THEO CHÂN ĐỨC KITÔ
THỜ PHƯỢNG CHA VÀ XÂY DỰNG NƯỚC CHÚA
Linh mục nên thánh qua con đường Phụng Vụ và Mục Vụ
(Bài chia sẻ nhân ngày hội ngộ Xuân Bích 21/11/2014)
(gpquinhon.org) 22/11/2014 05:11
Như một “hòn than nhỏ” mang về trong ngày giỗ tổ Đại Chủng Viện
Xuân Bích Huế, Ngày lễ Mẹ Dâng Mình, để góp cho bếp lửa của tình huynh đệ linh
mục-chủng sinh ấm thêm một chút, hồng thêm một chút, con xin được chia sẻ đôi
điều như một cảm nghiệm riêng tư trong hành trình sống chức linh mục.
Và trong chút cảm nghiệm riêng tư hoàn toàn hạn chế và chủ quan
nầy, con xin được bộc bạch cùng quý cha, quý thầy cái đề tài “xưa như quả đất”
đó là : anh em linh mục, chủng sinh chúng ta cùng chiêm ngưỡng Chúa Giêsu qua
hai tác động : THỜ PHƯỢNG CHA VA XÂY DỰNG NƯỚC CHÚA ; để từ suy nghĩ đó, rút ra
hai kết luận thực hành : NÊN THÁNH QUA CON ĐƯỜNG PHỤNG VỤ VÀ MỤC VỤ.
I. NHỮNG LÝ DO
1. Kinh nghiệm tu đức :
Trong tác phẩm tu đức "Nên thánh trong thời đại mới",
Kilian Mc Gowan, C.P. đã nói một cách mạnh mẽ rằng : "Lãng phí lớn nhất của trí tuệ con người là
sống mà không nhận biết Chúa Kitô. Thất bại thê thảm nhất của trái tim con
người, nếu có, là chưa bao giờ thật sự yêu mến Chúa Kitô. Vở kịch bi thương
nhất trong bất cứ cuộc đời nào là không đặt Chúa Kitô làm trung tâm của đời
sống chúng ta"
(Nên thánh Thời đại mới, trang 72).
2. Định hướng của Hội Thánh :
- Sắc lệnh “Đào tạo linh mục” : “Do phép Truyền Chức
Thánh họ phải là hiện thân của Chúa Kitô Linh Mục, lại nữa bởi cùng chia sẻ một
cuộc sống của Người, nên họ phải quen sống kết hợp với Người như bạn hữu. Họ
phải sống Mầu Nhiệm Phục Sinh của Người thế nào để biết khai sáng Mầu nhiệm ấy
cho đoàn chiên sẽ được giao phó. Phải dạy họ biết tìm gặp Chúa Kitô trong việc
trung thành suy gẫm Lời Chúa, trong việc thông hiệp tích cực các Mầu Nhiệm chí
thánh của Giáo Hội, nhất là Bí Tích Thánh Thể và kinh nguyện thần vụ” (Số 8).
- Sắc lệnh ‘Chức vụ và đời sống linh mục” : “Nhưng
các Linh Mục có thể kiến tạo sự thống nhất đời sống khi các ngài theo gương
Chúa Kitô trong việc chu toàn chức vụ: lương thực của Người là làm theo ý muốn
của Ðấng đã sai Người, để Người hoàn thành công việc của mình.
Thực ra, Chúa Kitô hành động qua các thừa tác viên của Người để
luôn luôn dùng Giáo Hội thi hành ý muốn của Chúa Cha trên trần gian, và vì vậy
Người vẫn là nguyên lý và nguồn mạch sự thống nhất đời sống của các ngài. Vậy,
các linh mục phải thực hiện việc thống nhất đời sống của mình bằng cách kết hợp
với Chúa Kitô trong sự nhận biết ý Chúa Cha và trong sự hiến thân cho đoàn
chiên đã trao phó cho các ngài “ (Số 14).
- Tông huấn “Pastores dabo vobis” : “Như vậy, các linh mục
được mời gọi nối dài sự hiện diện của Đức Ki-tô, vị Mục tử duy nhất và tối cao,
bằng cách noi theo lối sống của Ngài và bằng cách làm sao cho mình như thể được
Ngài xuyên thấu ngay giữa đàn chiên được giao phó cho mình. (số 15)
- Tông huấn “Niềm Vui Tin Mừng” : “Một người truyền giáo
đích thực, người không bao giờ thôi là một môn đệ, biết rằng có Đức Kitô cùng
đi với mình, nói với mình, thở với mình, làm việc với mình. Họ cảm nhận được
Đức Giêsu sống với mình giữa công cuộc truyền giáo. Nếu không nhìn thấy Ngài
hiện diện tại tâm điểm sự dấn thân truyền giáo của chúng ta, lòng phấn khởi của
chúng ta sẽ sớm nhạt nhoà và chúng ta không còn chắc chắn mình đang thông
truyền điều gì; chúng ta thiếu sinh lực và đam mê.” (Só 266)
II. CHIÊM NGƯỠNG ĐỨC KITÔ THỜ PHƯỢNG THIÊN CHÚA :
"Nhưng giờ đã đến - và chính là lúc nầy đây - giờ những người
thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần Khí và sự thật, vì Chúa
Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế" (Ga 4, 23).
1. Đức Ki-tô, Đấng thờ phượng và tôn vinh Cha.
Trước hết, chúng ta biết rằng : sứ mệnh căn bản của Đức Ki-tô khi
đến trần gian đó chính là thờ phượng và tôn vinh Cha : "Phần con, con đã tôn
vinh Cha ở dưới đất, khi hoàn tất công trình Cha đã giao cho con" (Ga 17,
4). Đồng thời, Ngài
thiết lập một "trật tự thờ phượng mới trên căn bản "trong Thần Khí và
sự thật" :
"Nầy Chị hãy tin tôi : đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa
Cha không phải trên núi nầy hay tại Giê-ru-sa-lem. Các người thờ Đấng các người
không biết; còn chúng tôi, thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ
dân Do Thái. Nhưng giờ đã đến - và chính là lúc nầy đây - giờ những người thờ
phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha
tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế"(Ga 4, 21-23).
* Đức Ki-tô thờ phượng
Chúa cha trong "thần khí và sự thật" có nghĩa là Ngài thờ phượng Chúa
Cha qua chính bản thân Ngài, bằng "đền thờ thân xác Ngài", với của lễ
là chính "cuộc đời Ngài":
"Vì vậy, khi vào trần gian, Đức Ki-tô nói : Chúa đã không ưa
hy lễ và hiến tế, nhưng đã tạo cho con một thân thể. Chúa cũng chẳng thích lễ
toàn thiêu và lễ xá tội. Bấy giờ con mới thưa: Lạy Thiên Chúa, , nầy con đây, con đến để thực thi ý Ngài, như sách
thánh đã chép về con. (Dt 10, 5-7).
* Và trong tư cách là một "Tư tế của Giao ước mới", Đức
Ki-tô đã đem toàn nhân loại vào trong hiến tế của Ngài để dâng lên Thiên chúa
sự "phượng thờ đích thực".
Nhưng Đức Ki-tô đã đến làm Thượng Tế đem phúc lộc của thế giới
tương lai. Để vào cung thánh, Người đã đi qua một cái lều lớn hơn và hoàn hảo
hơn, không do bàn tay con người làm nên, nghĩa là không thuộc về thế giới thọ
tạo nầy. Người đã vào cung thánh không phải với máu con dê, con bò, nhưng với
chính máu của mình, Người vào chỉ một lần mà thôi, và đã lãnh được ơn cứu chuộc
vĩnh viễn cho chúng ta. Vậy nếu máu các con dê, con bò, nếu nước tro của xác bò
cái, đem rảy lên mình những kẻ nhiễm uế còn thánh hoá được họ, nghĩa là cho
thân xác họ trở nên trong sạch, thì máu của Đức Ki-tô càng hiệu lực hơn biết
mấy. Nhờ Thánh Thần hằng hữu thúc đẩy, Đức Ki-tô đã tự hiến tế như lễ vật vẹn
toàn dâng lên Thiên Chúa. Máu của Người thanh tẩy lương tâm chúng ta khỏi những
việc đưa tới sự chết, để chúng ta xứng đáng phụng thờ Thiên Chúa hằng sống. (Dt
9, 11-14).
Hiến chế Phụng vụ thánh đã chú giải và tóm tắt mầu nhiệm nầy như
sau :
"Cho nên, nhờ Chúa Ki-tô, Thiên Chúa đã hoàn toàn nguôi lòng
để chúng ta được giao hoà với Ngài và cho chúng ta được phụng thờ Ngài cách
hoàn bị" (Hiến chế PV số 5).
* Mọi nẻo đường trần thế mà Đức Ki-tô đã đi qua trong thân phận con
người, từ khi sinh ra cho đến khi "hoàn tất mọi sự" trên thánh giá,
là một "cử hành phụng vụ" duy nhất để thờ phượng và tôn vinh Cha. Vì thế Chúa Cha đã chấp nhận và vui lòng vì việc tôn vinh nầy : "Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về
con" (Mc. 1, 11).
Chiêm ngưởng một Đức Ki-tô thờ phượng Cha như thế chắc chắn sẽ là
một động lực, một gọi mời để chúng ta lên đường biến cuộc sống mình thành một
"cử hành phụng vụ" liên tục, biến cuộc đời mình thành "Ngôi
Thánh Đường" mà chất liệu xây lên là tất cả những chắt chiu, những hy
sinh, những lao nhọc, những lời kinh, những tiếng hát và cả những khổ đau, yếu
đuối…
Để minh hoạ cho ý tưởng nầy, có lẽ chúng ta cùng đọc với nhau vài
đoạn trong bài thơ cầu nguyện của Charles Singer. Bài thơ có tên :"Ngôi thánh đường đời
con "
(La Cathédrale de ma vie) :
Lạy Chúa, Cuộc đời con là một ngôi Thánh Đường,
Từ tro bụi, bao năm
trường xây đắp,
Con tự hào với tất
cả niềm tin,
Bằng đôi tay, bằng
mối tình nghệ sĩ,
Để vươn lên thật
cao quí tôn nghiêm.
Con cố gắng, con miệt mài tìm kiếm,
Từ khắp nơi, tận
góc biẻn chân trời,
Trên quê hương
những loại đá tuyệt vời,
Con làm việc không
một lời than vãn :
Xẻ, đục, cưa và
chạm trỗ say mê,
Tay xây sát, con
không hề bỏ cuộc,
Búa đẽo hư, con một
mực kiên trì.
Con mải mê làm cho đến khi ẩn hiện,
Những phù điêu cảnh
thánh điện, thiên thần,
đang tấu nhạc
thật hoà vang tôn kính,
Nét vui tươi và
thanh tĩnh nụ cuời
Lạy Chúa,
Ngôi Thánh Đường
của đời con,
Không thể xong
trong một sớm một chiều,
Nhưng vun đắp trải
qua nhiều năm tháng,
Cùng với nhiều biến
dạng của thời gian….
Thế nhưng, con mãi mãi vững tin vào sức mạnh,
Chẳng phải từ nơi
con để vượt thắng dòng đời,
Mà tâm nguyện : chỉ
nơi Ngài, lạy Chúa,
Ngôi Thánh Đường
con sẽ tựa trung kiên,
Để trụ vững giữa
đảo điên nhân thế,
Để hiên ngang đứng
giữa bể dâu đời.
Lạy Chúa, con chỉ là người thợ cả,
Chính Ngài, con
không quá lời đâu :
Là Thiên Chúa, là
Khởi Đầu, Chung Cuộc,
Chính Ngài, Nhà
Kiến Trúc của đời con.
(Trích trong "Lời kinh đẹp nhất thiên niên kỷ", trg
11-12).
Cũng trong tư tưởng đó, Giáo Phụ Origène đã để lại cho chúng ta
những lời khuyên đầy xác tín như sau :
"Cần tìm đền thánh không phải tại một nơi, nhưng trong các cử chỉ, trong
cuộc sống và trong các thói quen. Nếu những cử chỉ nầy đẹp ý Thiên Chúa, nếu
chúng phù hợp với các giới răn Thiên Chúa, thì cho dù bạn ở nhà hay ở ngoài
quảng trường cũng không quan trọng : tôi nói gì, "ở ngoài quảng trường"
hả ? Cả khi bạn đang ở trong rạp hát đi nữa cũng không quan trọng : nếu bạn
đang phục vụ Lời của Thiên Chúa, là bạn đang ở trong đền thờ rồi, đừng nghi ngờ
gì cả" (Bài giảng về sách Levi 12, 4 Nguồn gốc Kitô 187, tr.
182. Chứng nhân hy vọng tr. 96).
Sống theo Đức Ki-tô để "Thờ Cha trong thần khí và sự
thật" cũng có nghĩa là sống trọn vẹn "Giây phút hiện tại" trong
tình yêu, là tìm thấy và thực hiện thánh ý Chúa mọi giây phút…
Chúng ta hãy nghe Đức Hồng Y F.X Nguyễn văn Thuận cầu nguyện với
Chúa trong thời gian ngồi tù :
"Lạy Chúa Giê-su, con sẽ không chờ đợi nữa.
Con sống giây phút
hiện tại cho tràn đầy tình yêu.
Chấm nầy nối tiếp
chấm kia,
ngàn vạn chấm thành
một đường dài.
Phút nầy nối tiếp phút kia,
muôn triệu phút
thành một đời sống.
Chấm mỗi chấm cho
đúng, đường sẽ đẹp.
Sống mỗi phút cho tốt, đời sẽ thánh.
Đường hy vọng do mỗi chấm hy vọng.
Đời hy vọng do mỗi phút hy vọng (ĐHV số 977).
Và Thánh Phaolô Thánh Giá lại xác quyết :
"May nắn thay linh hồn nào an nghỉ trong lòng Thiên Chúa mà
không nghĩ tới tương lai, nhưng chỉ sống từng phút hiện tại trong Thiên Chúa,
không lo lắng gì khác ngoài việc thực hiện tốt ý muốn của Người trong mọi biến
cố".
(Chứng nhân hy vọng tr. 94).
2. Đức Ki-tô thờ phượng Cha qua Phụng Vụ.
Tiếp bước theo Đức Ki-tô trong chiều kích "thờ phượng"
còn có nghĩa là qui hướng cuộc sống, đặt cuộc sống mỗi ngày trên nền tảng Phụng
Vụ. Bởi vì, Đức Ki-tô không mất hút trong quá khứ, nhưng đang "thực
diện" một cách đặc biệt trong các hoạt động Phụng Vụ của Hội Thánh :
Để chu toàn việc lớn lao ấy, Chúa Ki-tô hằng hiện diện trong Giáo
Hội, nhất là trong các cử hành Phụng Vụ" (PV số 7).
Cũng cần lưu ý rằng : đã có một thời người ta không quan tâm tới
đời sống Phụng vụ cho đủ, trong khi lại quá chú trọng tới việc thực hành các
việc đạo đức cá nhân cũng như tập thể. Chúng ta có thể tuyên bố mà không sợ sai
điều nầy là : Nếu không đặt trọng tâm trên Phụng Vụ, thì việc thể hiện niềm tin
của người Ki-tô hữu cũng chẳng khác bao nhiêu với các thực hành tín ngưởng của
các tôn giáo khác; mà nói đến việc đạo đức cá nhân, e rằng người Ki-tô hữu
chúng ta không sánh được với tín hữu Đạo Hồi, Đạo Phật.
Như vậy, để thực sự sống trong thái độ "thờ Cha trong thần khí
và sự thật", điều trước tiên cần phải ghi nhận : Dành "ưu tiên
một" cho việc cử hành Phụng Vụ. Chúng ta hãy nghe Giáo Hội dạy :
"Do đó, vì là công việc của Chúa Ki-tô tư tế và Thân Thể của
Người là Giáo Hội, nên mọi việc cử hành phụng vụ đều là hành vi chí thánh, và
không một hành vi nào khác của Giáo Hội có hiệu lực bằng, xét cả về danh hiệu
lẫn đẳng cấp" (PV số 7).
"Phụng vụ là tột đỉnh mà mọi hoạt động khác của Giáo Hội qui
hướng về, đồng thời là nguồn mạch tuôn trào mọi năng lực của Giáo Hội" (PV
số 10).
Và như thế, chúng ta có thể rút ra nhứng kết luận thiêng liêng để
áp dụng vào đời sống mỗi ngày :
* Biến cuộc sống thành một "cử hành sống động" hy lễ tình
yêu, cử hành thờ phượng và tôn vinh Cha.
* Tập chú và dành ưu tiên một cho việc cử hành Phụng Vụ bằng ý
thức, tâm tình, thái độ, sự chuẩn bị, tính cộng đoàn… Chúng ta đừng
quên điều nầy : một cộng đoàn có cử hành Phụng Vụ tốt, sinh động, là một cộng
đoàn mạnh và trưởng thành về mặt thiêng liêng và các sinh hoạt mục vụ khác.
* Biến tâm tình yêu mến và trân trọng Phụng Vụ thành một hướng đi
mục vụ : quan tâm, lo lắng, giúp đỡ việc cử hành Phụng Vụ nơi các cộng đoàn
giáo dân nghèo, xa xôi hẻo lánh, thiếu phương tiện…
Sau hết, chúng ta hãy nhớ lời của Đức Ki-tô mà chúng ta nghe vọng
lại mỗi lần cử hành Thánh Lễ :"Các con hãy làm
việc nầy mà nhớ đến Thầy". Quả thật, có nhiều việc để nhớ Chúa
Ki-tô. Nhưng việc chính yếu vẫn là Lễ Tạ ơn, là những cử hành Phụng Vụ. Và có
lẽ lý tưởng nhất đó là : cuộc đời là một Thánh Lễ nối dài. Sống được như thế có
nghĩa là đã thuộc về những người được Thiên Chúa muốn "Cha chỉ muốn có những
người thờ phượng Ngài như thế" (Ga 4, 23).
III : CHIÊM NGƯỠNG ĐỨC KITÔ XÂY DỰNG NƯỚC CHÚA
Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giê-su đến miền Ga-li-lê rao giảng
Tin Mừng của Thiên Chúa. Người nói : "Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên
Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng" (Mc 1 14-15).
1. Đức Ki-tô đến thực hiện lời tiên báo của cựu ước.
Đức Ki-tô hiên thực hoá lời tiên báo của các sứ ngôn :
Họ trao cho Người cuốn sách ngôn sứ I-sai-a. Người mở ra gặp đoạn
chép rằng :
Thần Khí Chúa ngự
trên tôi,
vì Chúa đã xức dầu
tấn phong tôi,
để tôi loan báo Tin
Mừng cho kẻ nghèo hèn…
Đức Giê-su cuộn sách lại, trả cho người giúp việc hội đường, rồi
ngồi xuống. Ai nấy trong hội đường đều chăm chú nhìn Người. Người bắt đầu nói
với họ :"Hôm nay, đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh quí vị vừa nghe" (Lc
4, 17-21)
Đức Ki-tô là trung tâm của Nước Thiên Chúa :
"Đức Ki-tô là trung tâm của đoàn người được qui tụ trong gia
đình Thiên Chúa. Người triệu tập họ quanh Người bằng lời nói, bằng những dấu
chỉ chứng tỏ Nước Thiên Chúa đang hiện diện, bằng việc sai phái các môn đệ.
Người sẽ làm cho Vương Quốc Người hiển trị bằng mầu nhiệm Vượt Qua của Người :
Cái chết trên Thập Giá và Phục Sinh. "Phần tôi, một khi được đưa cao lên
khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người đến với tôi" (Ga 12, 32). Mọi người đều
được gọi kết hợp với Đức Ki-tô" (x. GH 3; GLGHCG số 542).
Đức Ki-tô loan báo và thực hiện Nước Thiên Chúa :
- Để con người nhận biết chân lý, nhận biết quyền năng cứu độ, Đức
Ki-tô đã rao giảng. Toàn bộ sứ điệp của Ngài là kêu gọi con người đón nhận và
gia nhập Vương quốc Thiên Chúa.
- Để người ta hoà hợp, yêu thương, công chính : Ngài qui tụ nhóm
"Mười Hai" xung quanh Ngài làm "hạt nhân" để bắt đầu hình
thành một "Dân tộc mới", một "đoàn Dân Mới" công bình,
thánh thiện, yêu thương.
- Để người ta sống hoà hợp, an bình, hạnh phúc…Ngài ra tay làm phép
lạ như "dấu chỉ Nước Thiên Chúa hiện diện" :
"Nếu tôi nhờ Thánh Thần Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là Nước
Thiên Chúa đã đến giữa các ông" (Mt 12, 28).
- Và để người ta được cứu độ, được thông phần sự sống vĩnh cửu,
Ngài đã chấp nhận làm người phục vụ, hy sinh và tự hiến :
"Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục
vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người" (Mc. 10, 45).
"Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ
kéo mọi người lên với tôi" (Ga 12, 32; 12, 24).
2. Linh mục noi gương Chúa Kitô : Dấn thân xây
dựng Nước Thiên Chúa.
Bằng cách sống Đức Ái mục vụ :
“Đời sống thiêng liêng của các thừa tác viên Tân ước phải được đóng
ấn bằng thái độ tiên khởi ấy, thái độ phục vụ đối với Dân Thiên Chúa”
(TH.Pastores dabo vobis số 21).“Nguyên lý nội tại, nhân đức thôi thúc và hướng
dẫn đời sống thiêng liêng của linh mục, xét như đã nên đồng hình, đồng dạng với
Đức Kitô Đầu và Mục tử, chính là Đức Ái Mục Vụ” (23)
Bằng cuộc sống và hoán cải theo Tin Mừng :
“Bây giờ là lúc để nói với Chúa Giêsu: “Chúa ơi, con đã để mình bị
lừa; con đã trốn tránh tình yêu của Chúa bằng muôn ngàn cách, nhưng một lần nữa
con lại đến đây, để canh tân giao ước của con với Chúa. Con cần Chúa. Xin cứu
con một lần nữa, Lạy Chúa, xin đưa con vào lại vòng tay cứu độ của Chúa một lần
nữa”. Vui biết chừng nào khi trở lại với Người sau mỗi lần chúng ta lạc lối!
Xin cho tôi lặp lại điều này một lần nữa: Chúa không bao giờ thấy mệt khi tha
thứ cho chúng ta; chỉ có chúng ta thấy mệt khi đi tìm lòng thương xót của
Ngài.” (EG 3)
Bằng đời cầu nguyện, lắng nghe và sống Lời Chúa :
“Thiên Chúa ưa thích biểu lộ những sự việc cao cả của Ngài qua
những con người niềm nở và ngoan ngùy đối với sự thúc đẩy và dẫn dắt của Chúa
Thánh Thần, qua những con người sống kết hiệp mật thiết với Chúa Kitô và sống
đời sống thánh thiện nhờ đó có thể nói như Thánh Tông Đồ : “Nếu tôi sống, thì
không còn phải là tôi sống, nhưng là Chúa Kitô sống trong tôi”. (Pastores dabo vobis số 25)
Bằng việc ra công kiến tạo sự công chính, yêu thương, hiệp nhất
khởi sụ từ cuộc sống cộng đoàn.
“Tính thế tục thiêng liêng khiến người Kitô hữu gây chiến với những
người Kitô hữu khác cản trở con đường tìm kiếm quyền lực, uy tín, thú vui và an
toàn kinh tế. Một số thậm chí không còn bằng lòng sống như một phần tử của cộng
đồng Hội Thánh rộng lớn hơn nhưng phát triển một tinh thần loại trừ, tạo ra một
“phe nhóm nội bộ”. Thay vì thuộc về một Hội Thánh toàn thể trong tất cả sự đa
dạng, họ thuộc về nhóm này hay nhóm nọ, nghĩ rằng mình thì khác hay đặc biệt.”.
(EG 98)
Bằng nỗ lực xây dựng cuộc sống chính mình và cộng đoàn đầy tràn
niềm vui Tin Mừng :
“NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG đổ đầy trái tim và cuộc sống của tất cả
những ai gặp Chúa Giêsu. Những ai chấp nhận đề nghị cứu độ của Người đều được
giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn. Với Đức
Kitô, niềm vui luôn luôn được tái sinh. Trong Tông Huấn này, tôi muốn khích lệ
các tín hữu đi vào một chương mới của công cuộc loan báo Tin Mừng ngập tràn
niềm vui này, đồng thời vạch ra những lối đi mới cho hành trình của Hội Thánh
trong những năm sắp tới.” (EG 1)
Bằng ước nguyện và dấn thân tích cực cho công cuộc truyền giáo :
“Tôi ước mơ một “chọn lựa truyền giáo”, nghĩa là một nỗ lực truyền
giáo có khả năng biến đổi mọi sự, để các thói quen, các cách hành động, các giờ
giấc và chương trình, ngôn ngữ và các cơ cấu của Hội Thánh có thể được khai
thông thích hợp cho việc loan báo Tin Mừng cho thế giới hôm nay, hơn là cho sự
bảo tồn của Hội Thánh.” (EG 27)
Để tóm tắt nội dung của đề tài chia sẻ "Chiêm ngưỡng Đức Ki-tô
xây dựng Vương Quốc Thiên Chúa", chúng ta có thể đọc lại những lời sau đây
của Hiến chế Giáo Hội để cảm nhận sâu sắc hơn về trách nhiệm của linh mục trong
việc hiệp thông cùng Giáo Hội nỗ lực làm cho Nước Chúa hiển trị :
"Lữ hành giữa cơn bách hại của thế gian và trong niềm an ủi
của Thiên Chúa", Giáo Hội rao truyền cái chết thập giá Chúa, cho đến khi
Người lại đến (x. 1 Cr 11, 26). Giáo Hội vững mạnh nhờ thần lực của Chúa phục
sinh, để toàn thắng các khó khăn và sầu muộn từ bên trong cũng như bên ngoài
bằng yêu thương và kiên trì, và trung thành mạc khải cho thế gian mầu nhiệm của
Chúa còn giấu trong bóng tối, cho đến khi được phô bày dưới ánh sáng vẹn toàn
trong ngày sau hết". (LG 8)
3. Vài Lưu ý và áp dụng cụ thể :
- Đừng bao giời tự cho mình là “đấng ban phát sự thánh thiện”, là
“thầy dạy đàng nên thánh” để xem thường và không tìm học hỏi được gì nơi cộng
đoàn. Vì Đức Kitô mà còn “nên giống anh em mình mọi đàng ngoại trừ tội lỗi”, và
“Ở giữa các ngươi, ta là một kẻ hầu bàn”.
- Cộng đoàn có nhiều hoa trái thánh thiện (Trẻ em, các người già
lão, những thanh niên nam nữ…)
- Trong đời sống giáo dân có nhiều nhân đức mà linh mục không có
hay ít có : nhân đức nghèo, khổ, vất vả nhọc mệt, túng thiếu, đầu tắt mặt tối,
bệnh hoạn tật nguyền, mất con, mất vợ…)
Như vậy, chính khi gắn kết với cộng đoàn, yêu thương và kính trọng,
thăng tiến và xây dựng cộng đoàn, linh mục sẽ kiện toàn chính bản thân và trung
thành với căn tính của chính mình.
Kết : Cho dù đi con đường
nào, lựa chọn phương pháp nào, áp dụng linh đạo nào, tiêu đích cuối cùng, vẫn
là như Thánh Phaolô “Tôi sống, không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong
tôi”. Là một linh mục, đặc biệt là những linh mục coi xứ, quả thật, rất
có nhiều điều kiện để thực hành việc nên thánh. Bởi chưng, khi được gắn kết với
một cộng đoàn mục vụ, các linh mục coi xứ hoàn toàn thể hiện cái căn tính và sự
sống thường xuyên của Giáo Hội, Hiền Thê Chúa Kitô qua Phụng vụ, qua sự hiệp
thông cộng đoàn và qua chính môi trường cuộc sống đời thường với tất cả mọi
nhân tố làm nên một Hội Thánh thu nhỏ. Ước mong sao mọi anh em linh mục chúng
ta đều ý thức và biết vận dụng hiệu quả mọi yếu tố tích cực và thuận lợi nầy để
trở thành những “mục tử như lòng Chúa mong ước”.
PHẦN PHỤ LỤC
GỢI Ý XÉT MÌNH THEO TÔNG HUẤN “NIỀM VUI TIN MỪNG”
_______
1. TÔI CÓ CÒN GIỮ ĐƯỢC NIỀM VUI CỦA ĐỜI LINH MỤC ?
“NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG đổ đầy trái tim và cuộc sống của tất cả
những ai gặp Chúa Giêsu. Những ai chấp nhận đề nghị cứu độ của Người đều được
giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn. Với Đức
Kitô, niềm vui luôn luôn được tái sinh.” (SỐ 1)
“Vốn được kêu gọi toả ánh sáng và truyền sự sống, rốt cuộc họ bị
giữ chặt trong những cái chỉ sinh ra bóng tối và mệt mỏi nội tâm và dần dần làm
tan đi mọi nhiệt tình tông đồ. Về tất cả chuyện này, tôi lặp lại: Chúng ta đừng
để mình bị cướp mất niềm vui loan báo Tin Mừng!” (Số 83)
2. CUỘC SỐNG LINH MỤC CỦA TÔI ĐÃ BỊ TỤC HÓA ?
“Mối nguy lớn trên thế giới hôm nay, một thế giới hầu như thấm
nhiễm chủ nghĩa tiêu thụ, đó là cảm giác cô đơn và lo lắng phát sinh từ một con
tim tự mãn nhưng tham lam, sôi nổi chạy theo những thú vui phù phiếm, và một
lương tâm chai lỳ. Khi mà đời sống nội tâm của chúng ta bị trói chặt trong
những lợi ích và những mối quan tâm riêng của nó, thì không còn chỗ cho người
khác, không còn chỗ cho người nghèo. Tiếng nói của Thiên Chúa không còn được
nghe thấy, niềm vui an bình của tình yêu của Người không còn được cảm thấy, và
ước muốn làm điều thiện bị phai mờ.” (Số 2)
3. TÔI ĐÃ ĐÁNH MẤT MỐI TƯƠNG QUAN THÂN MẬT VỚI CHÚA GIÊSU ?
“Bây giờ là lúc để nói với Chúa Giêsu: “Chúa ơi, con đã để mình bị
lừa; con đã trốn tránh tình yêu của Chúa bằng muôn ngàn cách, nhưng một lần nữa
con lại đến đây, để canh tân giao ước của con với Chúa. Con cần Chúa. Xin cứu
con một lần nữa, Lạy Chúa, xin đưa con vào lại vòng tay cứu độ của Chúa một lần
nữa”. Vui biết chừng nào khi trở lại với Người sau mỗi lần chúng ta lạc lối!
Xin cho tôi lặp lại điều này một lần nữa: Chúa không bao giờ thấy mệt khi tha
thứ cho chúng ta; chỉ có chúng ta thấy mệt khi đi tìm lòng thương xót của
Ngài.” (Số 3)
4. TÔI CÓ GIỮ ĐƯỢC NIỀM VUI PHỤC SINH KHI PHẢI ĐỐI DIỆN VỚI GIAN
“Có những Kitô hữu sống đời mình giống như chỉ có mùa Chay mà không
có mùa Phục Sinh. Đương nhiên tôi hiểu rằng niềm vui ấy không phải lúc nào
trong cuộc đời cũng được biểu lộ giống nhau, nhất là trong những lúc hết sức
khó khăn. Niềm vui tự thích ứng và thay đổi, nhưng nó luôn luôn tồn tại, dù chỉ
như một ngọn đèn leo lét phát sinh từ niềm tin chắc của chúng ta rằng, bất luận
thế nào, chúng ta được thương yêu vô bờ.” (Số 6)
5. TÔI CHỌN SÔNG VỚI NHỮNG NIỀM VUI THẾ TỤC HAY NIỀM VUI TIN MỪNG
?
“Đôi khi chúng ta bị cám dỗ kiếm cớ để than thở và hành động như
thể chúng ta chỉ có thể hạnh phúc nếu có hàng ngàn các điều kiện. Phần nào đó
là vì “xã hội kỹ thuật của chúng ta đã tạo ra vô số điều kiện để hưởng thụ,
nhưng lại rất khó tạo ra niềm vui”.[2] Tôi có thể nói rằng trong đời mình,
tôi đã thấy những biểu hiện đẹp nhất và tự nhiên nhất của niềm vui nơi những
người nghèo hầu như không có gì để bám víu vào.” (Số 7)
6. TÔI CÓ CÒN THA THIẾT VÀ NHIỆT THÀNH VỚI SỨ VỤ LOAN BÁO TIN
MỪNG HAY LỰA CHỌN THÁI ĐỘ AN TOÀN, THỤ ĐỘNG ?
“Nếu chúng ta muốn có một cuộc sống xứng đáng và sung mãn, chúng ta
phải vươn ra tới người khác và mưu cầu lợi ích cho họ. Hiểu theo nghĩa này, một
số câu nói của Thánh Phaolô sẽ không làm chúng ta ngạc nhiên: “Tình yêu của Đức
Kitô thúc bách tôi” (2C 5:14); “Vô phúc cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin
Mừng” (1C 9:16). (Số 9)
“Một con tim truyền giáo ý thức về những giới hạn này và làm cho
mình trở nên “yếu với người yếu... mọi sự cho mọi người” (1Cr 9:22). Nó không
bao giờ đóng kín mình, không bao giờ lui về nơi an toàn của mình, không bao giờ
chọn thái độ cố chấp hay tự vệ.” (Số 45)
7. TÔI LÀ CHỨNG NHÂN CỦA NIỀM VUI HAY CHỈ LÀ SỨ GIẢ CỦA NỔI BUỒN
?
“Và chớ gì thế giới của thời đại chúng ta, một thế giới đang kiếm
tìm, khi thì trong lo âu, khi thì trong hi vọng, có thể nhận được tin mừng
không phải từ những người rao giảng rầu rĩ, chán nản, mất kiên nhẫn hay lo âu,
nhưng từ những thừa tác viên Tin Mừng đang sống một cuộc đời đầy nhiệt huyết,
những người trước đó đã nhận được niềm vui của Đức Kitô”.[6] (Số 10)
8. TÔI CÓ LUÔN CANH TÂN VIỆC RAO GIẢNG LỜI CHÚA HAY GIAM HẢM TIN
MỪNG TRONG LỐI MÒN NHÀM CHÁN ?
“Đức Giêsu cũng có thể chọc thủng những phạm trù nhàm chán mà chúng
ta dùng để giam hãm Ngài và Ngài luôn luôn làm chúng ta ngạc nhiên bằng sự sáng
tạo thần linh của Ngài. Mỗi khi chúng ta cố gắng trở về nguồn và khôi phục lại
sự tươi mới của Tin Mừng, những đại lộ mới sẽ xuất hiện, những con đường sáng
tạo mới sẽ mở ra, với những hình thức biểu hiện khác nhau, những dấu chỉ và từ
ngữ phong phú mang theo ý nghĩa mới cho thế giới hôm nay. Mọi hình thức loan
báo Tin Mừng đích thực đều luôn luôn là “mới”. (Số 11)
9. TÔI CÓ LUÔN Ý THỨC : TRÁCH NHIỆM MỤC TỬ CỦA TÔI LÀ PHẢI ƯU TIÊN
LOAN BÁO TIN MỪNG CHO NHỮNG NGƯỜI NGOẠI ĐẠO ?
“Sau cùng, chúng ta không thể quên rằng loan báo Tin Mừng trước hết
và trên hết là giảng Tin Mừng cho những người không biết Đức Giêsu Kitô hay
luôn luôn chối bỏ Ngài.” (Số 14)
10. CHÚNG TA CÓ THẬT SỰ QUAN TÂM VÀ ĐẦU TƯ CHO VIỆC TRUYỀN GIÁO HAY
CHỈ THỤ ĐỘNG TRONG “MỤC VỤ BẢO TỒN” ?
“chúng ta cần phải chuyển đổi “từ một nền mục vụ thuần tuý bảo tồn
sang một mục vụ dứt khoát mang tính truyền giáo”.[18] Nhiệm vụ này tiếp tục là
một nguồn vui vô biên cho Hội Thánh: “Quả thật, tôi bảo anh em, trên trời sẽ
vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn hối cải hơn chín mươi chín người công
chính không cần ăn năn hối cải” (Lc 15:7). (Số 15)
11. TÔI CÓ XÂY DỰNG CỘNG ĐOÀN GIÁO XỨ THÀNH MỘT CỘNG ĐOÀN ‘ĐI RA”
TRUYỀN GIÁO HAY KHÉP KÍN NHƯ PHÁO ĐÀI ?
“Mỗi Kitô hữu và mỗi cộng đoàn phải nhận ra con đường mà Chúa chỉ
cho, nhưng tất cả chúng ta phải vâng theo tiếng gọi của Ngài là ra đi từ vùng
đất tiện nghi của mình để đến với mọi vùng “ngoại vi” đang cần ánh sáng Tin
Mừng.” (Số 20)
“Điều này có nghĩa là giáo xứ thực sự tiếp xúc với các gia đình và
các cuộc đời của những con người, và không trở thành một cơ chế cách ly với con
người hay một nhóm khép kín gồm một ít người được tuyển chọn.” (Số 28)
12. TÔI VÀ CỘNG ĐOÀN CỦA TÔI CÓ CHẤP NHẬN HẠ MÌNH DẤN THÂN ĐẾN VỚI
NHỮNG NGƯỜI NGHÈO, NHỮNG NGƯỜI TỘI LỖI ĐỂ PHỤC VỤ ?
“Một cộng đoàn loan báo Tin Mừng dấn mình vào đời sống hằng ngày
của dân chúng bằng lời nói và hành động; công đoàn ấy vượt qua các khoảng cách,
sẵn sàng hạ mình khi cần, và ôm ấp đời sống con người, chạm vào thân thể đau
khổ của Đức Kitô nơi người khác. Như vậy, các người loan báo Tin Mừng mang lấy
“mùi của đàn chiên” và đàn chiên sẵn sàng nghe tiếng của họ. Một cộng đoàn loan
báo Tin Mừng cũng nâng đỡ, đồng hành với dân chúng ở mỗi bước đi trên đường,
bất kể con đường này có thể dài hay khó đi bao nhiêu.” (Số 24)
13. TÔI CÓ LUÔN MỞ CỬA NHÀ THỜ ĐỂ NHIỀU NGƯỜI ĐẾN GẶP CHÚA ?
“Hội Thánh được kêu gọi trở thành Nhà Cha, luôn luôn mở rộng cửa.
Một dấu hiệu của sự mở ra này là các nhà thờ của chúng ta phải luôn luôn mở
cửa, để nếu có ai được Chúa Thánh Thần thúc đẩy đến đây tìm Thiên Chúa, họ sẽ
không thấy cửa nhà thờ đang đóng.” (Số 47)
“Nhưng Hội Thánh không phải là một trạm thu phí; Hội Thánh là Nhà
Cha, có chỗ cho mọi người, với tất cả các vấn đề của họ.” (Số 47)
14. TÔI CÓ LUÔN CANH TÂN VIỆC RAO GIẢNG TIN MỪNG” SAO CHO THÍCH HỢP
VỚI CON NGƯỜI VÀ THẾ GIỚI HÔM NAY ?
“Trong trường hợp này, điều chúng ta giảng không phải là Tin Mừng,
mà là một số điểm về giáo điều hay luân lý dựa trên một số chọn lựa ý thức hệ
đặc thù. Sứ điệp sẽ có nguy cơ mất đi sự tươi mát và sẽ không còn là “hương
thơm của Tin Mừng”. (Số 39)
“Cứ thế, chúng ta cố bám vào một công thức trong khi không chuyển
đạt được nội dung cơ bản của nó. Đây là mối nguy lớn nhất. Chúng ta đừng bao
giờ quên rằng “chân lý có thể được diễn tả bằng những hình thức khác nhau. Việc
đổi mới các cách diễn tả này trở thành cần thiết để thông truyền cho con người
ngày nay sứ điệp Tin Mừng trong ý nghĩa không thay đổi của nó” (Số 41)
15. TÔI CÓ BIẾN TÒA GIẢI TỘI THÀNH NƠI CON NGƯỜI GẶP GỠ THIÊN
CHÚA HAY LÀ MỘT “BUỒNG TRA TẤN TỘI NHÂN” ?
“Tôi muốn nhắc nhớ các linh mục rằng toà giải tội không phải là một
buồng tra tấn nhưng là một nơi gặp gỡ lòng từ bi của Chúa, thúc đẩy chúng ta
làm hết sức mình.” (Số 44)
16. TÔI ĐANG LỰA CHỌN CUỘC SỐNG TIỆN NGHI ĐỂ TRỞ NÊN VÔ CẢM ?
“Hầu như vô tình, rốt cuộc chúng ta trở nên vô cảm trước tiếng kêu
của người nghèo, không còn có thể khóc trước nỗi đau của người khác hay cảm
thấy cần cứu giúp họ, coi như tất cả đều là trách nhiệm của một ai khác chứ
không phải của chính chúng ta. Văn hoá của sự thịnh vượng làm chúng ta mất đi
sự mẫn cảm; chúng ta phấn khích nếu thị trường cung cấp cho chúng ta một món
hàng mới; trong khi tất cả những mảnh đời cằn cỗi vì thiếu cơ hội có vẻ chỉ là
một cảnh tượng bình thường, không hề làm chúng ta mủi lòng.” (Số 54)
17. CHÚNG TA CÓ DÁM “NÓI KHÔNG VỚI NGẪU THẦN MỚI LÀ TIỀN BẠC” ? VÀ
CÓ SẴN SÀNG CHIA SẺ VÀ GIÚP ĐỠ NGƯỜI NGHÈO ?
“Một nguyên nhân của tình huống này được thấy trong mối quan hệ của
chúng ta với tiền bạc, vì chúng ta thản nhiên chấp nhận sự thống trị của nó
trên chúng ta và các xã hội của chúng ta.” (Số 55)
“Không chia sớt của cải với người nghèo là ăn cắp của họ và lấy đi
kế sinh nhai của họ. Của cải chúng ta giữ không phải của riêng chúng ta, mà là
của họ” (Số 57)
18. CHÚNG TA CÓ VẬN DỤNG NỀN ĐẠO ĐỨC BÌNH DÂN ĐẺ KHẮC PHỤC CÁC TỆ
NẠN TRONG ĐỜI SỐNG ĐỨC TIN VÀ XÃ HỘI ?
“Tôi nghĩ đến lòng tin kiên vững của các bà mẹ chăm sóc những đứa
con bệnh tật của họ, họ là những người rất yêu mến chuỗi mân côi dù có lẽ họ
chỉ biết sơ sài những điểm của Kinh Tin Kính; tôi cũng nghĩ đến niềm hi vọng
trọn vẹn được đổ vào một cây nến đốt lên trong nhà để cầu xin ơn trợ giúp của
Đức Mẹ, hay cái nhìn trìu mến hướng lên tượng Chúa Kitô chịu nạn. Không một ai
yêu mến dân thánh của Thiên Chúa mà có thể coi những hành động này chỉ là biểu
hiện của một cố gắng thuần tuý phàm trần trong cuộc tìm kiếm Thiên Chúa. Chúng
là biểu hiện của một đời sống hướng thần được nuôi dưỡng bởi tác động của Chúa
Thánh Thần, Đấng đã được đổ vào lòng chúng ta”. (xem Rm 5:5). (Số 125)
19. TÔI CÓ NHẬN RA VÀ TÌM ĐƯỢC NIỀM AN ỦI VÀ BÀI HỌC TỪ NHỮNG ANH
CHỊ EM TÍN HỮU TỐT LÀNH?
“Tôi biết ơn vì gương sáng tôi nhận được từ rất nhiều Kitô hữu khi
họ vui vẻ hi sinh cuộc đời và thời giờ của họ. Những chứng tá này an ủi và nâng
đỡ tôi trong cố gắng của chính mình để khắc phục tính ích kỷ và để tôi hiến
mình trọn vẹn hơn.” (Số 76)
20. TÔI CÓ CAN ĐẢM NÓI KHÔNG VỚI ÍCH KỶ VÀ NGUỘI LẠNH THIÊNG LIÊNG
?
“Điều tương tự cũng xảy ra đối với các linh mục sợ mất thời giờ
rảnh rỗi của mình. Lý do thường là vì người ta cảm thấy nhu cầu quá mạnh muốn
bảo vệ sự tự do riêng của họ, họ coi nhiệm vụ loan báo Tin Mừng như thể là một
chất độc nguy hiểm thay vì là một lời đáp hân hoan trước tình yêu của Thiên
Chúa mời gọi chúng ta truyền giáo, hoàn thiện bản thân và sinh hoa kết quả. Một
số người hoàn toàn từ chối hiến thân cho truyền giáo và rốt cuộc đi đến một
tình trạng tê liệt và nhàm chán thiêng liêng.” (Số 81)
21. ĐỐI DIỆN VỚI NHỮNG THÁCH ĐỐ MỤC VỤ, TÔI CÓ ĐỦ BẢN LĨNH “NÓI
KHÔNG VỚI BI QUAN VÔ BỔ” ĐỂ VỮNG LÒNG TRÔNG CẬY ?
“Lắm khi nhiệm vụ này là một cây thập giá nặng nề, nhưng chính từ
thập giá, từ cạnh sườn bị đâm thâu của Người, Đức Giêsu đã hiến mình cho chúng
ta như một nguồn nước sự sống. Chúng ta đừng để mình bị cướp mất niềm hi vọng!” (Số 86)
22. TÔI KHÉP KÍN TRONG CÁI TÔI TỰ MÃN HAY CỞI MỞ ĐÓN NHẬN MỌI NGƯỜI
ĐỂ XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG CHUNG YÊU THƯƠNG HIỆP NHẤT ?
“Ra khỏi mình để hoà vào với người khác là điều tốt cho chúng ta.
Tự đóng kín mình là nếm cảm vị đắng độc hại của tính tự tại, và loài người sẽ
trở nên tổi tệ hơn vì mỗi một chọn lựa ích kỷ của chúng ta.” (Số 87)
“Chúng ta được kêu gọi làm chứng cho một cách sống chung luôn luôn
mới mẻ trong sự trung thành với Tin Mừng.[70] Chúng ta đừng để mình bị cướp mất
đời sống chung!” (Số 92)
23. TÔI CÓ CAN ĐẢM NÓI KHÔNG VỚI TÍNH THẾ TỤC THIÊNG LIÊNG ?
- “một sự quan tâm phô trương đối với phụng vụ, giáo lý hay uy tín
của Hội Thánh, nhưng không hề lo cho Tin Mừng có một tác động thực sự đối với
các tín hữu và các nhu cầu cụ thể của thời đại.” (Số 95)
- “ẩn nấp bên dưới vẻ hào nhoáng của lợi lộc xã hội và chính trị,
hay dưới sự kiêu căng vì họ có khả năng xử lý các vấn đề thực tế, hay một sự
say mê đối với các chương trình tự lực và tự thể hiện mình.” (SĐD)
- “muốn được người khác để ý tới, xuất hiện với đủ vẻ sang trọng
trong đời sống xã hội, trong các buổi gặp gỡ, tiệc tùng và tiếp tân.” (SĐD)
- “luôn bận bịu với các công việc quản lý, các vấn đề thống kê, kế
hoạch và đánh giá mà lợi ích chính không phải là dân Chúa mà là Giáo Hội được
nhìn như là một tổ chức.” (SĐD)
- “thói háo danh của
những người có chút ít quyền lực và thà làm tướng của một đạo quân thất trận
hơn chỉ là người lính quèn vẫn tiếp tục chiến đấu.” (Số 96)
- “Chúng ta để mình bị
cuốn theo những ảo mộng và mất tiếp xúc với những mảnh đời thực và những khó
khăn của dân chúng.” (SĐD)
24. TÔI LÀ NHÂN TỐ ĐỂ HIỆP NHẤT VÀ XÂY DỰNG TÌNH HUYNH ĐỆ HAY TÁC
NHÂN GÂY CHIA RẼ ?
“Một số thậm chí không còn bằng lòng sống như một phần tử của cộng
đồng Hội Thánh rộng lớn hơn nhưng phát triển một tinh thần loại trừ, tạo ra một
“phe nhóm nội bộ”. Thay vì thuộc về một Hội Thánh toàn thể trong tất cả sự đa
dạng, họ thuộc về nhóm này hay nhóm nọ, nghĩ rằng mình thì khác hay đặc biệt.” (Số 98)
“Tôi đặc biệt xin các Kitô hữu trong các cộng đồng trên khắp thế
giới cống hiến một chứng tá rực sáng và hấp dẫn về tình hiệp thông huynh đệ.” (Số 99)
“Chúng ta hãy làm điều đó hôm nay! Chúng ta đừng để mình bị cướp
mất lý tưởng tình yêu huynh đệ!” (Số 101)
25. TÔI CÓ TỰ HÀO KIÊU CĂNG VÌ PHẨM CHỨC LINH MỤC CỦA MÌNH ?
“Việc đồng hoá người linh mục với Đức Kitô là đầu—nghĩa là nguồn
mạch chính của ân sủng—không có nghĩa là đặt người linh mục lên trên những
người khác. Trong Hội Thánh, các chức vụ “không đặt một số người lên địa vị cao
hơn những người khác” (Số 104)
26. TÔI CÓ QUAN TÂM ĐỦ CHO MỤC VỤ GIỚI TRẺ, MỤC VỤ ƠN GỌI ?
- “Giới trẻ thường không
thể tìm thấy những giải đáp cho các mối quan tâm, nhu cầu, vấn đề và các thương
tổn của họ trong các cơ cấu bình thường. Là người lớn, chúng ta cảm thấy khó
kiên nhẫn lắng nghe họ, trân trọng các mối quan tâm và đòi hỏi của họ, và nói
với họ bằng một ngôn ngữ họ có thể hiểu.” (Số 105)
- “Nhiều nơi đang trải
qua một tình trạng thiếu ơn gọi linh mục và tu sĩ. Đây thường là do thiếu một
nhiệt tình tông đồ có sức lan toả trong các cộng đồng, dẫn đến sự nguội lạnh
của niềm phấn khởi và sức hấp dẫn. Ở đâu có sự sống, nhiệt tình và ước muốn đem
Đức Kitô đến cho người khác, ở đó sẽ xuất hiện các ơn gọi đích thực.” (Số 107)
27. BÀI GIẢNG LỄ CỦA TÔI CÓ TRỞ THÀNH GÁNH NẶNG CHO MÌNH VÀ CHO
GIÁO DÂN ?
“Chúng ta biết các tín hữu rất coi trọng bài giảng, và cả các tín
hữu lẫn các thừa tác viên có chức thánh đều khổ sở vì các bài giảng: giáo dân
vì phải nghe các bài giảng, còn các giáo sĩ vì phải giảng bài! Đây là trường
hợp đáng buồn. Bài giảng thực ra có thể là một trải nghiệm sâu đậm và vui sướng
về Thần Khí, một cuộc gặp gỡ đầy an ủi với lời Thiên Chúa, một nguồn mạch canh
tân và tăng trưởng thường xuyên.” (Số 135)
“Khi bài giảng diễn ra trong bối cảnh phụng vụ, nó là một phần của
lễ hiến dâng lên Cha và là một trung gian cho ân sủng mà Đức Kitô đã tuôn đổ
trong cuộc cử hành. Bối cảnh này đòi hỏi việc giảng phải hướng dẫn cộng đoàn và
giảng viên tới một sự hiệp thông với Đức Kitô trong bí tích Thánh Thể, để giúp
họ thay đổi cuộc sống. Muốn được thế, các lời giảng của giảng viên phải điều
độ, để cho tâm điểm của sự chú ý Chúa, chứ không phải là thừa tác viên của
Chúa.” (Số 138 ; xem thêm các số từ 139-159)
28. TÔI ĐÃ GẶP GỠ, ĐỒNG HÀNH LÀM SAO ĐỐI VỚI CÁC DỰ TÒNG, TÂN TÒNG
?
“các mục tử có chức thánh và các nhà hoạt động mục vụ khác có thể
hiện thực hoá hương thơm sự gần gũi và cái nhìn thân mật của Đức Kitô. Hội
Thánh sẽ phải dẫn đưa mọi người—linh mục, tu sĩ, và giáo dân—vào trong “nghệ
thuật đồng hành” này, nó dạy chúng ta biết cởi dép khi đứng trên nền đất thánh
thiêng của người khác (xem Xh 3:5). Bước chân đồng hành này phải có nhịp đều và
vững vàng, phản ánh thái độ gần gũi và cái nhìn cảm thông của chúng ta, giúp
chữa lành và khích lệ sự tăng trưởng trong đời sống Kitô giáo.” (Số 169)
29. TÔI ĐÃ THỰC HIỆN GIỚI RĂN YÊU THƯƠNG CỤ THỂ LÀM SAO ? CÓ ĐÁP
ỨNG TIẾNG KÊU CỦA NGƯỜI NGHÈO ĐỂ CHĂM SÓC MỤC VỤ ?
“việc phục vụ bác ái cũng là một yếu tố cấu thành của sứ mạng Hội
Thánh và là một biểu hiện thiết yếu của chính sự hiện hữu của Hội Thánh”.[144]
Hội Thánh tự bản chất là truyền giáo; Hội Thánh tràn trề đức ái hiệu quả và một
sự cảm thông có sức thấu hiểu, giúp đỡ và phát huy.” (Số 179)
“tôi muốn nói với lòng đau buồn rằng sự kỳ thị tồi tệ nhất mà người
nghèo phải chịu là thiếu chăm sóc thiêng liêng. Đa số người nghèo có một sự mở
lòng đặc biệt với đức tin; họ cần Thiên Chúa và chúng ta không thể không cống
hiến cho họ tình bạn, sự chúc lành, lời nói, việc cử hành các bí tích và một
hành trình lớn lên và trưởng thành trong đức tin. Chọn lựa ưu tiên của chúng ta
vì người nghèo phải chủ yếu trở thành một sự chăm sóc tôn giáo đặc biệt và ưu
tiên cho họ.” (Số 200)
30. TÔI CÓ SIÊNG NĂNG CẦU NGUYỆN VÀ SUY NIỆM TIN MỪNG ?
“Sự khích lệ tốt nhất để chia sẻ Tin Mừng là qua việc suy niệm Tin
Mừng với tình yêu, dừng lại ở mỗi trang và đọc bằng trái tim. Nếu chúng ta đến
với Tin Mừng bằng cách này, vẻ đẹp của nó sẽ làm chúng ta kinh ngạc và không
ngừng kích thích chúng ta. Nhưng muốn được như thế, chúng ta cần lấy lại một
tinh thần chiêm niệm để có thể giúp chúng ta không ngừng nhận ra rằng mình được
thừa hưởng một kho tàng làm chúng ta người hơn và giúp chúng ta sống một đời
sống mới.” (Số 264)
“Một người truyền giáo đích thực, người không bao giờ thôi là một
môn đệ, biết rằng có Đức Kitô cùng đi với mình, nói với mình, thở với mình, làm
việc với mình. Họ cảm nhận được Đức Giêsu sống với mình giữa công cuộc truyền
giáo. Nếu không nhìn thấy Ngài hiện diện tại tâm điểm sự dấn thân truyền giáo
của chúng ta, lòng phấn khởi của chúng ta sẽ sớm nhạt nhoà và chúng ta không
còn chắc chắn mình đang thông truyền điều gì; chúng ta thiếu sinh lực và đam
mê.” (Số 266)
31. TÔI CÓ THƯỜNG XUYÊN CẦU XIN CHÚA THÁNH THẦN NUNG ĐỐT NHIỆT TÌNH
TRUYỀN GIÁO ?
“Duy trì nhiệt tình truyền giáo sống động đòi chúng ta vững vàng
tin cậy vào Chúa Thánh Thần, vì chính Người là Đấng “cứu giúp những nỗi yếu hèn
của chúng ta” (Rm 8:6). Nhưng sự tin cậy quảng đại này cần được nuôi dưỡng, vì
thế chúng ta cần liên lỷ kêu xin Chúa Thánh Thần. Người có thể chữa lành những
gì làm chúng ta suy giảm nhiệt tình truyền giáo.” (Số 280)
32. ĐỨC MARIA CÓ VAI TRÒ NÀO TRONG CUỘC ĐỜI MỤC TỬ CỦA TÔI ?
“Mẹ là người truyền giáo đến gần chúng ta và đồng hành với chúng ta
suốt dòng đời, dùng tình mẫu tử để mở lòng chúng ta ra đón nhận đức tin. Là
người mẹ thực sự, mẹ đi bên cạnh chúng ta, chia sẻ các phấn đấu của chúng ta và
hằng bao bọc chúng ta bằng tình thương của Thiên Chúa.” (Số 286)
Tác giả bài viết: Linh mục Giuse Trương Đình Hiền
Nguồn tin: Gpquinhon.org