Linh Mục Sau Thời Kỳ Các Tông Đồ
Để tìm hiểu lịch sử chức năng và vai trò linh mục như ta hiểu ngày nay, ta
cần nhìn lại lịch sử để thấy những khó khăn của nó.
Về Mặt Tổ Chức
Trong vài thập niên đầu tiên của giáo hội (từ năm 40-80), công tác rao
giảng tin mừng và lo lắng mục vụ cho Kitô hữu thường được nhiều người đáp ứng
theo mặt tự phát qua những đặc sủng Thánh Thần ban cho họ.[1] Nghĩa là, những đặc sủng họ được lãnh nhận như dạy, nói tiếng lạ, chữa
lành, tiên tri v.v… đều tự phát để đáp ứng những nhu cầu mục vụ bấy giờ.
Khi giáo hội lớn mạnh thì đòi hỏi cần thiết phải có một cơ cấu tổ chức với
người lãnh đạo rõ ràng, nghĩa là lúc này không phải Kitô hữu tự phát theo đặc
sủng mà phải có sự kiểm soát và chấp thuận của các vị hữu trách để phân biệt
lạc giáo và chánh giáo, và để bảo vệ sự thật cho đức tin.
Một tổ chức, bất cứ là tôn giáo hay xã hội, không thể tồn tại nếu con người
không tôn trọng một trật tự đặt ra để kiểm soát nhau.
Vì thế, vai trò lãnh đạo (là các giám mục) trở nên cần thiết. Hình bong các
linh mục cũng được hình thành bên cạnh các giám mục để chia sẻ công việc mục vụ
và nâng đỡ các giám mục.
Ta nên biết là lịch sử giáo hội không hề có sự trống vắng hay thiếu lãnh
đạo trong sinh hoạt mục vụ, nghĩa là, dù lịch sử có thể không ghi lại với chứng
cớ xác thực rõ ràng vai trò lãnh đạo của các giám mục, lịch sử không thể chối
cãi những hoạt động liên tục và đồng nhất của giáo hội nếu không có những vai
trò lãnh đạo này.
Tuy nhiên, lịch sử 350 năm đầu tiên của giáo hội là giai đoạn tìm kiếm một
hình thức tổ chức phù hợp với một tôn giáo mới – Kitô giáo – mà Chúa Giêsu và
các Tông Đồ không để lại một cẩm nang chi tiết để điều hành.
Lí do chính là vì Chúa Giêsu không có ý đến thế gian để thiết lập một tôn
giáo mới cho bằng đến để rao giảng ý định Thiên Chúa cho con người, và để cải
hoá hệ thống tôn giáo đang có đương thời (Do Thái giáo) được hoàn thiện hơn.
Thánh Phaolô khẳng định: “Anh em phải là những người đầu tiên được nghe công
bố lời Thiên Chúa, nhưng vì anh em khước từ lời ấy, và tự coi mình không xứng
đáng hưởng sự sống đời đời, thì đây chúng tôi quay về phía dân ngoại.”
(Cvtd 13:46).
Khi Kitô giáo được rao giảng cho dân ngoại (không là người Do thái), và sự
phát triển nhanh chóng của giáo hội đòi hỏi một hình thức tổ chức khác với Do
Thái giáo để đáp ứng những đòi hỏi mới về mặt mục vụ, việc hình thành phẩm trật
giáo hội, trong đó vai trò của những vị lãnh đạo cộng đoàn giáo hội, là điều
cần thiết.
Trước hết, Nhóm Mười Hai và các Tông Đồ là những vị lãnh đạo giáo hội (và
việc làm của các Ngài được kể lại trong Tân Ước). Sau thời kì các tông đồ, đặc
biệt là 200 năm đầu tiên của giáo hội, vai trò và chức năng các giám mục (những
người kế vị các tông đồ) được ghi lại trong lịch sử qua các tài liệu như những
thư cá nhân, các bài giảng, các bài giáo lý, các bài viết tranh luận v.v…
Trong thời kì này, chắc chắn đã có sự hiện diện của các linh mục bên cạnh
các giám mục. Tuy nhiên, rất khó để nói đến thời gian chính xác sự hình thành
chức năng và vai trò linh mục thế nào, vì lịch sử 200 năm đầu tiên của giáo hội
nhắm đến chức năng và vai trò lãnh đạo của cộng đoàn dân Chúa hơn là phân biệt
về phẩm trật chức vị (giám mục – linh mục – phó tế) như ta hiểu về tổ chức sau
này. Nghĩa là, thời kì đầu giáo hội tìm kiếm một mẫu người lãnh đạo cộng đoàn
hơn là tìm kiếm người đó là giám mục hay linh mục. Sự trùng hợp ngẫu nhiên là
tất cả những giám mục là những nhà lãnh đạo, nhưng không phải tất cả những nhà
lãnh đạo là giám mục, mà một số là linh mục.
Vì thế, những tài liệu để lại cho ta thấy rằng Kitô hữu gọi những vị lãnh
đạo cộng đoàn của họ lúc đó bằng danh từ episkopos và presbyteros.[2] Ai là những người được gọi
là “lãnh đạo”? Là những người chủ lễ những nghi thức cầu nguyện hay coi sóc một
cộng đoàn nhỏ, mà danh từ chung đặt cho họ là proistamenoi (tiếng Hi lạp
có nghĩa là người lãnh đạo – người chủ lễ). Vì không phân biệt rõ ràng proistamenoi
là giám mục hay linh mục hay phó tế hay ngay cả giáo dân (kỳ mục), ta không thể
vội vàng kết luận rằng những người đứng đầu các cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên chỉ
là các giám mục hay linh mục.[3]
Điều ta biết chắc chắn là vai trò lãnh đạo giáo hội luôn luôn nằm trong tay
các giám mục, những người kế vị các tông đồ với quyền giảng dạy, coi sóc, và
ban phát các bí tích để thánh hóa Kitô hữu. Các linh mục, phó tế hay kỳ mục
là những phụ tá của giám mục để điều hành giáo hội hướng dẫn những cộng đoàn
nhỏ bé này.
Điều ta biết chắn chắn nữa là từ cuối thế kỉ thứ hai về sau, Kitô hữu chú
trọng đến việc nhìn nhận vị lãnh đạo cộng đoàn là những người có thể dâng thánh
lễ, nghĩa là chỉ có các giám mục và linh mục mà thôi.
Sự phát triển chức năng và vai trò linh mục hình thành cùng lúc với sự phát
triển những nhu cầu mục vụ của giáo hội. Nghĩa là, khi những giáo hội địa
phương cần mục vụ, nhất là thánh lễ, mà giám mục không đáp ứng được thì các
linh mục được các giám mục cắt đặt thay mặt mình để lo cho giáo dân.
Điều cần biết là những hình thành này không đồng hiện diện cùng một lúc
trong toàn thể giáo hội. Ví dụ, ở vùng Tiểu Á có những tài liệu ghi lại sự hiện
diện và hoạt động của linh mục trong những năm cuối thế kỉ 1và đầu thế kỉ 2,
trong khi vùng Roma vẫn không có những tài liệu rõ ràng về những hoạt động linh
mục cho đến đầu thế kỉ thứ 4.
Về Mặt Tài Liệu Lịch Sử
Tìm hiểu sự hình thành của chức năng linh mục ta gặp một số những khó khăn
về tài liệu. Trước hết, chúng ta không có nhiều những dữ kiện chính xác về linh
mục trong thời kì đầu giáo hội (so với những dữ kiện về vai trò giám mục). Vì
thế, khi viết về lịch sử vai trò và chức năng linh mục, các sử gia và thần học
gia phải thận trọng khi trích dẫn và diễn dịch những tài liệu đang có.
Nói như thế không có nghĩa là ta không biết gì về sự hình thành chửc năng
linh mục. Ngược lại ta biết chắc chắn là chức năng và vai trò linh mục hình
thành bên cạnh chức năng lãnh đạo của giám mục, và theo thời gian hình ảnh linh
mục xuất hiện như một “giai cấp” hay “nhóm” độc lập càng rõ ràng hơn, nhất là
từ sau thế kỉ thứ 4.
Ngày nay, nhiều cắt nghĩa của những nhà chuyên môn nói đến lịch sử chức
năng linh mục được xem như là đọc ngược lại lịch sử; nghĩa là những diễn giải
dựa vào Tân Ước và các bài viết của các giáo phụ để đi đến kết luận (như việc
truyền chức thánh, chức năng chủ tế thánh lễ và ban phát các bí tích v.v…).
Hơn nữa những diễn dịch này phần lớn là phỏng đoán hơn là những bằng chứng
xác thực, cụ thể (dĩ nhiên là những phỏng đoán với nhiều chứng cớ giúp những
kết luận phỏng đoán có giá trị đáng tin chứ không phải mơ hồ. Dù vậy nó vẫn là
phỏng đoán).
Tài liệu ta có ngày nay phần lớn dựa vào cuốn Truyền Thống Tông Đồ (Traditio
Apostolica), được coi là tác phẩm của Hippolytus thành Roma, viết khoảng
năm 200.[4] Tài liệu này nói đến những
nghi thức truyền chức cho giám mục, linh mục và phó tế. Sau này, nhiều tài liệu
lịch sử viết dựa vào tác phẩm này.[5]
Theo tài liệu Truyền Thống Tông Đồ, nhiều cộng đoàn Kitô hữu tự chọn
lựa cho mình các giám mục, linh mục, phó tế. Tiến trình giáo dân tham gia chọn
lựa giám mục, linh mục này phố biến từ năm 200-350, và kéo dài ở nhiều nơi
trong giáo hội cho đến thế kỉ 10. Với nhiều cộng đoàn, chỉ khi nào giám mục,
linh mục được cộng đoàn chọn, người đó mới thực sự được coi là nhà lãnh đạo
cộng đoàn.[6]
Linh Mục- Người Lãnh Đạo Cộng Đoàn
Trong Truyền Thống Tông Đồ và những tài liệu của các giáo phụ của
hai thế kỉ đầu tiên, linh mục được chọn (bởi dân) và được phong chức bởi giám
mục để làm cố vấn cho giám mục. Một trong những chức năng của giám mục bấy giờ
là xét xử những vấn nạn giáo lí, và xử những lạc giáo trong giáo hội. Thường là
sau khi nghe những phúc trình, giám mục hội ý với cố vấn (là các linh mục)
trước khi quyết định.
Trong thời gian đầu, việc phong chức linh mục không nhằm để các linh mục
dâng thánh lễ (vì thánh lễ được dâng bởi giám mục, và linh mục chỉ được phép
đồng tế), mà nhằm làm cố vấn cho giám mục. Không chỉ không được dâng thánh lễ
một mình, linh mục còn không được giảng lễ.[7] Khi có giám mục chủ tế, các
linh mục được phép đồng tế nhưng không được phép cử hành thánh lễ riêng lẽ.
Khi giáo hội lớn mạnh, các nhu cầu mục vụ tăng nhanh. Những cộng đoàn ở xa
đô thị cần có người lãnh đạo. Luật giáo hội thời đó coi các giám mục (vị lãnh
đạo cộng đoàn) là người “Kết Hôn” với địa phận mình, nên giám mục không được
phép đi nơi khác. Trong khi đó, yêu cầu mục vụ ở vùng quê (hay vùng sâu vùng
xa) cấp bách nên giám mục tìm những người tự nguyện đi phục vụ những nơi này.
Các linh mục đến đây được phép làm lễ riêng (mà không cần phải có giám mục)
và được phép giảng lễ. Thánh Ignatius của Antiokia cũng viết: “Hãy tham dự
những thánh lễ thành sự và có hiệu lực được dâng bởi giám mục hay những người
được giám mục chỉ định.”[8]
Ngoài việc dạy giáo lí, các linh mục vùng xa xôi này còn được ban phép
Thanh tẩy (vì thời kì đầu, các linh mục và phó tế lo dạy giáo lí, nhưng bí tích
thanh tẩy thường được giám mục cử hành chung cho toàn thể cộng đoàn giáo phận).
Dần dà, các linh mục còn được phép ban bí tích hoà giải (tha tội) cho giáo dân.
Ở đông phương, vào thế kỉ 5, các linh mục còn được ban phép thêm sức, nhưng
giám mục dành quyền làm phép dầu thêm sức này. Ở Tây phương thì dành quyền này
cho giám mục.
Những thay đổi này làm cho chức năng và vai trò linh mục thay đổi. Về mặt
thần học, linh mục chia sẻ tác vụ giảng dạy, thánh hoá, và coi sóc của
giám mục qua việc thông phần với chức vụ và con người giám mục. Nghĩa là, linh
mục không tự mình mà có những chức năng này, nhưng lãnh nhận từ Chúa Kitô qua
các giám mục, vì các giám mục mới là người thừa kế các Tông Đồ.
Linh Mục: Người Lãnh Đạo và Chủ Tế Dâng Thánh Lễ
Cuối thế kỉ thứ nhất và đầu thế kỉ thứ hai, sau khi các tông đồ qua đời,
cộng đoàn dân Chúa không muốn dùng danh từ Linh mục (hiereus) để chỉ
những nhà lãnh đạo giáo hội, mà gọi những lãnh đạo là episkopos hay
presbyteros.[9] Thánh Phaolo trong thư gởi
Ephêso 4:11 nói đến một người lãnh đạo với hai chức năng “coi sóc và dạy dỗ.”
Thánh Ignatius thành Antiôkia, trong thư viết cuối thế 1 và đầu thế kỉ 2, nhắc
nhở giám mục với ba nhiệm vụ: giảng dạy, thánh hoá, và coi sóc giáo dân.
Quá trình hình thành các vị lãnh đạo giáo hội bắt đầu với việc so sánh phẩm
trật trong giáo hội Chúa Kitô với những chức vị trong Do Thái giáo: Thượng Tế,
Tư Tế và Lêvi với Giám Mục, Linh Mục và Phó Tế.[10]
Dần dần giáo hội đặt nặng trọng tâm trong thần học thánh thể, đặc biệt là
tính hi sinh trong cái chết của Chúa Giêsu Kitô được lặp lại trong thánh lễ.
Các vị lãnh đạo trở thành những chủ tế thánh lễ.
Trong Didache (tài liệu được viết khoảng 90-150) gọi chủ tế thánh lễ
là Thượng Tế (13; trong Truyền Thống Tông Đồ gọi giám mục chủ tế
lễ là Thượng Tế (số 3 & 4). Tertulian (chết 225) và Cyprian (chết
258) gọi giám mục là sacerdos (người dâng của lễ – là linh mục), và gắn
liền chức năng linh mục với giám mục trong bí tích thánh thể.
Khi thần học thánh lễ đặt nặng vai trò chủ tế, chức năng lãnh đạo của giám
mục cũng chuyển qua chức năng chủ tế thánh lễ (và coi nhẹ việc giảng dạy, bênh
vực lạc giáo, và điều hành cộng đoàn).
Vì cả linh mục và giám mục đều có khả năng truyền phép để “bánh hoá
thành thịt, và rượu hoá thành máu Con Thiên Chúa” (và đây cũng là điều
tuyệt hảo nhất) nên có tư tưởng cho rằng về phương diện thần học, giám mục cũng
không hơn gì linh mục, ngoại trừ giám mục có thể truyền chức thánh cho người
khác, và giám mục điều hành giáo phận về luật lệ.
Tư tưởng này thịnh hành sau thế kỉ 4. Thánh Jerome (năm 342-420) nói: “linh
mục là được những gì giám mục làm chỉ trừ phong chức.[11] Thánh Gioan Kim Khẩu (khoảng
347-407) nói trong bài giảng 1 Timôtê: “giám mục hơn linh mục chỉ là quyền
năng phong chức, và chỉ trong phương diện này giám mục hơn linh mục…”[12]
Sau thời trung cổ, Peter Lombard (khoảng 1100-1160),[13] thánh Albert Cả (1206-80)[14], thánh Thomas Aquinas
(1225-74), thánh Bonaventure (1221-74) và nhiều thần học gia theo triết học
kinh viện cũng chấp nhận tư tưởng này. Công đồng Trent (1545-63) cũng đồng ý
rằng chức linh mục là chức thánh cao nhất.
Ngày nay, công đồng Vatican II (1962-65) làm sáng tỏ thêm rằng chức giám
mục tự nó là một chức riêng biệt và hoàn hảo trong chức thánh. Và vì thế giám
mục không chỉ hơn linh mục về mức độ hay quyền luật, và còn tự nó là một chức
cao cả nhất.[15]
Tóm: chức năng và vai trò linh mục hình thành rất sớm
trong lịch sử giáo hội, tiếp theo với giám mục, và đóng vai trò phụ giúp các
giám mục trong việc mục vụ. Các linh mục chia sẻ 3 chức năng giảng dạy,
thánh hoá, và coi sóc giáo dân của giám mục qua việc đặt tay truyền chức
bởi giám mục, và qua việc hiệp thông với giám mục. Ngày nay, dù giám mục là
chức cao cả và đầy đủ nhất trong bí tích Chức Thánh, các linh mục qua chức
thánh lãnh nhận vẫn được mời gọi để hoạt động Nhân Danh Giáo Hội (in persona
ecclesiae) và Nhân Danh Đức Kitô là Đầu Giáo Hội (in persona Christi
capitis), trong việc rao giảng Tin Mừng, xây dựng Triều Đại Thiên Chúa
trong giáo hội và xã hội hiện tại.
[1] Dù những cộng đoàn Phaolô thành lập chưa có một cơ cấu tổ chức như ta thấy
trong những thế kỉ sau này, nhưng cũng đừng vội kết luận là những cộng đoàn đó
không có phẩm trật tổ chức trong giáo hội, hay kết luận rằng nguyên tắc tổ chức
lúc đó chỉ là những đa dạng của ơn đặc sủng cá nhân. Trong thư Phaolô, ngoài
vai trò lãnh đạo của các Tông Đồ được công nhận rõ ràng, những Ngôn Sứ và Thầy
Dạy cũng được xem là những nhà lãnh đạo trong cộng đoàn. Bên cạnh những chức
năng được kể trong thư 1 Corintô 12:28, thánh Phaolô cũng nói đến vai trò của
một vài chức năng khác được cộng đoàn chấp nhận và nâng đỡ trong những ngày
đầu, và được kể trong thư Galata 6:6.
[2] Ý nghĩa của hai danh từ này đã được phân tích trong hai bài viết trước.
Trong khi người xưa đôi khi dùng hai danh từ này đồng nghĩa với nhau, ngày nay
ta dịch từ episkopos là giám mục, và presbyteros là linh mục.
[3] Danh từ proistamenoi không hẳn chỉ những người dâng thánh lễ, mà
những người chủ toạ buổi lễ khi giáo dân gặp nhau để cầu nguyện, hay người lãnh
đạo một cộng đoàn. Thánh Phaolô nói đến proistamenoi trong 1
Thessalonica 5:12 và Roma 12:8.
[4] Tài liệu Traditio Apostolica vẫn thường được xem là tác phẩm của
Hippolytus thành Roma. Gần đây, nhiều nhà chuyên môn bắt đầu nghi ngờ về quyền
tác giả của tác phẩm này. Xem bài “Ordination” của Paul Bradshaw trong The
New Westminster Dictionary of Liturgy and Worship (Louisville: Westminster,
John Knox Press, 2002) trg 342-43.
[5] Một tài liệu quan trọng khác nhắc đến những nghi thức truyền chức giám mục,
linh mục và phó tế là Sách Nghi Thức của Sarapion (viết khoảng giữa thế
kỉ 4).
[6] Ngày nay, giám mục được chọn và chỉ định bởi Toà Thánh Roma. Tuy nhiên,
trong nghi thức truyền chức linh mục và phó tế, nghi thức khảo sát ý kiến giáo
dân để xem ứng viên có xứng đáng để được gọi làm linh mục hay phó tế không cũng
là một phần tiếp tục truyền thống giáo dân chọn lựa này.
[7] Chuyện kể khi Augustine còn là linh mục ở Hippo, vị giám mục ở đó già và
đau yếu nên không giảng được. Augustine được mời để giảng thay giám mục nhưng
bị giáo dân phản đối, vì chỉ có giám mục mới giảng mà thôi. Xem James F.
Puglisi, The Process of Admission to Ordained Ministry (Liturgical
Press, 2001) trg 33-46. Trong thư số 5 của Cyprian (chết 258) lần đầu tiên nói
đến linh mục làm lễ mà không có giám mục.
[8] Thư gởi cho tín hữu Smyrna, 8. Thư cũng nói đến phó tế không có khả năng
dâng thánh lễ mà chỉ phụ giúp giám mục trong thánh lễ mà thôi. Dưới thời bắt
đạo của Diocletian và những người kế tiếp (cuối thế kỉ 3), một số phó tế đã tự
mình làm lễ khi không có giám mục hay linh mục, nhưng họ bị công đồng Elvira
(306) và công đồng Arles (năm 314) lên án.
[9] Tác giả Didascalia Apostolorum và triết gia-thần học gia Origen đã
dùng từ Linh Mục (hiereus) để gọi những vị lãnh đạo giáo hội. Từ linh
mục này được giáo dân gọi để chỉ những lãnh đạo cộng đoàn từ sau thế kỉ 4 cho
đến ngày nay.
[10] Tác giả thư 1 Clementê (viết khoảng năm 96) nói đến những so sánh này.
Xem thư 1 Clementê số 40 và 42.
[11] Xem Epistolae, 146,1.
[12] Bài giảng II. 1 trong 1 Tim 3:8.
[13] Xem Sentenciarum IV 24:14).
[14] Xem Sentenciarum IV a. 39.
[15] Xem Lumen Gentium, 21.
Lm Nguyễn Khắc Hy