễn Khắc Hy