CHÂN DUNG
LINH MỤC
Hội đồng Giám mục Việt Nam khi triển khai Năm Linh Mục đã
muốn thu thập những tấm gương linh mục Việt Nam trải dài trong lịch sử Giáo Hội
tại Việt Nam, ít nữa mỗi giáo phận giới thiệu hai gương mặt nổi bật của giáo
phận mình. Giáo phận Đà Lạt đã mau mắn để giới thiệu chân dung của nhà truyền
giáo vĩ đại Đức cha Gioan Baotixita Cassaigne. Và khi nhìn vào hàng linh mục
của mình đã qua đời, giáo phận Đà Lạt thấy cần phải giới thiệu hai con người
linh mục mang hai sắc thái bổ túc cho nhau: một con người linh mục của những
chức vụ và công việc nổi trội: cha Phaolô Nguyễn Văn Đậu, và con người linh mục
kia là của những công việc âm thầm như người gieo giống trong Tin Mừng: cha
Giuse Phùng Thanh Quang; và vì thế trong bài này chúng tôi xin ghi lại những ký
ức về cả hai con người mà theo thiển nghĩ không thể tách rời trong cuộc sống
của một linh mục hôm nay.
Cha Giuse PHÙNG THANH QUANG (1926 – 2003)
Cha
Giuse Phùng Thanh Quang sinh ngày 31-10-1926 tại Thủ Dầu Một, Bình Dương. Là
con thứ năm trong bảy người con của ông bà cố Bênêđictô Phùng Văn Thế và Maria
Nguyễn Thị Hòa.
Ngày
12-08-1938 gia nhập Tiểu chủng viện.
Ngày
30-10-1947 gia nhập Đại chủng viện cho đến ngày 25-09-1954 được Đức cha Gioan
Cassaigne phong chức linh mục tại nhà thờ Chánh tòa Sài Gòn.
Từ
ngày 14-10-1954 cha Giuse được sai về làm cha phó nhà thờ giáo xứ Đà Lạt, và
sau đó làm tuyên úy quân đội. Đức cha Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền gọi ngài về Đà
Lạt và bổ nhiệm làm cha sở nhà thờ Chánh tòa từ 21-05-1961.
Ngày
08-09-1962 vì nhu cầu đặc biệt Đức cha thuyên chuyển cha về làm cha sở giáo xứ
Di Linh. Đức cha viết trong thư bổ nhiệm: “Cả vùng Di Linh có nhiều thừa sai
ngoại quốc, họ không khỏi gặp nhiều khó khăn khi thi hành mục vụ, nên nhờ cha
giúp đỡ để các thừa sai được điều kiện thuận lợi hơn khi thi hành sứ vụ của
mình, nhất là tại các Trung tâm truyền giáo như: Ka La, BrăYang, Bơtong,
Đakplao, Cây số 16 Đinh Trang Hạ (Dariam) và Trại phong Di Linh…”
Ngày
23-03-1970 Đức cha giao cho cha tạo lập một Trung tâm bác ái tại sở trà Đồng
Lạc thuộc địa sở giáo xứ Di Linh để giúp những người thiện chí có nơi yên tĩnh
cầu nguyện, học hỏi, cải thiện đời sống. Sau này Trung tâm được gọi tên là
Từ
tháng hai năm 1973 khi Đức cha Jean Cassaigne bị đau liệt, Đức Giám mục giáo
phận truyền lệnh cha vừa phục vụ cho Đức cha Cassaigne vừa phục vụ phần thiêng
liêng cho làng cùi. Sau đó cha Nhiếp chính Phaolô Đậu cũng đặt cha Giuse giúp
làng cùi trong lúc chờ đợi tân giám mục giáo phận (Trích thư 4-12-1973).
Trong
giai đoạn này, cha Giuse Quang đã cho xuất bản tập ký: “Lạc Quan Trên
Miền Thượng” để nói về công lao của Đức cha Cassaigne, sáng lập thí
điểm truyền giáo Di Linh và sáng lập làng cùi Di Linh (1929). Tập sách này
không những giúp mọi người hiểu hơn về cuộc đời và sự nghiệp của cha Gioan
Cassaigne mà còn giúp cho mọi người hiểu và quan tâm hơn đến đời sống của anh
chị em phong cùi.
Trong
nhiều năm phục vụ tại Di Linh, không những chăm lo đời sống thiêng liêng mà Cha
Giuse cũng rất quan tâm đến đời sống kinh tế của bà con giáo dân Di Linh còn
rất nhiều khó khăn thiếu thốn và thiếu ổn định. Để giúp họ, do những tương quan
uy tín sẵn có, cha Giuse đã xin Nha Thủy Nông giúp kinh phí triển khai dự án
cải tạo cánh đồng Da Klonkoa, một vùng sình lầy nhiễm phèn khoảng 100 mẫu, để
trồng lúa nước và dự án này được chính quyền trung ương chấp thuận và cấp kinh
phí từ ngày 19-04-1974.
Biến
cố tháng 3 và tháng 4 năm 1975 đưa đất nước đến một giai đoạn mới: trong buổi
giao thời, rất nhiều người hoang mang và chọn giải pháp tạm thời rời Tuyên Đức
– Lâm Đồng, để lại những giáo xứ và nhà thờ trống vắng. Cha Giuse là người rất
vâng lời Bề trên, cho nên khi nhận được thư của Đức cha Bartôlômêô Nguyễn Sơn
Lâm (vừa về nhận giáo phận đúng 10 ngày) viết tại Đà Lạt ngày 28-03-1975: “Tôi
tha thiết xin cha vì Chúa, vì Giáo Hội, vì các linh hồn, hy sinh ở lại với giáo
phận trong bất cứ hoàn cảnh nào”, ngài đã ở lại giáo xứ mặc dù với hoàn
cảnh riêng của ngài, mọi người đều khuyên ngài ra đi khi các trung tâm truyền
giáo Brăyàng, Dariam, Trung tâm thánh Giuse Đồng Lạc, Cộng đoàn Đồng Công cây
số 12 bị tiếp quản và giải thể, các cha ngoại quốc phải trở về nước, nhà thờ Di
Linh bị pháo kích hư hại nặng.
Và
ngài còn vâng phục Đức cha Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm khi nhận chức Hạt trưởng
hạt Di Linh từ ngày 19-08-1975 khi Đức cha thiết lập một giáo hạt với bức thư
gửi cho cha: “Vì không họp được các cha trong vùng, tôi xin đặt cha làm Hạt
trưởng hạt Di Linh, để khi có thể, cha liên lạc, củng cố tinh thần anh em trong
huyện nhà ... Mong cha thông cảm với những khó khăn hiện tại của giáo phận...
nhận chức Hạt trưởng để giúp đỡ anh em...”.
Nhưng
chính trong giai đoạn nhiều khó khăn này, cha Giuse đã để lại nhiều dấu ấn mục
vụ nhất, không những trong địa bàn Di Linh mà còn nhiều nơi trong giáo phận Đà
Lạt, đặc biệt cho anh chị em kinh tế mới và anh chị em dân tộc.
Từ
thập niên 80, rất đông đồng bào từ các địa phương miền Bắc đến tỉnh Lâm Đồng để
xây dựng cuộc sống và lập nghiệp tại các địa phương Hòa Ninh, Hòa Nam, Blát
thuộc huyện Di Linh, Cát Tiên, Đạ Tẻh thuộc huyện Cát Tiên, Đạ Tẻh, Ninh Loan
thuộc huyện Đức Trọng. Tấm lòng mục tử của cha Giuse đã vươn đến những vùng đất
rất xa giáo xứ Di Linh. Ngài đã nhiều lần đến thăm, động viên, an ủi anh chị em
ở vùng kinh tế mới, lập danh sách đồng bào công giáo tại các giáo điểm này cũng
như đón nhận họ vào những ngày lễ trọng tại chính giáo xứ Di Linh. Ngay chính
Giám mục giáo phận khi muốn xây dựng một giáo họ, một giáo xứ, một nhà thờ tại
những nơi đó… thì đều nhờ ngài cung cấp các dữ kiện về địa hình, địa vật, dân
số, đời sống của cư dân. Và cũng chính nhờ những quan tâm này, lần lượt các
giáo điểm được tổ chức các thánh lễ vào dịp Giáng Sinh và Phục Sinh để dần dần
hình thành nên các giáo họ, giáo xứ như Cát Tiên (1989), Đạ Tẻh (1990), Ninh
Loan (1991), Hòa Ninh (1992), Blat (1995).... Lịch sử các giáo họ, giáo xứ của
anh chị em kinh tế mới và dân tộc ghi nhận tình thương và công lao cha Giuse
dành cho họ. Riêng đối với anh chị em dân tộc, cha còn quan tâm chăm sóc đời
sống vật chất và văn hóa cho họ với những chương trình dài hạn. Hằng năm vào lúc giáp hạt là lúc các thôn
làng dân tộc đói kém, cha vẫn thường trợ cấp cho các thôn dân tộc hàng tấn
lương thực để giúp họ.... Ngài cũng xin những dự án tài trợ cho chương trình
tái định cư cho các thôn làng quen nếp sống du canh du cư hoặc gặp những sự cố
cháy làng, cháy nhà như tại Đinh Trang Thượng năm 1996. Để giúp nâng cao đời sống cho anh chị em dân tộc tại các
thôn làng về văn hóa, cha đã xin mở các lớp bổ túc văn hóa tại thôn Kaminh
1993, trường mẫu giáo Mbung Srénao, trường dạy cắt may dân tộc tại Di linh năm
1996.
Vào
những năm cuối đời, dù tuổi cao và sức khỏe suy yếu nhiều do mắc bệnh tim, hàng
tháng vẫn phải tái khám tại bệnh viện Nguyễn Trãi Tp.HCM, cha Giuse vẫn miệt
mài tìm đến các thôn làng mới như Gia Bắc, Sơn Điền để giúp đỡ về vật chất và
nâng đỡ tinh thần cho các anh chị em tín hữu.
Cuối
tháng 10-2003 cha phải nhập bệnh viện Nguyễn Trãi cấp cứu, nhưng vì bệnh đã quá
nặng và tuổi cao nên cha đã qua đời vào lúc 01g45 ngày 31-10-2003, hưởng thọ 77
tuổi.
Đức cha Phêrô Nguyễn
Văn Nhơn khi chọn ngài là mẫu gương linh mục đã chia sẻ: “Khi cha Giuse Phùng
Thanh Quang còn sống, chúng ta không thấy được những công lao vĩ đại mà ngài đã
âm thầm gieo trồng và để lại cho Giáo Hội cũng như cho các linh hồn ; chỉ khi
Ngài qua đi, chúng ta mới thấy được tầm mức ảnh hưởng của những công việc ngài
đã làm trong giáo phận ; điều ngài hằng mong muốn là để Danh Chúa được cả sáng,
vì ngài đã chọn Chúa là gia nghiệp đời mình”.