ĐẶC TÍNH LINH THÁNH
CỦA LINH MỤC NHƯ LÀ NỀN TẢNG CỦA ĐỜI SỐNG VÀ GIÁO HUẤN LUÂN LÝ CỦA NGÀI
(xuanbichvietnam.net)
”Thánh thiện hơn ngươi !”. Thái độ được diễn
đạt như thế, chẳng có Kitô hữu nào – và chắc chắn chẳng có linh mục nào – thích
người ta quy cho cho mình. “Thánh thiện hơn ngươi !”,
danh ngôn thể hiện một sự tự công chính hóa, một tính tự phụ cao ngạo, không
tương thích với sự khiêm hạ Kitô giáo.
Chúa Giêsu đã dành những lời khiển trách
gay gắt nhất của mình không chỉ đối với những người đã tự cho mình một vẻ đứng
đắn nhưng còn đối với những ai đã cẩn thận chăm lo nhất đến việc tuân giữ luật
pháp và đồng thời tìm thấy nơi sự trung tín này những gì để tự mãn với chính
mình. Chắc chắn chính Chúa đã chịu những công kích của những
người nhiệt thành tôn giáo, đã trách móc Ngài chữa bệnh vào ngày Sabbat.
Thế nhưng, như Walter Grundmann nhận xét, Chúa Giêsu nghiệm thấy sự giả vờ đạo
đức như thế bởi vì “nó không phụng sự Thiên Chúa từ lúc mà nó chứng tỏ sự khinh
thường đối với một hữu thể nhân linh” (1). "Thánh thiện hơn ngươi !". Sự khiển trách mà Tin
Mừng biểu lộ cần phải ghi khắc sự khiêm tốn (modestie) cho mọi Kitô hữu.
Tuy nhiên, theo
một viễn ảnh khác, có điều gì đó đích thực nơi danh ngôn này khi nó được áp
dụng cho linh mục công giáo. Theo cách rất khách quan, linh
mục công giáo có một đặc tính thánh thiện mà phân biệt ngài với người Kitô hữu
giáo dân. Thế nhưng, để phòng ngừa trước một phản ứng bào chữa phẫn nộ,
cần phải giải thích ngay những gì chúng tôi muốn hiểu khi tuyên bố linh mục "thánh
thiện" hơn một Kitô hữu (giáo dân) khác.
Quan niệm "thánh thiện"
Rõ ràng vấn đề nổi lên vì nội hàm luân
lý gắn với thuật ngữ "thánh thiện". Khi chúng
ta gọi một người là "thánh thiện", chúng ta luôn có trong tâm
trí một sự hoàn thiện luân lý xứng đáng nhận được sự quý mến cao nhất của chúng
ta.
Thế nhưng phạm trù "thánh
thiện" thực ra thuộc tôn giáo hơn là luân lý (2). Cho dù ý tưởng luân lý tính thường nối
kết với ý tưởng của chúng ta về sự thánh thiện, nhưng theo
một ý nghĩa đầu tiên (3), nó dường như không có liên can đến hạnh kiểm luân lý.
Chắc chắn, theo
nghĩa chặt chẽ của thuật ngữ, sự thánh thiện chỉ được gán cho Thiên Chúa. Qadosh,
Hagios, Sanctus :
ba ngôn ngữ thánh của tôn giáo của chúng ta tuyên bố rằng Thiên Chúa là Đấng ba
lần thánh. Chúng ta công bố chính điều đó ở mỗi cử hành Thánh thể : "Thánh, thánh, thánh, Chúa là Thiên Chúa các
đạo binh !". Người là vô song, Người hoàn toàn vượt lên trên những gì
chúng ta có thể biết hay thậm chí chỉ tưởng tượng. Danh xưng
đích thực của Người thánh thiện đến nỗi người Do thái đạo đức thậm chí không
dám đọc (4). Trước sự hiện diện của Người chính các
thiên thần phải che mặt, không ngừng ca tụng sự thánh thiện của Người.
Sự hoàn toàn "khác" (totale "altérité")
này được gặp thấy trong suốt Cựu Ước. Siêu việt mọi kinh nghiệm bình thường của
con người, nó gây nên sự ngạc nhiên, bối rối, sững sờ. Là
điều lạ thường, nó vừa gây kinh sợ và cuốn hút. Tất cả
những gì tiếp xúc với Thiên Chúa trong sự thánh thiện của Người đều lãnh nhận
một dấu ấn, được dành riêng ra, tách khỏi những gì bao quanh nó. Sau
cuộc thần hiển vĩ đại được ban cho Môisê ở đỉnh núi Sinaï, chỗ này đã trở thành
Núi Thánh, thực sự khác biệt với thế giới phàm tục của các thụ tạo đến nỗi hễ ai đặt chân đến nơi đó – người hay súc vật – đến
lượt nó được dành riêng ra khỏi lãnh vực phàm tục – (hay) bị ném đá đến chết.
Các tư tế của Cựu Ước
chăm sóc hết sức cẩn thận những đồ vật mà sự thánh thiện của Thiên Chúa đã chạm
đến. Họ
tuân giữ tỉ mỉ nghi thức thanh tẩy và chuẩn bị để tránh cho mình những hệ quả
nguy hiểm của sự thánh thiện này. Trên mọi viền trong của áo khoác của
vị Thượng Tế xen kẽ những quả chuông vàng nhỏ và những quả lựu xanh, tía, hồng
điều, "theo cách mà người ta sẽ nghe tiếng lục
lạc, khi ông đến nơi thánh, trước nhan Ðức Chúa, và khi ông bước ra: như vậy,
ông sẽ khỏi phải chết" (Xh 28, 35). Phía trước khăn đội đầu của vị Thượng
Tế được gắn một thẻ vàng lấp lánh nhờ một dải băng tím mang những từ "được
thánh hiến cho Chúa". Những sự thận trọng này được thực hiện là bởi vì,
như tác giả Thư Do thái nói, « thật khủng khiếp khi rơi vào tay Thiên Chúa hằng sống" (Dt 10, 31). Về phần Đền thờ,
đồ án của nó gồm những sân và phòng khác nhau, dẫn cho
đến Đấng Thánh của các Thánh, nơi âm u và thinh lặng, với cường độ linh thánh
tăng dần (5).
Các ngôn sứ cũng thế,
họ ý thức về sự thánh thiện của Thiên Chúa. Khi ngôn sứ Isaia thị kiến trong Đền
thờ, ông đã kêu lên không phải vì niềm vui nhưng là khiếp sợ :
"Khốn cho tôi, vì tôi là một con người với môi miệng không sạch !".
Thiên Chúa, Đấng hoàn toàn thánh thiện không nói ngược lại với lời thú nhận
này, nhưng Người thanh tẩy ngôn sứ bằng việc chạm than hồng trên môi của ông
(Is 6). Trong một loạt trình thuật những cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, thuật ngữ "thánh
thiện" chỉ rõ thực tại này của Thiên Chúa, sự oai nghiêm không phải tạo
thành và tuyệt đối bất khả tiếp cận, qua đó mọi thứ còn lại đối lập với Thực
Tại này như là những gì hoàn toàn thiếu đi sự thánh thiện (6). Thế nhưng sự
thánh thiện này không chỉ là tính khác biệt (altérité) ;
nó là tổng thể (totalité) của mọi sự hoàn thiện khả niệm. Sự thánh thiện của Thiên
Chúa là công lý của Người, như ngôn sứ Isaia nói :
"Ðức Chúa các đạo binh sẽ được suy tôn, qua sự phán quyết của Người, và
Thiên Chúa chí thánh sẽ biểu lộ sự thánh thiện của Người qua công lý của Người"
(Is 5, 16).
Sự thánh thiện
được áp dụng cho con người
Không chỉ những nơi chốn hay đồ vật trở
nên thánh theo nghĩa phái sinh, một khi Thiên Chúa đã tự thông ban qua chúng ; đó cũng là trường hợp của con người. Trên Núi
Thánh, Thiên Chúa đã chọn, đã dành riêng ra và đã làm cho cả một dân tộc nên
thánh như là dấu chỉ của sự thánh thiện của Người trước toàn thế gian. Dân Israël đón nhận trạng thái này bằng việc đổ và rảy máu các hy
lễ, qua đó giao ước của Thiên Chúa với họ được xác nhận và đóng dấu (Xh 20)
(7). Thiên Chúa đã kêu gọi họ không phải vì một cấp độ
luân lý tính nào đó của họ, nhưng bởi vì họ có thể phục vụ kế hoạch của Người.
"Ta sẽ coi các ngươi là một vương quốc tư tế, một dân thánh" (Xh 19,6). Sự thánh thiện của họ đã phát sinh từ
sự thánh thiện của Thiên Chúa. "Các ngươi sẽ nên
thánh, vì Ta, Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Ðấng Thánh" (Lv 19,
2).
Sự thánh thiện này đã
phải được biểu lộ bằng một sự thuần khiết nghi lễ và luân lý. Không chỉ những hy lễ được dân Thiên
Chúa dâng lên phải thánh thiện và không khiếm khuyết, nhưng các tư tế dâng
chúng cũng phải không bị vết nhơ luân lý, nghi lễ và thậm chí thể lý (Lv 21,
16-24). Tuy nhiên, ý nghĩa đặc thù phụng tự, tôn giáo của sự
thánh thiện không thể được tách rời khỏi ý nghĩa luân lý. Vì lẽ, như Thiên Chúa đã tuyên bố ở núi Sinaï, dân Israël là "một
vương quốc tư tế, một dân thánh". Thiên Chúa đã
giao cho họ Thập giới như là kết quả cũng như là điều kiện của tương quan mới
của họ với Người. Lời tuyên bố mà Thiên Chúa nói với dân tuyển chọn của
Người và được sách Lêvi nhắc lại : "Các ngươi sẽ nên thánh, vì Ta,
Chúa, Thiên Chúa của các ngươi, Ta là Ðấng Thánh", không chỉ chỉ rõ hành
động được Thiên Chúa thực hiện nơi dân của Người, nhưng nó còn dẫn vào Bộ Luật
Thánh Thiện, được kết hợp bởi những luật luân lý và nghi lễ phải được tuân giữ
bởi dân tuyển chọn của Thiên Chúa (x. Lv 17–26).
Tuy nhiên, mặc dầu ý
nghĩa luân lý của sự thánh thiện đạt đến tuyệt đỉnh của nó nơi các ngôn sứ và
trong Tân Ước, thì ý nghĩa phụng tự-tôn giáo không bao giờ biến mất. Người duy nhất mà
khái niệm "thánh thiện" có thể được áp dụng trong tất cả ý nghĩa tròn
đầy của nó, dĩ nhiên đó là Chúa Giêsu Nazareth. Ngài
là Đấng Thánh Độc Nhất của Thiên Chúa, ho Hagios tou Theou.
Ngài là Đấng hoàn hảo duy nhất, là Ađam mới, là tạo thành mới, là hy lễ tinh
tuyền không hoen ố. Như R. Schnackenburg nhận xét, "Hoàn hảo"
(tamin), theo nghĩa đen đối với tư tưởng hybá, có nghĩa là "nguyên
tuyền", "không vết nhơ", "lành lặn" (chúng ta thường
có nghĩa này khi nó hệ tại những con vật hiến tế) ; thể từ (tom)
cũng có nghĩa "tính đơn sơ", "tính thuần khiết". Ý nghĩa
nhắm đến không phải là một sự hoàn hảo theo cấp độ,
nhưng là sự toàn vẹn của tất cả nhân vị thuộc về Thiên Chúa. (8).
Bởi thế, Chúa Giêsu không chỉ thuần
khiết về mặt luân lý, nghĩa là không có tội, nhưng còn về mặt nghi lễ, theo nghĩa
là Ngài là hy lễ hoàn hảo, toàn toàn được hiến dâng cho Thiên Chúa. Ngài là Đấng Thánh Độc Nhất của Thiên Chúa. Trong Tân Ước,
việc sử dụng từ "hagios", "thánh thiện", để chỉ Chúa
Giêsu, không bao giờ mất đi nội hàm tôn giáo và nghi lễ của nó.
Chúa Giêsu được thánh
hiến, dành riêng ra để phụng sự Thiên Chúa ngay nơi dòng giống của chúng ta. Như thư gởi cho tín hữu Do thái nói, "mọi
Thượng Tế đều được chọn lấy trong số người phàm, và được đặt lên làm đại diện
cho loài người trước nhan Thiên Chúa, để dâng lễ phẩm cũng như tế vật đền
tội » (Dt 5,1). Thế nhưng, chúng ta nhận thấy rằng một sự năng động khó
tin, thật sự bất khả niệm, trừ phi là từ Mạc khải đã chiếm chỗ trong Chúa Kitô.
Nhờ vào việc ngôi hiệp, Chúa Giêsu Kitô Thượng Tế không chỉ được thánh hiến và
dành riêng ra khỏi phàm tục ; Ngài còn thấm nhập
vào đó cho đến chỗ sâu thẳm nhất. Ngài không chỉ là Tư Tế,
Ngài còn là vật hy tế. Ngài không chỉ là vị Thiên Chúa
toàn thánh, Ngài còn hoàn toàn nên một với những tội nhân mà hy lễ được hiến
dâng vì họ. Trong Ngài, Thiên Chúa và là người trọn vẹn, thế giới được
linh thánh hóa trong chính tính phàm tục của nó. Đấng Độc Nhất được chọn lấy từ
giữa người phàm do đó được liên kết với họ cách thâm sâu nhất, vì Ngài đã cắm
lều giữa người phàm (Ga 1, 14). Ngài đến từ Thiên
Chúa – Ngài thực sự là Thiên Chúa -, và chỉ như thế mà Ngài
hiện hữu cho chúng ta. Vị Thượng Tế này không có lẽ
sống nào hơn là thực hiện dứt khoát, một lần cho tất cả, sự hòa giải của loài
người sa ngã với Đấng Tạo Thành nó nhờ lễ vật hoàn hảo là Chính Ngài trên bàn
thờ Thập Giá.
Mỗi một hơi thở của Ngài, mỗi một giáo
huấn phát xuất ra từ miệng Ngài, mỗi một việc chữa lành qua việc tiếp xúc của
Ngài, mỗi lời tha thứ, mỗi sự chấp nhận bị vu khống là bấy nhiêu diễn tả về sứ
mạng tư tế của Ngài. Bàn thờ Thập Giá biểu trưng cho sự tóm
kết, sự tuyệt đỉnh và sự hoàn tất tất cả cuộc sống tư tế của Ngài. Đấng
Độc Nhất Toàn Thánh cư ngụ nơi ánh sáng bất khả đạt tới, Đấng Toàn Tha, mà
không ai có thể thấy mà không phải chết, sau hết được biểu lộ trong sự viên mãn
của Ngài một khi chết trên thập giá, thay vì những hành quyết, bên ngoài thành
Giêrusalem. Như một thần học gia nhận xét, Joseph Ratzinger, "đối với Đấng
đã từ bỏ mọi quyền lực trần thế…, với Đấng đã gác sang một bên mọi thanh kiếm
và đã không đẩy người khác chết thay cho mình, như kiểu các vua chúa trần gian
làm, nhưng chính Ngài đã đi đến cái chết cho người khác, với Đấng đã đặt ý
nghĩa cuộc sống không phải trong sức mạnh tự khẳng định chính nó nhưng trong
cuộc sống triệt để cho người khác và thậm chí đã là hiện hữu cho người khác
này, như thập giá minh chứng điều đó, chỉ duy với Đấng đó mà Thiên Chúa đã
nói : "Con là Con của Cha, hôm nay, Cha đã sinh ra Con"".
(9).
Ở đây, chúng ta thấy
sai lầm của các luân lý gia của phong trào Ánh Sáng, thích chú tâm đến giáo
huấn của Chúa Giêsu hơn là Chúa Giêsu. Đó là một vấn đề đặc
thù trong một xã hội đa nguyên như xã hội của chúng ta, nơi chúng ta tìm kiếm
một thứ nền tảng chung của luân lý nhằm cuộc sống chung của chúng ta. Chúng ta thấy, vấn đề được ghi khắc trong truyền thống quốc gia của
chúng ta, bằng chứng Thomas Jefferson, người đã phổ biến một bản dịch Tân Ước
mà ông đã loại bỏ những phép lạ của Chúa Giêsu để chỉ giữ lại giáo huấn của
Ngài. Thế nhưng, giáo huấn này của Chúa Giêsu không thể tách rời với
hành vi cứu độ được hoàn tất trên đồi Canvê của Ngài. Tất cả cuộc sống của Ngài, cái chết của Ngài, sự phục sinh của Ngài
hình thành nên giáo huấn của Ngài. Ngài đã không để lại cho chúng ta một
bộ luật ứng xử đơn giản, thậm chí cũng không phải chỉ là một mẫu gương yêu
thương và hy sinh cao cả. Ngài đã để lại cho chúng ta một dân
mới sinh ra từ máu và nước chảy ra từ cạnh sườn của Ngài. Ngài đã làm cho chúng ta thành "một giống nòi được tuyển chọn,
một hàng tư tế vương giả, một dân tộc thánh, dân riêng của Thiên Chúa" (1Pr
2, 9a) (10). Tại sao ? Để dân này có thể "loan
truyền những kỳ công của Ðấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối, vào nơi đầy ánh
sáng diệu huyền" (1Pr 2, 9b).
Giáo Hội thánh
thiện
Theo một nghĩa nào đó, những người được
tuyển chọn (eklektoi tou Theou (những người được chọn của Thiên
Chúa), Giáo Hội (ekklesia tou Theou (Giáo hội của Thiên Chúa)), có
thể được cho là "thánh thiện hơn ngươi !".
Thế nhưng – cần phải rõ ràng từ bây giờ – điều quyết đoán này phải được thực
hiện theo nghĩa tôn giáo, chứ không theo nghĩa luân
lý. Trên thực tế, lối diễn tả này rõ ràng chỉ rõ thế nào là những người được
tuyển chọn xét như là "dân tộc thánh thiện" mới. Từ
nay, họ là "những người thánh" bởi vì họ được hiệp nhất với Đấng
Thánh Độc Nhất của Thiên Chúa nhờ phép rửa. Thánh Phaolô gọi những người
nhận thư của ngài là "thánh", nhưng khi đọc
các thư này, người ta nắm bắt được ngay lập tức và cách rất rõ ràng rằng ngài
không ca tụng những phẩm chất luân lý cao cả nơi họ. Thật ra,
ngài khiển trách những mối thù hận của họ, những chia rẽ của họ, những
lầm lạc tính dục của họ. Và bất chấp những bất toàn này, họ vẫn là những người
thánh, những người được tuyển chọn của Thiên Chúa, và chính dựa trên sự kiện
này mà thánh Phaolô khích lệ họ thực hành các nhân đức mẫu mực, dĩ nhiên là
siêu nhiên. Chính vì những gì họ là, các thánh, mà ngài
khuyến khích họ sống một đời sống thánh thiện. "Tôi
thúc giục anh em sống xứng đáng với ơn kêu gọi mà anh em đã lãnh nhận" (Ep
4, 1). Ơn gọi của người Kitô hữu kêu gọi họ nên một
với Chúa Kitô, Đấng mà họ được hiệp nhất nhờ phép rửa. Làm bẩn chính mình, đó là làm bẩn Đấng Thánh Độc Nhất của Thiên
Chúa, Đấng mà người Kitô hữu nên một với Ngài. "Anh em không biết
rằng thân xác của anh em là chi thể của Chúa Kitô sao ?
Phải chăng tôi lại lấy phần thân thể của Ðức Kitô mà làm phần
thân thể của người kỹ nữ sao? Không đời nào!"
(1Cr 6, 15).
Có một sự năng động trong đời sống Kitô
giáo theo đó người Kitô hữu được thúc đẩy, được biến
đổi nên thánh chứ không phải là ít hành động, thánh hóa bản thân phù hợp với
tình trạng của mình. Cũng người đó có thể là thánh (hagios) và công
chính (dikaios), nhưng thuật ngữ đầu tiên chỉ rõ thân phận mà Thiên Chúa
đã phú cho và thuật ngữ thứ hai chỉ hoạt động bản thân :
G. Kittel nhận xét : "Dù có chịu ảnh hưởng văn minh Hylạp hay không,
ý niệm "thánh thiện" luôn luôn có liên quan đến tính luân lý tĩnh của
sự vô tội hơn là với hoạt động đạo đức. Nhưng tính luân lý
tĩnh này được liên kết chặt chẽ với một sự định phẩm phụng tự. Vì lý do
này, không bao giờ được dịch hagiotès hay hagios bằng
"moralité" (đạo đức) hay "moral" (luân lý), vì điều đó có
nghĩa là làm mất đi thành tố tôn giáo" (11).
Đặc tính thụ động của sự thánh thiện và
đặc tính chủ động của sự công chính được thể hiện cách kinh ngạc bởi hai dạng,
chủ động và thụ động, của cùng một động từ trong bản văn sách Khải Huyền :
"người công chính cứ tiếp tục hành động (agir) theo sự
ngay thẳng và người thánh thiện hãy tiếp tục là (être) thánh
thiện" (Kh 22, 11 : ho dikaios dikaiosunèn poièsatô (actif) eti
kai ho hagios hagasthètô (passif) eti). Phạm trù "thánh
thiện" được đánh dấu bởi một tính thụ động mà người ta có thể nêu lên
trong việc dùng thuật ngữ như "sự tuyển chọn" và trong những đoạn như
"không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con"
(Ga 15, 16). Chính bằng những thuật ngữ này mà H.U. von Balthasar nói về ơn gọi
của mình : "Ngày hôm nay vẫn thế, ở khoảng
cách 30 năm, tôi hẳn sẽ có thể tìm lại được con đường hẻo lánh của dãy núi
Forêt Noire, nằm không xa Bâle, và nhận ra cái cây, dưới đó, tôi đã được bất
ngờ chạm đến…Và như thế chẳng phải là thần học cũng chẳng phải là chức linh mục
len lỏi vào tâm trí của tôi như một tia chớp. Đơn giản là thế này : ngươi không chọn lựa gì, ngươi đã được kêu gọi. Ngươi sẽ không chiếm lấy nhiệm vụ, ngươi sẽ được đặt vào nhiệm vụ"
(12).
Các tu sĩ sẽ nói là đã bị nắm lấy, được
chọn, dành riêng bởi Thiên Chúa thánh thiện, đang khi phẩm chất luân lý giả
thiết hoạt động, thực hiện những việc tốt lành mà chúng ta có sáng kiến. Thế nhưng hai thực tại không thể tách rời nhau, dù rằng ưu tiên
phẩm chất thuộc phía tuyển chọn. Vì thế câu "không phải các con đã
chon Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con", được hoàn tất bằng những lời
này : "để các con đi và sinh hoa kết quả".
Đặc tính siêu nhiên của thực tại đang
bàn đến không ngăn cản nó xác thực cái nhìn về cảm thức chung
được lấy lại bởi một tiên đề thời kinh viện "agere sequitur esse". Hành
động đi theo hữu thể, mọi chủ thể hoạt động phù
hợp với bản tính của mình. Những ai đã lãnh nhận hồng ân
đức tin và được ban cho dấu ấn không thể phai nhòa của bí tích rửa tội thì đơn
giản không còn thuộc về thế gian và xác thịt. Họ có một ơn
gọi đặc thù, được thánh hiến, dành riêng ra để cứu chuộc thế gian nơi họ tiếp
tục sống này. Chắc chắn bản tính của họ không bị hủy
hoại. Họ đã không trở thành các thiên thần. Đó luôn luôn là những người nam và người nữ. Nhưng từ bầy giờ họ có đủ tư cách để thực hiện những gì mà họ đã
hoàn toàn bất khả trước khi họ được tuyển chọn. Bản tính của họ đã chịu
một sự thay đổi và cảm thấy được biến đổi ; bây
giờ họ phải sống cuộc sống của chính Chúa Giêsu Kitô, như là đang hình thành
Thân Thể của Ngài trong thế giới này. Khi thánh Phaolô thúc
giục các Kitô hữu Rôma sống phù hợp với những gì họ là, ngài khuyến khích họ
hiến dâng chính mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa
(Rm 12, 1).
Linh mục như
là nhân vị linh thánh
Tất cả những gì nói
trước đây không chỉ trình bày một toàn bộ những suy tư mào đầu liên quan đến
đặc tính linh thánh của linh mục như là nền tảng của lối sống và giáo huấn luân
lý của ngài. Đúng hơn điều đó được lồng vào trong chính sự
xem xét mà cần phải làm cho chúng ta lưu tâm. Điều đó
không chỉ cho thấy rằng ý tưởng về một nhân vị linh thánh, được thánh hiến,
không xa lạ với nhiệm cục Kitô giáo, nhưng nó còn thiết yếu đối với nhiệm cục
này. Nó cho thấy nữa rằng ý niệm "linh thánh" vượt ra khỏi
phạm vi của Giáo Hội và, dĩ nhiên, đi trước Giáo Hội.
Bởi thế, sẽ không có ai ngạc nhiên khi đọc thấy trong Hiến chế tín lý của
Vatican II về Giáo Hội rằng chức tư tế chung của mọi
tín hữu và chức tư tế chức thánh phẩm trật khác nhau không chỉ về cấp độ, nhưng
còn bởi yếu tính nữa (essentia et non gradu tantum) (13).
Trong số các thành phần của dân thánh
của Thiên Chúa, được thánh hiến và nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô, có
những người đã lãnh nhận một sự thánh hiến khác, sự thánh hiến này, cách
khách quan, trao phó cho họ một sự đồng hình động dạng sâu xa hơn với chính
Chúa Kitô. Chẳng có chút xứng đáng nào về phía họ, những người này đã được chọn
và được dành riêng để phụng sự Thiên Chúa. Tương quan với bậc giáo dân, họ đã trở nên "thánh thiện hơn
ngươi". Rõ ràng điều đó không được hiểu theo
nghĩa chủ quan và luân lý. Chúng ta biết rõ lắm rồi, và
quá đau buồn – và không ai đau buồn hơn là chính linh mục – đến nỗi các linh
mục không nhất thiết "đạo đức hơn ngươi" chút nào. Dù sao họ đã được dành riêng ra, được thánh hiến, truyền chức để
phục vụ Thiên Chúa và các Kitô hữu, bằng hữu của họ. Để
thực hiện những gì họ được kêu gọi để làm, họ đã lãnh nhận từ Thiên Chúa những
năng quyền đặc biệt. Như công đồng nói : "Chức linh mục thừa
tác được trao ban cho một năng quyền linh thánh (sacra potestas) để đào
tạo và hướng dẫn dân tư tế, để thực thi nhân danh Chúa Kitô hy tế thánh thể và
dâng nó cho Thiên Chúa nhân danh toàn thể dân chúng" (14).
Chứng tá của Thánh Kinh, của truyền
thống và của công đồng đại kết vừa qua của Giáo Hội nói rõ rằng các thừa tác vụ
thánh được dành riêng ra và được thánh hiến đến độ bản tính của họ được biến
đổi. Thánh Phaolô tự giới thiệu như là "tôi tớ của Chúa
Giêsu Kitô, được kêu gọi làm tông đồ và được dành riêng ra" (Rm 1, 1).
Thánh Tôma nói trong bộ Tổng Luận Thần Học : Sacerdotes
consecrantur, "các linh mục được xức dầu thánh hiến" (15). Presbyteri… consecrantur… ut veri sacerdotes
Những gì mà linh mục thực hiện trong Tân
ước dĩ nhiên vượt xa những gì các tư tế làm trong Cựu Ước. Trước tôn nhan Chúa
Cha, ngài tán tụng hy tế hoàn hảo của chính Chúa Kitô và mang lại cho dân Chúa
những ân huệ của hy tế này. Ở giữa các tín hữu, ngài được coi
như là nhân danh Chúa Kitô, trong tư cách người đại diện chính Con
Người của Chúa Kitô. Vì một năng quyền như thế vượt xa các tiềm năng của
con người, nên linh mục phải lãnh nhận năng quyền này từ trên, như khi các tông
đồ được thánh hiến và được ủy thác dâng Thánh Thể cho đến ngày Ngài trở lại. Sự
xức dầu thánh hiến được trao ban cho linh mục do việc truyền chức này là trường
tồn như việc xức dầu thánh hiến của bí tích Rửa tội; chúng ta chỉ rõ việc xức
dầu thánh hiến này bằng thuật ngữ chuyên môn "dấu ấn không thể phai nhòa".
Cũng như các nhân đức đối thần tin, cậy,
mến giúp cho có khả năng hành động siêu nhiên mà chúng ta sẽ không thể nếu
không có những ân huệ nhưng không này của Thiên Chúa, thì cũng thế ân sủng của
(bí tích) truyền chức thánh làm cho linh mục có tư cách hoàn tất những hành vi
mà một người thường hay một người đã được rửa tội sẽ không thể thực hiện. Nhờ
vào hồng ân lãnh nhận, linh mục có khả năng biến đổi
bánh và rượu thành lương thực bất tử và tha thứ tội lỗi cho hối nhân. Như thánh Tôma nói, "những công trình của Thiên Chúa đều hoàn
hảo, bởi thế bất kỳ ai lãnh nhận một năng quyền từ trên cũng sẽ lãnh nhận tất cả
những gì làm cho người ấy có khả năng thực thi năng quyền này" (18).
Vả lại, thánh Tôma nói : ân sủng của (bí tích) truyền chức thánh trao ban
một sức mạnh dụng cụ, virtus instrumentalis, chứ không phải là tự bản thân
(personnelle), vốn làm cho linh mục có tư cách phục vụ cho việc thực hiện các
kế hoạch cao cả mà ngài được kêu gọi (19). Chính đó là năng lực mà thánh Phaolô
đã nói trong lời khuyến khích cho Timôtê, người con thiêng liêng của ngài : "Con hãy làm sống lại ân huệ mà Thiên Chúa
đã đặt để nơi con qua việc đặt tay" (2Tm 1, 6).
Dấu ấn không thể phai nhòa này và năng quyền bí tích hữu
hiệu ex opere operato không tạo nên một đặc ân và không bao
gồm điều gì ma thuật cả ; nó hệ tại những ân huệ
cao quý khôn sánh đối với các tín hữu ; những người này có thể có bảo đảm
của ân sủng của Thiên Chúa bất chấp sự bất xứng hay sự thiếu chú tâm của thừa
tác viên chức thánh. Trong một bài luận có tựa đề "Thế nào là một linh mục ?", Joseph Pieper chỉ ra rằng tình trạng
của người được xức dầu thánh hiến là một "ưu phẩm hiện thực (attribut
actuel), khách quan ; cho dù nó bó buộc người hưởng nó sống một cuộc sống
xứng đáng của một "tôi tớ của sự linh thánh", thế nhưng ưu phẩm này
vẫn giữ sức mạnh của nó độc lập với phẩm giá bản thân của chủ thể. Tóm lại, sự
tôn trọng mà các tín hữu dành cho linh mục "chức thánh" ("thánh
hiến") không nói đến con người vì hạnh kiểm luân lý không thể chê trách
hay vì những tư chất trí tuệ và tinh thần, nhưng đúng hơn đến sự định phẩm
(qualification) mà bí tích truyền chức thánh đã trao cho ngài" (20).
Bằng vào ân sủng của Thiên Chúa và của
dấu ấn bất khả phai nhòa được in dấu nơi mình, từ nay, linh mục hành động, nói
như thánh Phaolô, nhân danh Chúa Kitô (in persona Christi)
(2Cr 2, 10). Đời sống và thừa tác vụ của Chúa Kitô đã trở nên
cuộc sống và thừa tác vụ của ngài. Khi ngài giao phó đời sống của ngài
cho Chúa Kitô, thì lời hứa của Chúa được thực hiện nơi ngài :
"Không còn là các con nói nữa, nhưng Thánh Thần của Cha các con sẽ nói qua
các con" (Mt 16, 20). Linh mục không đứng giữa Thiên Chúa và con người,
nhưng đúng hơn sự trung gian của ngài đặt các tín hữu trong mối liên lạc tức
thời với Chúa Kitô. Các năng quyền bí tích mà ngài có không
phải là những năng quyền của ngài nhưng là những năng quyền của Chúa Kitô.
Vì thế thánh Tôma coi chúng thuộc dụng cụ hơn là tự
bản thân. Khi linh mục cử hành các bí
tích, thì Chúa Kitô hoạt động trong ngài và nhờ ngài. Theo
nghĩa này, Công đồng tuyên bố trong Hiến Chế về Phụng Vụ thánh rằng Chúa Kitô "hiện
diện trong hy tế thánh lễ… trong con người của linh mục" (21). Linh mục không phải là linh mục cho chính mình nhưng cho các tín
hữu, và với danh nghĩa này, ngài cho thấy bản chất cao cả, thể hiện qua sự tự
hiến, của chính Chúa Ba Ngôi. Như Đức Gioan Phaolô II đã nói : "Thiên chức linh mục không phải là của chúng
ta ; chúng ta không lãnh nhận nó để biến nó thành những gì làm vừa lòng
chúng ta…bổn phận của chúng ta là trung thành với Đấng đã kêu gọi chúng ta.
Thiên chức linh mục là một ân huệ đã được ban cho
chúng ta. Nhưng trong chúng ta và qua chúng ta đó là một ân
huệ được thực hiện cho Giáo Hội" (22).
Đặc tính linh
thánh như là nền tảng của đời sống luân lý của linh mục
Sự thánh thiện của thiên chức linh mục
là một ân huệ của Thiên Chúa, nhưng không, bất xứng,
thực sự bất khả sánh. Nó biểu thị phẩm tính thụ động của một thực tại mà con
người lãnh nhận từ Thiên Chúa bất chấp sự bất xứng của mình. Con người cảm thấy
thực sự được biến đổi từ đó. Nó nhận được một dấu ấn không thể phai nhòa và ân sủng sống đời sống được ban cho mình. Linh mục khuôn theo, được đồng hình đồng dạng (configuratur) với
Chúa Kitô linh mục (23). Không còn là ngài sống nữa, nhưng
Chúa Kitô sống trong ngài.
Như thế ngài cần phải
trở nên trọn vẹn những gì ngài là. Nguyên tắc agere sequitur esse (hành động
đi theo hữu thể) cần thiết đối với ngài. Yếu tố chủ
động công chính, ngài phải thực hiện nó bằng việc cộng tác với ân sủng của Thiên Chúa, bằng cách sống những gì ngài đã trở
nên. Như mỗi người đều biết, sự đòi hỏi này được biểu lộ công khai và về mặt
nghi lễ trong việc cử hành Thánh thể, (sự cử hành này) có tính trổi vượt nhất
trong số các chức năng mà linh mục được truyền chức nhắm đến (24). Nơi cộng
đoàn Kitô hữu, linh mục là người duy nhất có thể làm tròn chức năng này nhờ vào
ân sủng và quyền năng của Thiên Chúa (25). Đức Giáo hoàng
Gioan Phaolô II nhận xét về điều đó : "Cách đặc biệt và bí tích, vị
chủ tế giống với vị Thượng Tế đời đời, là tác giả và là tác nhân (actor)
chính yếu của hy tế của ngài, mà thực sự không ai có thể lấy chỗ của ngài"
(26). Mà hy tế của Chúa Kitô đã là sự phó thác hoàn toàn cuộc sống của Ngài cho
Cha Ngài, trong Thánh Thần, vì bạn hữu của Ngài, cũng như là sự trao ban hoàn
toàn cuộc sống của Ngài cho bạn hữu của Ngài vì Cha Ngài. Công
đồng nói với chúng ta rằng nguồn mạch của mọi đức ái mục vụ là hy tế thánh thể
bởi vì ở đó, linh mục được nên đồng hình đồng dạng với Chúa của mình cách tuyệt
vời nhất. Theo những thuật ngữ của Công đồng, hiến tế
này là "trung tâm và là cội nguồn của tất cả cuộc sống của linh mục, đến
độ tâm trí của linh mục nỗ lực nội tâm hóa những gì được thực hiện trên bàn thờ
hy tế" (27).
Qua việc truyền chức
thánh của mình, linh mục đã bước vào trong mầu nhiệm vượt qua cách trọn vẹn
hơn. Vì
như Chúa Giêsu hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và cho chúng ta, linh mục hoàn
toàn thuộc về Chúa Kitô và hoàn toàn cho chúng ta. Ngài
sống hoàn toàn trong sự trao hiến cho Thiên Chúa và cho chúng ta, những tín
hữu. Toàn thể cuộc sống của ngài là một lễ vật.
Như Chúa Kitô, ngài không thể tách rời con người của ngài khỏi hoạt động của
mình. Lấy ví dụ : khi một người đàn ông lấy vợ,
ông trở thành chồng cách không thể thay đổi, mãi mãi. Như
thế, khi một người nam được xức dầu thánh hiến, người ấy trở nên linh mục cách
không thể thay đổi được và mãi mãi. Có thể một người
chồng ly thân với vợ mình, nhưng ông sẽ không bao giờ ngưng là chồng của bà.
Có thể một linh mục từ bỏ chức vụ giáo sĩ, nhưng ngài sẽ
không bao giờ ngưng là linh mục. Gia đình Kitô hữu chứng thực trước thế
giới và thực sự sống mối giây liên kết tình yêu vốn nối kết cách tuyệt đối bất
khả phân ly Chúa Kitô và Giáo Hội của Ngài ; cũng
thế, theo cách thâm sâu nhất có thể nhận thấy, linh mục chứng thực tình yêu của
Chúa Kitô hy sinh vì thế gian, điều đó bởi vì một sự biến đổi thực sự hữu thể
của ngài. Xin Thiên Chúa thương xót người đã làm
biến dạng khuôn mặt của Chúa Kitô trước mắt thế gian khi phản bội căn tính của
mình, hoặc là hôn phu kitô hữu hoặc là linh mục !
Linh mục được đồng hình đồng dạng với
Chúa Kitô và được tràn đầy ân sủng tràn trề của Ngài. Ân sủng này làm cho ngài hơn những gì ngài có thể hy vọng
trở thành trong thân phận làm người của ngài. Ngài đã hoàn
toàn tự hiến. Ngài đã từ bỏ gia đình, nhà cửa, của
cải, quyền lực trần thế hoàn toàn không bởi chối từ nhưng bởi vì ngài cảm thấy
được đổ tràn đầy. Không còn chỗ nữa cho những thứ đó.
Làm như thế, ngài bắt chước Chúa Kitô. Joseph
Ratzinger nhận xét điều này trong một bối cảnh khác :
"Sự phong phú tràn trề là nguyên lý đích thực và là hình thức của lịch sử
cứu độ ; lịch sử này cuối cùng không gì hơn là sự kiện, thực sự gây kinh
ngạc, của một vị Thiên Chúa, mà trong sự phung phí khó hiểu của Người, không
chỉ tiêu phí cho một vũ trụ nhưng còn tự tiêu hao chính Mình để đưa đến ơn cứu
độ hạt bụi là chính con người. Sự phong phú tràn trề vì thế
là định nghĩa đích thực của lịch sử cứu độ" (28).
Đời sống của linh mục
là một cuộc sống dư tràn sự quảng đại. Chính sự quảng đại,
chứ không phải là sự hẹp hòi, là động lực của đời sống độc thân. Ở đây nữa, chúng ta có thể tìm thấy một sự loại suy trong hôn nhân.
Bằng việc gắn bó với hôn thê của mình, vị hôn phu không định
loại trừ những phụ nữ khác khỏi sự hứng thú của mình. Sự
kiện là, về điểm này, người chồng được đổ đầy bởi người vợ yêu mến ông đến nỗi
không còn chỗ nữa cho những người nữ khác. Tương tự
như thế, linh mục không phải đã không muốn có hôn thê và gia đình. Nhưng toàn thể hữu thể của ngài đã được đổ đầy bởi Chúa Kitô, đồng
hình đồng dạng với Chúa Kitô, đến nỗi không còn chỗ cho những sự khác. Và khi phó mình cho Chúa Kitô, ngài khám phá ra rằng, cũng như Chúa
của mình, ngài đã hiến mình cho tất cả những ai ngài gặp.
Thiên chức linh mục có
thể cuốn hút một linh mục đến nỗi toàn thể cuộc sống của ngài là một của lễ
phục vụ tha nhân như đã từng là cuộc sống của Chúa của ngài. Vì thế, ngài phải cho
đi tất cả. Tại Đức, theo như lời người ta kể,
có một cây đàn piano có kiểu mẫu rất đặc biệt. Nó thấp hơn cây đàn piano thông
thường rất nhiều ; gần những phím đàn, có cái
khung gỗ mang những dấu răng khá sâu. Chính Beethoven đã nhờ
chế tạo dụng cụ này cho chính ông. Thiên tài âm nhạc
này đã dành trọn vẹn cuộc sống của mình cho nghệ thuật. Thế rồi, vì số
phận tàn nhẫn nhất, ông đã mất đi thính giác và có nguy cơ bị tước đi mọi tiếp
xúc với âm nhạc, đam mê của cuộc sống của ông. Vì thế, ông đã dùng một cây đàn
piano được chế tạo theo cách mà ông có thể chơi trong
khi ngồi. Như thế, khi chơi đàn, ông đã ấn hàm răng vào trong gỗ, trong một nỗ
lực vô vọng để giữ sự tiếp xúc với thế giới các âm thanh, vốn đã là tất cả cuộc
sống của ông. Có lẽ đó là một cái để so sánh đối với linh mục, mà không phải là
ít đam mê hơn để sống chức linh mục của Chúa Kitô. Như hy tế Thánh thể, cuộc
sống của ngài sẽ hoàn toàn được hiến dâng nhờ Đức Kitô và trong Đức
Kitô (per Christum et in Christo). Thánh
Irênê đã nói về sự hiến thân hoàn toàn này cấu thành dấu ấn của nhiệm cục mới
mà ngài so sánh với nhiệm cục cũ : "Vai trò
của các lễ vật hy tế không bị xóa bỏ. Những lễ vật như thế đã có rồi và ngày nay còn có nữa. Đã có những hy
tế nơi dân (Do thái), đang có những hy tế trong Giáo Hội. (Những người Do thái) chỉ dành một phần mười của cải của họ, nhưng
chúng ta, chúng ta để cho Thiên Chúa sử dụng tất cả những gì của chúng ta…như
bà góa nghèo này, Giáo Hội đặt để toàn bộ đời sống của mình nơi kho tàng Thiên
Chúa" (29). Chức linh mục của Chúa Kitô là một sự
phục vụ hy sinh hoàn toàn.
Lời sau cùng về đặc
tính linh thánh của linh mục như là nền tảng của giáo huấn luân lý mà ngài tiêu
hao bằng chứng tá đời sống của ngài. Thời nay, người ta thường nghe những phản đối chống lại sự
kiện rằng thế giới nói chung và các tín hữu nói riêng
chờ đợi nơi linh mục một cấp độ luân lý tính cao hơn nơi những người khác và
điều đó đè nặng lên ngài những đòi hỏi vô lý. Chung quy, người ta nói với chúng
ta, đó là một con người như những người khác, chủ thể với những yếu đuối và
những cám dỗ như nhau. Dĩ nhiên, những điều đó đều đúng cả.
Và mọi Kitô hữu, linh mục và giáo dân, đều được mời gọi đến
cùng một mức độ thánh thiện bản thân. Tuy nhiên, cũng đúng rằng những
người đã đảm nhận một thừa tác vụ công cộng như thiên chức linh mục, đã được
đồng hình đồng dạng, cách công khai và bí tích, với cuộc sống linh mục của Chúa
Kitô, thì nơi những người đó người ta mong rằng họ biểu lộ đời sống này cách
mạnh mẽ hơn trước mặt mọi người.
Giới giáo dân được
hình thành bởi những Kitô hữu sống âm thầm trong thế gian và biến đổi nó từ bên
trong. Các linh mục là những người ở giữa chúng ta, biểu lộ Chúa Kitô
theo cách thức lôi kéo sự chú ý. Đó là một trong những lý do mà, theo gương
Chúa Kitô, các linh mục không lập gia đình, không có gia đình và nhà cửa của
họ, không làm theo ý muốn của mình, nhưng đúng hơn ý muốn của thẩm quyền mà
trao cho họ sứ mạng này rồi sứ mạng kia. Họ mang một dấu bề ngoài tình trạng
của họ, để được bạn bè hay các đối thủ, các ân nhân
hay là những thụ ân nhìn nhận họ như là những linh mục của Thiên Chúa. Điều đó thuộc về cái giá mà họ trả để biến cuộc sống của họ thành
của lễ vì ơn cứu độ của thế giới. Bởi thế, nếu họ không làm tròn việc
dấn thân thánh thiêng của họ, nếu họ phản bội đặc tính linh thánh, nghĩa là
việc hiến dâng hoàn toàn cho Thiên Chúa, thì cái giá được đòi hỏi như thế
thường rất đau lòng không chỉ đối với đương sự nhưng còn đối với các tín hữu
nữa.
Như sự khiếm khuyết
của một linh mục làm yếu đi Thân Thể toàn thể của Chúa Kitô, thì nhân đức của
ngài củng cố nó. Nhưng thật quan trọng để hiểu làm thế nào ân sủng của Thiên Chúa
tác động đến độ không bao giờ linh mục mê ngủ trong một sự an toàn sai lầm bằng
cách nghĩ rằng dấu ấn của Bí tích Truyền Chức Thánh trao phó, cách hầu như ma
thuật, một khả năng trổi vượt để sống đời sống luân lý. Con đường duy nhất mà
linh mục trở nên đạo đức hệ tại làm điều thiện mà mỗi người phải thực hiện và
phải tránh điều dữ. Chẳng có gì khác hiệu quả. Có thể
xảy ra rằng một Kitô hữu nhân tăng sự hiệp thông đến giới hạn có thể, rằng một
linh mục cử hành Thánh Thể mọi ngày trong sự nghiệp linh mục của mình. Ngài chỉ trở nên đức hạnh nếu ngài chọn và thực thi những gì là tốt
lành về mặt luân lý. Bí tích Truyền Chức Thánh làm cho linh mục có khả
năng sống và làm những gì mà về mặt tự nhiên ngài sẽ không thể, tức là
hành động cách bí tích nhân danh Chúa Kitô, hoàn tất những hành vi cứu
rỗi của Thiên Chúa trong thế gian. Qua bí tích Truyền Chức Thánh, Thiên Chúa
cũng bảo đảm những ân sủng cần thiết cho linh mục để
sống phù hợp với địa vị của mình. Nhưng linh mục phải cộng tác với ân sủng được trao ban. Cách duy nhất để
trở nên đạo đức (moral), đó là hành động cách luân lý (moralement).
Trên bình diện tự nhiên, chẳng hạn, nếu một người mải mê sự dâm ô, thì đó không phải là
sự phú ban ân sủng siêu nhiên sẽ làm cho người ấy dễ dàng hơn thực hành đức
trong sạch. Ân sủng làm cho có khả năng thực hiện những hành vi siêu nhiên ; do đó nếu tình yêu của chúng ta đối với Thiên
Chúa gia tăng, thì nó làm cho chúng ta sẵn sàng tốt hơn để thực thi những gì
cần phải làm vui lòng Người ; nhưng điều đó không làm cho dễ dàng hơn việc
thực thi các hành vi đúng đắn về mặt luân lý nơi một chủ thể đã quen với thói
xấu (30). Những hành vi của đức trong sạch sẽ chỉ trở
nên dễ dàng hơn nhờ hiệu quả của việc lập đi lập lại chúng. Nơi linh mục, các
nhân đức luân lý tự nhiên phải được xây dựng, với sự trợ giúp của Thiên Chúa,
bởi việc thực hành những hành vi nhân đức. Vì thế, đối
với linh mục, thật quan trọng việc chăm chú đến lời của thánh Phaolô : "Sau
hết, thưa anh em, những gì là chân thật, cao quý, những gì là chính trực tinh
tuyền, những gì là đáng mến và đem lại danh thơm tiếng tốt, những gì là đức
hạnh, đáng khen, thì xin anh em hãy để ý. Những gì anh em đã học hỏi, đã lãnh
nhận, đã nghe, đã thấy ở nơi tôi, thì hãy đem ra thực hành" (Pl 4, 8-9).
Thế nhưng, bất chấp
lời kêu gọi nên thánh, bất chấp đặc tính linh thánh của mình, linh mục sẽ
không tránh được mọi khiếm khuyết. Chỉ có một người hoàn
hảo, đó là Chúa Giêsu Kitô. "Mọi người đã phạm
tội và bị tước đi vinh quang của Thiên Chúa" (Rm 3, 23). "Nếu chúng ta nói rằng chúng ta không có tội, thì chúng ta tự
lừa dối chính mình và chân lý không ở nơi chúng ta" (1 Ga 1, 8).
Thánh Kinh đầy những ví dụ về những con người mà Thiên Chúa đã kêu gọi và đã
lỗi lầm. Sự mỏng giòn làm người nơi các linh mục không nên
làm ngạc nhiên ai. Nước Trời thuộc về những người như
thế. Chúa Kitô đã đến vì những con người như thế. Như cha Henri de Lubac
nhận xét trong cuốn Suy niệm về Giáo Hội : Giáo Hội là thánh
thiện không phải vì nó bao gồm những con người không khiếm khuyết, nhưng vì
Chúa trao ban cho Giáo Hội sự thánh thiện như là ân huệ hoàn toàn bất xứng (đối
với con người) (31). Chắc chắn, trong sự yếu đuối của
mình, linh mục lãnh nhận một sức mạnh hơn nữa của thừa tác vụ mà ngài thực thi
đối với dân Thiên Chúa. Những gì mà người ta thường xem như là một sự tai tiếng – những tội lỗi của Giáo Hội và của các thừa tác
viên của Giáo Hội – có thể là một nguồn an ủi. Đức Hồng Y J. Ratzinger có thể viết : « Tôi thừa nhận rằng, đối với tôi, sự thánh
thiện tội lỗi này có điều gì đó an ủi vô cùng, vì chẳng phải là không cần phải
tuyệt vọng trước một sự thánh thiện không vết nhơ và chỉ có thể tác động trên
chúng ta bằng cách phán xét và thiêu đốt ?" (32).
Bí tích hòa giải được
lập nên cho cả linh mục lẫn giáo dân. Khi linh mục quỳ gối với tư cách mà hối
nhân, thì thừa tác vụ của ngài được thực thi và được thể hiện cách chắc chắn và
hy tế như khi ngài đứng ở bàn thờ của Thiên Chúa. Trong tập những suy
niệm của Josemaria Escriva de Balaguer, linh mục người Tây ban nha, sáng lập viên
của tổ chức Opus Dei, người ta tìm
thấy những yếu tố sám hối, hy sinh, bí tích và thánh thể vốn làm nên đời sống
linh mục được lồng vào trong khung cảnh này : "Trong
bí tích Giải tội, chính Chúa Giêsu tha thứ cho chúng ta. Ở
đó, những công trạng của Chúa Giêsu được áp dụng cho chúng ta. Chính vì
tình yêu đối với chúng ta mà Ngài ở trên thập giá, giang tay
ra, chịu đóng vào gỗ giá bởi vì tình yêu mà Ngài mang lấy chúng ta hơn là bởi
vì những cái đinh" (33). Linh mục, cũng như mọi Kitô hữu khác, cần ơn tha
thứ của Chúa Kitô và phải cần đến thừa tác vụ bí tích hòa giải được thực thi
bởi các đồng nghiệp của ngài, cách đều đặn và khá thường xuyên. Hơn ai khác, ngài phải tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, như sư tử
gầm thét, tìm thấy chút mồi hấp dẫn như là một linh mục của Thiên Chúa (x. 1 Pr
5, 8).
Đặc tính linh
thánh như là nền tảng của giáo huấn luân lý
Chúng ta đã ghi nhận,
con người của linh mục không thể được tách rời khỏi hoạt động giáo huấn và rao
giảng của ngài. Dĩ nhiên, linh mục giảng dạy cách trổi vượt nhờ
vào mẫu gương của đời sống của ngài. Điều đó vừa được
bàn đến. Thế nhưng, ngài cũng có trách nhiệm giảng dạy cách rõ ràng.
Cần nhớ rằng đối tượng
của giáo huấn của ngài không thuộc về ngài. Ngài chỉ bàn về những
gì ngài đã lãnh nhận. Trên thực tế, do bởi chính bản
chất của ơn gọi của mình, linh mục buộc phải giảng dạy Chúa Giêsu Kitô và Chúa
Giêsu Kitô chịu đóng đinh. Thế mà toàn bộ đức tin, những xác định của
các công đồng, khoa học thánh của các Tiến sĩ của Giáo Hội, những tuyên bố của
Huấn Quyền suốt dòng thời gian, tất cả đều tập trung vào Con Người lịch sử độc
nhất, Chúa Giêsu Nazareth, mà linh mục được trở nên giống hình ảnh Ngài. Nếu
ngài được hiến dâng để sống Chúa Giêsu Kitô, thì ngài có thể làm điều gì khác
hơn là giảng dạy Chúa Giêsu Kitô – và đúng Chúa Giêsu Kitô mà Thân Thể của Ngài
là Giáo Hội Công Giáo, được tràn đày Thánh Thần, Đấng dẫn Giáo Hội đến chân lý
toàn diện, nhận biết và thấu hiểu ?
Trách nhiệm giảng dạy,
hoàn toàn như trách nhiệm cử hành ban phát các bí tích, không có cứu cánh nào
hơn là xây dựng Thân Thể của Chúa Kitô để phục vụ Thiên Chúa và thế giới. Linh mục là người
phục vụ Lời Thiên Chúa, (Lời này) phải được công bố trong sự trung tín hoàn
toàn đối với những người có bổn phận giải thích nó cách đích thực (34).
Công đồng khẳng định : "Nhiệm vụ của linh
mục không phải loan báo sự khôn ngoan của mình nhưng là Lời của Thiên Chúa"
(35). Trách vụ này không kém hơn trách vụ dâng hy tế Thánh
thể của linh mục. Cả hai trách vụ này gắn kết sâu sắc
với nhau. Liên quan đến sự kết hiệp này, Origène viết :
"Anh em biết, anh em quen tham dự vào các mầu nhiệm thần linh, bằng sự cẩn
trọng sốt sắng nào, khi anh em lãnh nhận Thân Thể của Chúa, anh em chăm
chú không để cho một mẩu Mình Thánh nhỏ nhất rơi xuống đất…anh em sẽ cảm thấy
mình có tội cách chính đáng, nếu điều đó xảy đến do lỗi cẩu thả của anh em. Như
thế…làm sao đó sẽ là một lỗi ít nghiêm trọng hơn được khi anh em chểnh mảng đối
với Lời của Thiên Chúa như là chểnh mảng đối với Thân Thể của Thân Thể Ngài ?" (36).
Ở đây, việc đề cập này phải được xem xét
từ sự khủng hoảng về một đặc tính đặc thù mà ngày nay tác động đến thừa tác vụ
linh mục trong lãnh vực rao giảng : đó là vấn đề
tính nhút nhát vô cớ ngăn cản một số khá linh mục giảng dạy giáo lý nghiêm khắc
của Chúa Kitô, mà họ là những người đại diện. Đó chắc chắn là một khuynh hướng
cảm thông chiều ý làm cho họ quay lưng không còn trình bày rõ ràng những đòi
hỏi nghiêm khắc của Tin Mừng. Nhưng đó là một sự trắc ẩn bị hiểu sai lệch, vì
rốt cuộc, nó chẳng phục vụ cho dân Chúa cũng chẳng cho thế giới nói chung. Đức
Phaolô VI đã nói điều đó, và Đức Gioan Phaolô II đã lặp lại :
"Đừng giảm thiểu giáo huấn cứu độ của Chúa Kitô tí nào, điều đó tạo nên
hình thức đức ái trổi vượt đối với các linh hồn" (37).
Ly dị và tái hôn liên
tiếp, đó không phải là một chọn lựa đối với các Kitô hữu. Hôn nhân không phải
là một chọn lựa đối với một linh mục. Việc ngừa thai
về mặt khách quan và tự nội là phi luân lý và việc phá thai là điều sỉ nhục, nó
nhạo báng các giá trị nhân bản đến độ nó thậm chí không cần được bàn đến giữa
chúng ta, thậm chí còn ít được xem xét và ủy thác. Những hành vi đồng tính luyến ái là một sự phóng túng, một sự xúc phạm
Thiên Chúa, một sự thiệt hại mà chủ thể phải chịu. Trong những năm vừa qua, bàn
về những điều xấu đa dạng này, phải chăng giáo huấn đã trở nên lập lờ bởi vì
các linh mục sợ vấp phải sự nhạy cảm của công chúng ?
Hay là những linh mục này chính họ sợ không hợp lòng dân hoặc có thể là sự
tẩy chay mà một giáo huấn như thể có nguy cơ khơi lên ?
Hay là phải chăng họ không còn tin nữa rằng Thiên Chúa đã nói với chúng ta cách
rõ ràng trong Thánh Kinh và qua Huấn Quyền của Giáo Hội ?
Cho dù là lý do nào đi nữa, đó hẳn là điềm dữ đối với thiên chức linh mục của
họ và đối với dân chúng mà họ được kêu gọi phục vụ.
Trong cuốn
Chúng ta cũng có thể nắm bắt được rằng
trách vụ của linh mục không bị giới hạn vào việc phục vụ các tín hữu (domestici
fidei), vào việc xây dựng Thân Thể Chúa Kitô ;
linh mục cũng phải phục vụ xã hội bằng cách ra sức làm cho nó hoán cải nhờ lời
giảng dạy và những hướng dẫn luân lý.
Ngày nay, nhiệm vụ này
là rất lớn và đầy những hiểm nguy. Những cuộc khủng hoảng tâm linh, luân lý
và văn hóa mà những xã hội Kitô giáoTây Phương xưa đang trải qua đè nặng lên
đôi vai của vị Giáo hoàng hiện tại. Nhưng thực ra,
những cuộc khủng hoảng hiện tại liên quan đến các thánh, nghĩa là những người
được kêu gọi nên thánh. Sự hỗn loạn luân lý là kết quả của sự hỗn loạn
thiêng liêng, mà chúng ảnh hưởng lẫn nhau, như thánh Phaolô nói ở chương đầu
tiên của thư gởi tín hữu Rôma.
Rèn nắn một xã hội
Kitô giáo mới, điều đó không phải là một nhiệm vụ dễ dàng. Nó bao gồm những hy
sinh, sự mất uy tín đối với công chúng, có thể là sự tử vì đạo dưới hình thức
này hay hình thức khác. Nhưng cũng từ vấn đề như thế
mà chức linh mục của Chúa Kitô được hình thành. Đối
với nhiệm vụ thuộc phận sự của mình, linh mục phải sống trọn vẹn thiên chức
linh mục của ngài, mà không làm suy giảm gì. Một nền văn hóa mới không
thể được xây dựng mà không có những nỗ lực lớn lao nhất, theo vần thơ nổi tiếng
của Virgile, Tantae molis erat Romanam condere gentem ! "Lao công vất vả cần
thiết thay để thành lập dân Rôma !". Câu nói
này được áp dụng tốt hơn cho linh mục của Chúa Giêsu Kitô đang làm việc cùng
với toàn thể Thân Thể Mầu Nhiệm để thăng tiến một nền văn minh Kitô giáo mới ở
ngưỡng cửa của ngàn năm thứ ba của nhiệm cục mới.
Linh mục chỉ có thể
thực hiện được điều đó bằng cách sống như ngài là – một linh mục -, không lập
lờ, không hổ thẹn giả dối, với sự tận tụy hoàn toàn. Với tư cách là nhân vị linh thánh, linh
mục nhận thấy đối lập sâu sắc với những thỏa ước được thừa nhận, thường làm tê
liệt theo quan điểm luân lý, đang ngự trị nơi môi
trường ngài sống. Lối sống của ngài tự nó gây khó chịu và làm
bối rối những người lân cận. Những người không tin – và dĩ nhiên cũng
như người tin – cho là thực sự không thể tưởng tượng được rằng linh mục từ bỏ
mãi mãi quyền kết hôn và lập gia đình. Càng khó tin hơn nữa ở
xã hội Hoa kỳ ngày nay, việc từ bỏ mọi thực hành tính dục. Linh mục không tích lũy của cải vật chất. Ngài
không tìm kiếm quyền lực chính trị. Ngài ăn mặc
cách lạ thường và đặc biệt. Cuộc sống của ngài đặt ngài ở
ngoài lề những thỏa ước được thừa nhận và nét đặc thù của ngài thoát khỏi
chúng. Khá lý thú ! Bất chấp sự lạ thường
này – hay có lẽ vì nó -, chính khoa nhân chủng học xã hội nhìn nhận chức năng
hội nhập xã hội được thực hiện bởi các cá nhân linh thánh như thế, làở mức
ngang ngưỡng (liminal), và người ta hầu như có thể nói là "linh
vực" ("numineux").
Linh mục là sự tăng cường sự linh thánh
giữa lòng của Giáo Hội, như Giáo Hội, Thân Thể của Chúa Kitô, làm cho sự linh
thánh hiện diện giữa lòng phàm tục để thánh hóa nó. Đức Piô XII mô tả sự năng
động này trong thông điệp Mystici Corporis : "Cũng như phép rửa in
vào các Kitô hữu một dấu ấn phân biệt họ với những người khác, không được dìm
vào bồn nước thanh tẩy và không phải là những chi thể của Chúa Kitô, cũng thế
bí tích Truyền Chức Thánh phân biệt linh mục với tất cả Kitô hữu mà không được
phú cho ân sủng này".
Qua tính linh thánh,
mà tuyệt đối không được tách rời khỏi nhân tính của mình này, linh mục phản
chiếu sự thánh thiện của Thiên Chúa, là nguồn mạch của mọi luân lý tính. Làm thế, ngài không ngừng mời gọi thế
giới – cho dù nó có chia sẻ đức tin Kitô giáo hay không – nhìn nhận rằng có một
trật tự luân lý khách quan và một ngày nào đó, những hành xử luân lý mà chúng
ta chọn lựa sẽ chịu phán xét.
Hiện nay, một số người
muốn loại bỏ sự phân biệt giữa linh thánh và phàm tục. Các cung thánh đã
phải bị thay thế bằng những phòng hội nghị thánh thể, các linh mục dâng hy lễ
được thay thế bằng những công chức hay chủ tọa có tư cách thích hợp. Chính toàn bộ cuộc sống cần phải được coi là linh thánh. Tất cả mọi người cũng sẽ là thánh thiêng. Không
có ngày nào linh thánh hơn ngày nào. Tuy nhiên, không
có mùa thường niên, thì không còn nữa mùa ngoại thường Giáng sinh hay Phục
sinh. Không có ăn chay (fast), thì cũng chẳng
còn lễ lạc (feast). Đáng lẽ, do bởi những nỗ lực được tỏ rõ như
thế để xóa bỏ sự phân biệt giữa linh thánh và phàm tục, mọi sự sẽ trở nên linh
thánh, nhưng trên thực tế, tất cả đều bị giải thiêng trong một chủ nghĩa tục
hóa lan tràn và chết chóc. Tuyên bố rằng không có ai, nơi nào, đồ vật gì khác
biệt với những người, nơi chốn và đồ vật khác liên quan đến mối tương quan của
chúng đối với Thiên Chúa, điều đó dẫn đến việc làm biến mất mọi thứ thực tại
linh thánh, đồ vật, nơi chốn hay con người. Cuộc sống của một con người vô tội,
cho đến những giây phút cuối đời nó vẫn còn có một hào quang linh thánh làm cho
nó bất khả xâm phạm, cuộc sống này mất đi đặc tính linh thánh của nó trong xã
hội tục hóa.
Đặc tính linh thánh
của linh mục nhắc nhớ hết thảy chúng ta về Nguồn Suối của cuộc sống của chúng
ta. Một
sự hiện diện và một quyền năng như thế là hoàn toàn thiết yếu đối với công
trình biến đổi thế giới. Điều lạ là, chính thế giới
phàm tục và thế tục không thể tìm thấy sự biện giải của nó nếu không có sự linh
thánh. Không có sự linh thánh, thế giới phàm tục, thế
tục này sẽ rơi vào chủ nghĩa tục hóa, "phàm tục tính" thuần túy.
Không có cái siêu nhiên, tự nhiên sẽ bị hủy hoại, và cảm thấy
bị "biến tính". Có một sự năng động, tuyệt
đối không thể tránh khỏi, được ghi khắc trong chính trật tự của các sự vật.
Đối với con người, hành động ngược lại với luân lý, không tìm kiếm sự thiện hảo
của mình là ngược với bản tính của mình. Nhưng rõ ràng đó là những gì xảy đến
khi người ta quên mất đi sự linh thánh. Không có cái siêu
nhiên, con người sẽ thoái hóa vì sự phi luân lý làm cho nó phi nhân.
Không có Thiên Chúa, con người thậm chí không thể còn là chính nó.
Vì thế, linh mục nào sống mạnh mẽ và
không lập lờ thiên chức linh mục của mình sẽ giúp các giáo dân, nam và nữ, được
thánh hiến nhờ phép rửa, luôn luôn sống phù hợp cách hoàn hảo hơn với ơn gọi
giáo dân của họ. Sự linh thánh càng xuất hiện rõ ràng như nó là, thì cái thế
tục sẽ càng rõ ràng và đúng đắn như thế. Cái thế tục có phạm vi
riêng của nó, nơi giáo dân bàn giải công việc của mình mà không có sự chồng
chéo của giáo sĩ, vì họ có bổn phận tìm kiếm sự thánh thiện bản thân với tư
cách là giáo dân chứ không theo cách của một giáo sĩ. Tóm
lại, cái phàm tục không phải là một vương quốc mà Thiên Chúa sẽ là người xa lạ.
Mọi thứ đều thuộc về Thiên Chúa. Chẳng
có nơi đâu người ta thoát khỏi Người. Cái phàm tục không phải là xấu xa,
cũng chẳng phải bị tước đi khỏi Thiên Chúa, nhưng như từ ngữ cho thấy, nó
là khoảng không gian mở rộng trước đền thờ – pro-fano – nơi
những công việc bình thường của đời thường được bàn giải. Như thế, được định
ranh giới rõ ràng đối với thời gian, cái phàm tục tự nó có khả năng trở nên
những gì nó phải là cách tròn đầy hơn, trao cho bối cảnh của đời sống luân lý
của các kitô hữu một tâm hồn linh mục mà, theo cách ấy, biến đổi thế giới từ
bên trong.
Đức Trinh Nữ Maria
diễm phúc, dù được hiểu trong giới giáo dân, có thể đề tặng một khuôn mẫu cho
đời sống luân lý của linh mục. Vì đời sống của linh mục được xây dựng nền móng trên mầu
nhiệm vượt qua của Chúa Giêsu Kitô, nghĩa là trên đời sống phục vụ hy sinh mà
Chúa đã sống và ghi dấu ấn của Ngài nơi linh mục qua đặc tính linh thánh. Không
ai đã tuân theo mầu nhiệm vượt qua tốt hơn Đức Mẹ,
người đã hoàn toàn nối kết cuộc sống của Mẹ với cuộc sống của Con của Mẹ nơi hy
tế của Ngài. Mẹ đã thực thi điều đó từ giây phút đầu tiên lúc Mẹ đã tuyên bố : "Xin vâng". Sự hy sinh
của Mẹ được thực hiện trong suốt cuộc sống với Con của Mẹ. Có thể thấy điều đó
khi Mẹ dâng Ngài ở đền thờ. Của lễ mà Mẹ dâng thực sự vào dịp này
không hệ tại ở một đôi chim cu non, nhưng nơi sự chấp nhận những đau khổ của
Mẹ, mà đồng hành với sứ vụ của Chúa Giêsu và ông Simêon đã báo trước. Cha Jean
Galot đề nghị lối giải thích qua kiểu nói thích hợp này :
"Có một của lễ đầu tiên của hy tế cứu độ, của lễ của người mẹ đi trước và
đã ngụ ý của lễ tư tế tương lai của Chúa Giêsu. Sự thánh hiến
vượt tràn mọi thói vụ hình thức lễ nghi và bao hàm sự dấn thân của đời sống bản
thân" (39).
Sự thánh hiến này, đối với Đức Maria, hệ
tại việc chuyên tâm vào cuộc sống hy sinh phục vụ theo mẫu gương của Con của
Mẹ. Theo từ ngữ của thánh Augustin : "Vì có
một hy tế, nên có một chức tư tế" (40).
——–
(1) Walter GRUNDMANN, Das
Evangelium nach
(2) x. « Hagios », trong Theological
Dictionary of the New Testament, éd. G. Kittel,
(3) « Ý nghĩa đầu tiên » không
phải theo niên đại nhưng xét như là nền tảng hơn.
Rudolf OTTO, Le Sacré(Bibliothèque scientifique), dịch từ tiếng Đức
bởi A. Jundt, Paris, Payot, 1949, cho ấn tượng rằng đã có lúc ý tưởng
« thánh thiện » không bao gồm đặc điểm luân lý tính nào cả và sau đó,
nó bị « xâm chiếm » bởi một nội dung luân lý. Tuy
nhiên, Otto không bảo lưu quan điểm này cách chặt chẽ. Những cách dùng nguyên thủy nhất của thuật ngữ « thánh
thiện » dường như được đánh dấu bằng một đặc điểm luân lý tính.
(4) Khi bốn chữ YHWH xuất hiện hiện
trong Kinh Thánh, người ta thường thay thế nó bằng từ Adonaï. Trong
Bản King James, Bản Revised Standard và New American Bible, mỗi khi từ lord viết
thành chữ hoa, thì đọc giả có thể giả thiết rằng tiếng Hybá ở chỗ này chứa từ
YHWH. Khi đọc bản Bảy Mươi, thì chữ Kyrios thay
Tên của Thiên Chúa. Trong Tân Ước, khi thuật ngữ Kyrios được
áp dụng cho Chúa Giêsu Nazareth, thì nó gợi ý như Bản Bảy Mươi, một sự gần gũi
với Thiên Chúa của Abraham, của Isaac, của Giacóp. X. Reginald H. FULLER, The
Foudations of New Testament Christologie, New York, Charles Scribner’s
Sons, 1965 67-72.
(5) Y. CONGAR, Sacerdoce et laïcat devant leurs tâches d’évangélisation et de
civilisation (deuxième édition revue et augmentée), Paris, Cerf, 1965,
99.
(6) Herberg HAAG-Paul van IMSCHOOT,
« Heilig », trong Bibel-lexikon, 687 ;
x. Manfred HAUKE, Women in the Priesterhood ?,
(7) x. Y. CONGAR, p. 109.
(8) Rudolf
SCHNACKENBURG, Le message moral du Nouveau Tesament, dịch từ tiếng
Đức bởi Francis Schanen, Le Puy-Lyon, Xavier, Mappens, 1963, 100.
(9) Joseph Ratzinger, Foi chrétienne
hier et aujourd’hui, dịch từ tiếng Đức bởi E. Ginder và P. Schouver, Paris,
Mame, 1969, 146. Bản dịch được chỉnh sửa (chú thích của nhà
xuất bản).
(10) « Một giống nòi được
tuyển chọn, x. Is 43, 20tt ; « một hàng tư
tế vương giả », x. Xh 19, 6 ; « một dân tộc thánh », x. như
trên.
(11) Theological Theology of the
New Testament (được trích dẫn trên đây chú thích 2), I, 109.
(12) Peter HENRICI, « Hans urs von Balthasar : A Sketch of his Life », trong Communion,
Fall, 1989, 311.
(13) Lumen Gentium, 10.
(14) Như trên.
(15)
(16) Lumen Gentium, 28 ; những tuyên bố tương tự trong Presbyterorum
ordinis, 5 và 12.
(17) Thánh Jérôme, Thư 146.
(18)
(19) Somme Théologique, III,
65, 5 ad 1 ; x.
(20) Josef PIEPER, Problem of
Modern Faith,
(21) Sacrosanctum Concilium,
7.
(22) Jean-Paul II ;
« Address to the Scottish Priests and Men and Women religious in
(23) Presbyterorum ordinis,
12.
(24) Như trên, 2.
(25) « Le ministre de
l’Eucharistie », Thư của Bộ giáo lý đức tin (6/08/1983), trong Documentation
catholique(DC)
80 (1983), tr.885-887.
(26) Jean-Paul II, « Dominicae
Cenae », 8, trong DC 77 (1980), tr.305. Bản dịch được
sửa (chú thích của Nhà xuất bản).
(27) Presbyterorum ordinis,
14.
(28) J. RATZINGER, Foi
chrétienne… (được trích ở số 9 trên đây),
tr.180-181. Bản dịch có sửa đổi (chú thích của Nhà xuất bản).
(29) Saint IRENEE, Adv. Haer.,
IV.
(30) x. E. Tower, « Sanctifying
Grace », trong The Teaching of the Catholic Church, éd. George
D. Smith, New York, The Macmillan Company, 1960, tr. 572-575 ; x. T.E.
Flynn, « The Supernatural Virtues », như trên, tr. 629
tt.
(31) Henri de
LUBAC, Méditation sur l’Eglise (Théologie, 27), Paris, DDB,
1985, đặc biệt các trang 94-101.
(32) J. RATZINGER, Foi
chrétienne…, tr. 247.
(33) Josemaria ESCRIVA, The
Forge,
(34) Dei Verbum, 10 ; x. Pie XII, Humani generis,
12/08/1950.
(35) Presbyterorum ordinis,
4.
(36) ORIGÈNE, In Exod., bài
giảng 13, 3.
(37) PAUL VI, Humanae Vitae,
28 ; JEAN-PAUL II, Familiaris Consortio,
34.
(38) x. Victor W. TURNER, The Ritual Process, Chicago, Aldine Publishing
Company, 1969.
(39) Jean GALOT, Prêtre
au nom du Christ, Chambray-les-Tours, C.L.D, 1985, tr. 34-35.
(40) Confessions, X, 43, 69.
————-
HAAS, John, "Le caractère sacral du prêtre comme fondement de sa vie et de son
enseignement moraux", in Cardinal J. Ratzinger, G. Chantraine, J.
Haas, A. Vanhoye, Mission et formation du prêtre, éd. Culture et Vérité, 1990, p 51-80.
Louis Renard, s.j, dịch từ nguyên bản
tiếng Anh bài tham luận của J. Haas.
Lm. Phêrô Võ Xuân Tiến
chuyển ngữ từ bản Pháp ngữ.