Sứ Ðiệp và Các Phép Lạ Fatima
(gpphanthiet.com) - Thứ Hai, 12/05/2014 17:02
1. Lời mời gọi của Mẹ
Maria
Lời nhắn nhủ của Ðức Mẹ Fatima: “Nếu người ta thực thi
những gì Mẹ nhắc nhủ thì hòa bình sẽ được vãn hồi”.
Trong thời đại ngày nay
Thiên Chúa đã phán cùng thế giới qua Ðức Trinh Nữ Maria. Mẹ đã lên tiếng mời
gọi và nhắn nhủ tất cả mọi dân tộc phải cải thiện đời sống và trở lại với Thiên
Chúa. Vào năm 1917 tại
Bao nhiêu đau thương đã
có thể ngăn chận được, nếu như nhân loại biết lắng nghe những lời nhắn nhủ của
Mẹ. Thế giới tân tiến ngày nay đã phát triển theo một chiều hướng sai lầm nguy
hiểm, nên cần phải nhắc lại sứ điệp của Ðức Trinh Nữ Maria đã phán tại
Thiên Chúa sẽ là vua
cai trị thế giới hay thế giới sẽ rơi vào ách thống trị của Satan? Vương quốc
của Mẹ sẽ mở đường cho Vương quốc của Ðức Kitô. Ðó là sự lạc quan mà chúng ta
tin tưởng chắc chắn có được trong một thời đại đen tối như hôm nay.
- Lần hiện ra thứ nhất:
Chúa nhật 13.05.1917
Vào năm 1917, đệ nhất
thế chiến vẫn còn tàn phá Âu Châu và đe dọa lôi kéo theo nhiều dân tộc khác vào
vòng máu lửa và chết chóc.
Giữa cảnh tàn khốc do
những năm tháng chinh chiến gây ra và vào lúc cuộc cách mạng vô thần chông đối
tôn giáo tại Nga bùng nổ và đang bành trướng ra khắp nơi trên thế giới, thì Ðức
Mẹ đã hiện ra tại Cova da Iria, một thung lũng kế cận Fatima, thuộc vùng Leira,
nước Bồ Ðào Nha, cùng ba trẻ chăn chiên. Ðó là các em Lucia dos
Trong lúc các em đang
ngồi chơi đá, sau khi đã cùng nhau lần hạt theo hồi chuông nhà thờ đổ như thói
quen, thì đột nhiên một luồng ánh sáng từ một tia chớp chiếu sáng cả bầu trời
quang đãng đã làm cho các em kinh hoàng. Vì nghĩ rằng trời sắp đổ mưa, nên các
em vội vàng lùa chiên về làng. Nhưng đến giữa sườn đồi, bên cạnh một cây sồi cổ
thụ, một tia sáng mới lại làm cho các em lóa mắt. Như bị thu hút, các em đã
dừng chân lại. Bấy giờ các em thấy trên một cây sồi nhỏ một bà rất đẹp đang
phất phới trong một vòng hào quang rực rỡ hơn cả mặt trời đứng ngọ. Ðể các em
bé khỏi hoảng sợ và tin tưởng đến gần mình, bà đẹp nói với các em: “Các con
đừng sợ, bà không làm gì hại đến các con đâu”. Áo bà trắng như tuyết và phủ dài
đến tận chân. Cổ bà mang một giây chuyền vàng với hai nụ tơ vàng. Áo khoác bên
ngoài của bà viền vàng, phủ đầu và một phần lớn người bà. Nét mặt của bà rất
dịu hiền, nhưng đượm vẻ buồn. Hai tay bà chắp trước ngực, có mang một chuỗi
tràng hạt bằng ngọc trắng thật đẹp với tượng thánh giá bằng bạc gắn ở đầu
chuỗi. Một vùng hào quang phủ quanh mặt và người bà.
Bấy giờ Lucia lấy hết
bình tĩnh và mạnh dạn hỏi bà đẹp:
“Thưa bà, bà từ đâu
tới?” – “Bà từ trên trời xuống.”
“Thưa bà, bà muốn gì
nơi chúng con?” – “Bà đến đây để muốn
chúng con trở lại với bà vào ngày 13 mỗi tháng cũng vào giờ này mãi cho đến
tháng mười. Vào tháng mười bà sẽ nói cho các con biết bà là ai và bà muốn gì
nơi các con.”
Người đàn bà đẹp còn
báo cho các em biết trước là các em sẽ phải chịu nhiều thử thách đau khổ và bà
xin các em hãy can đảm chịu khó đền thay cho tội lỗi và những xúc phạm đến
Thiên Chúa của thời đại tân tiến ngày nay. Bà khuyên các em hãy chăm chỉ lần
hạt Mân Côi mỗi ngày để cầu nguyện cho những người có tội biết ăn năn cải thiện
và cho thế giới được hòa bình. Sau đó bà đẹp bay về hướng đông biến mất vào
trong ánh thái dương.
Ngỡ ngàng qua sự cố lạ
lùng vừa nhìn thấy, lòng tràn đầy ân sủng, ba em trở về nhà và thuật lại cho
mọi người nghe, nhưng không một ai cho tất cả những gì các em vừa chứng kiến là
thật. Người ta cho là các em nói dối. Bà mẹ của Lucia còn đánh đập em và cấm em
không được nói dối như thế.
Ðó là các thử thách đầu
tiên mà các em bé thánh thiện này phải gánh chịu. Ngày hôm sau tin tức về sự lạ
đã xảy ra được loan đi khắp làng nhanh như chớp và bất chấp mọi nhạo cười và
ngờ vực của dân cư trong làng, các em vẫn luôn giữ vững lời tường thuật của
mình cũng như lời đã hứa với bà đẹp và dâng cho Chúa những sự đau khổ để đền
tội như lời bà đã dạy.
- Lần hiện ra thứ hai:
Thứ tư, 13.06.1917
Câu chuyện trao đổi lần
thứ hai này giữa vị Thiên Nữ và ba trẻ kéo dài độ 10 phút. Các người đứng chung
quanh đều nghe Lucia nói, nhưng không nghe và không trông thấy bà hiện ra. Họ
chỉ ghi nhận một hiện tượng khác thường là vào cuối cuộc gặp gỡ kỳ bí đó là các
lá sồi đều nghiêng về hướng đông một cách kỳ lạ như thể có một bàn tay vô hình
nào đó vừa lướt qua và người ta nghe từ phía cây sồi có một tiếng động mạnh như
tiếng sấm trong lòng đất, rồi một làn mây trắng mỏng từ từ bay nhẹ lên trời.
Bấy giờ Lucia đưa tay chỉ về hướng đám mây và kêu to: “Nếu các ông các bà muốn
nhìn thấy Bà, thì Bà đang kia kìa” và sau đó một lúc em lại nói: “Bây giờ thì
qua hết rồi. Trời đã khép lại rồi.”
- Lần hiện ra thứ ba:
Thứ sáu, 13.07.1917
Ðến ngày 13 tháng 7,
vào khoảng 5,000 người đã từ khắp nơi kéo về
Trong lần hiện ra thứ
ba này, Mẹ Maria cho ba trẻ xem một biển lửa vĩ đại và có những vật thể cháy
đen đang phải ngụp lặn trong đó, ma quỷ và các linh hồn có hình dáng người
trong suốt và đỏ hồng. Ðức Mẹ cho các em hay là sẽ có nhiều linh hồn phải sa
hỏa ngục. Ðức Mẹ phán: “Ðể cứu vớt các linh hồn đó, Thiên Chúa muốn nhân loại
phải tôn sùng Mẫu Tâm Vô Nhiễm của Bà. Nếu nhân loại biết thực thi các lời nhắn
nhủ của Bà thì nhiều người sẽ được cứu rỗi và nền hòa bình sẽ được vãn hồi”.
Tiếp đến, Ðức Mẹ còn
nói: “Nếu nhân loại biết lắng nghe các ước muốn của Bà, thì nước Nga sẽ trở lại
và sẽ có hòa bình. Nếu không, chủ nghĩa cộng sản vô thần sẽ bành trướng và gieo
rắc lạc thuyết ra khắp nơi trên thế giới, chiến tranh và các cuộc đàn áp tôn
giáo lại tiếp diễn. Các người thành tâm sẽ bị đày đọa, Ðức Thánh Cha sẽ phải
chịu nhiều đau khổ, nhiều dân tộc sẽ bị tiêu diệt, nhưng cuối cùng Trái Tim Bà
sẽ thắng”.
Ðức Mẹ cũng báo trước
là để cho mọi người có thể tin, trong lần hiện ra vào tháng 10 tới sẽ xảy ra
một phép lạ cả thể.
- Lần hiện ra thứ tư và
thứ năm trong tháng 8 và tháng 9.1917
Các sự kiện xảy ra tại
Cova da Iria và lời báo trước về phép lạ sẽ xảy ra đã lôi cuốn thêm nhiều người
vào sự quyến rũ kỳ diệu hơn nữa. Trong khi đó những kẻ thù của Giáo Hội cũng
tìm cách len lỏi vào. Họ chỉ trích những sự kiện xảy ra tại
Vào tháng 8, ông quận
trưởng quận Ourem đã cho bắt ba em bé và tìm đủ cách bắt các em phải thú nhận
là các em đã nói dối. Họ dọa sẽ bỏ tù các em và cả việc xử tử các em nữa. Thế
nhưng mọi dọa nạt đó đều vô hiệu quả và những kẻ bất nhân đành bó buộc phải trả
các em lại cho cha mẹ các em vào hai ngày sau đó. Tiếp đến, hai cảnh sát viên
lại được lệnh của ủy ban thị xã đến thẩm vấn các em. Trong khi đó toàn nước Bồ
Ðào Nha đều hướng về
- Lần hiện ra thứ sáu:
Thứ bảy, 13.10.1917
Càng gần đến ngày 13
tháng 10, dân chúng Bồ Ðào Nha càng thêm rạo rực chờ đón hiện tượng đã được báo
trước là sẽ xảy ra trong lần hiện ra cuối cùng này. Cả hai phía, ủng hộ cũng
như chống đối, đều hăng hái và đã ảnh hưởng sâu xa đến dân chúng.
Vào đúng ngày 13 tháng
10, tuy trời đổ mưa và giá buốt, đoàn người khắp nơi vẫn tiếp tục lũ lượt kéo
về hiện trường, nơi xảy ra sự lạ. Cho đến trước trưa người ta ước đoán đã có
khoảng 50,000 người thuộc đủ mọi thành phần xã hội và tuổi tác từ khắp nơi tới.
Trong số họ có cả những phóng viên của những hãng thông tấn danh tiếng tại Bồ
Ðào Nha. Hàng ngàn người tuy bị ướt sũng nước mưa, nhưng vẫn kiên nhẫn đứng chờ
sự lạ tại thung lũng Iria.
Ðúng giữa trưa, một tia
sáng chói lọi báo cho các em biết sự xuất hiện của vị Thiên Nữ. Bỗng chốc một
đám mây trắng bao phủ các em bé và người ta thấy đám mây lại bay lên cao độ mấy
mét.
Sau đó Lucia đã kể lại
cuộc trao đổi giữa vị Thiên Nữ và ba em xảy ra như sau:
“Thưa Bà, Bà là ai và
Bà muốn gì nơi con?” – “Bà là Nữ Vương Rất
Thánh Mân Côi. Bà muốn người ta xây dựng nơi đây một nhà nguyện để kính Bà. Con
hãy tiếp tục lần hạt Mân Côi mỗi ngày. Nhân loại phải cải thiện đời sống và ăn
năn hối cải!”
Khi nói đến những lời
cuối cùng này, gương mặt vị Thiên Nữ trở nên buồn bã. Một cách thành khẩn và
đầy chua xót, vị Thiên Nữ đã thốt lên lời cuối cùng và đồng thời cũng là lời
trọng yếu của sứ điệp
Vị Thiên Nữ liền mở
rộng đôi tay và từ tay Bà phát ra một luồng sáng chiếu tận đến chân trời hướng
về phía thái dương.
“Kìa, hãy nhìn mặt
trời!” Lucia bỗng kêu to lên, và tất cả mọi người có mặt liền được chứng kiến
một hiện tượng kỳ lạ như chưa bao giờ có: Cơn mưa bỗng chốc tạnh hẳn, bầu trời
đang tối sầm bỗng sáng rực và vầng thái dương xuất hiện trong ánh sáng huy
hoàng trên bầu trời đứng ngọ. Ai cũng có thể nhìn thẳng vào mặt trời mà không
bị hư mắt.
Một lúc sau mặt trời
bắt đầu quay tròn như một vòng lửa với một tốc độ rất nhanh, phát ra những tia
lửa đỏ hồng và nền trời cũng như mặt đất đều chìm sâu vào trong ánh sáng huyền
diệu. Sự kiện này xảy ra liên tiếp ba lần, cách nhau quãng chỉ trong chốc lát
thôi, và mỗi lần xảy ra màu sắc lại thêm lộng lẫy hơn. Còn đám đông thì đứng
lặng yên như nín thở, bị cuốn hút ngất ngây.
Ðột nhiên, mặt trời tự
tách ra khỏi bầu trời và tiến gần mặt đất với những bước nhẩy ngoằn ngoèo. Hàng
ngàn cửa miệng liền la to thất thanh và đám đông trở nên hỗn loạn: “Chúng tôi
chết mất!”, “Lạy Chúa Giêsu!”, “Phép lạ đấy!”, “Kính Mừng Maria!”, v.v... Mọi
người không ai bảo ai liền quì gối và hát to kinh Tin Kính. Hiện tượng huyền
diệu đó kéo dài độ 10 phút. Và không chỉ những người có mặt hôm đó tại Iria,
nhưng cả những người khác ở chung quanh Fatima cũng được diễm phúc chứng kiến
hiện tượng kỳ lạ hiếm có đó. Một điều kỳ lạ nữa là áo quần của những người có
mặt đang bị ướt sũng nước mưa, đột nhiên trở nên khô ráo hoàn toàn.
Trong khi mọi người
đang bị say sưa thu hút bởi phép lạ mặt trời, thì ba em bé đạo hạnh lại được
chứng kiến một hiện tượng khác nữa: Ba em nhìn thấy Thánh Gia Thất đang đứng
bên cạnh mặt trời, bên phải là Mẹ Maria mặc áo choàng mầu trắng và áo dài màu
xanh, bên trái là thánh Giuse và Chúa Giêsu Hài Ðồng. Chúa ban phép lành cho
thế giới.
Lần hiện ra cuối cùng
này kéo dài hơn và không có đối thoại. Ðó cũng là sự kết thúc một cách long
trọng 6 lần hiện ra đầy linh thiêng kỳ diệu của Mẹ Thiên Chúa tại Fatima.
Nhưng người ta tự hỏi
tại sao lại có những phép lạ xảy ra trong các lần hiện ra của Mẹ Maria như thế?
Câu trả lời thật quá rõ ràng, là để minh chứng cho thế giới biết đây là sự
thật, và để nhân loại chân nhận cách rõ ràng hơn sứ điệp của Trời Cao được ban
bố qua Mẹ từ ái. Chúng ta đừng để cho sứ điệp này bị rơi vào quên lãng!
Tối hậu thư của Thiên
Chúa
Qua Mẹ Maria tại
Fatima, Thiên Chúa đã gởi cho thế giới một tối hậu thư. Hình như hạn định Người
đưa ra vẫn chưa hết hẳn. Nếu chúng ta không thể cản ngăn được dòng băng tuyết
cuốn trôi, thì ít ra chúng ta cũng có thể làm giảm thiểu sức mạnh và lộ trình
của nó. Vậy đây là lúc chúng ta phải quyết định. Tối hậu thư mà Thiên Chúa gởi
qua Mẹ Maria là:
(1) Hoặc chấp nhận
vương quyền của Thiên Chúa hay thế giới sẽ bị rơi xuống vực thẳm.
(2) Hoặc cải thiện đời
sống hay rơi vào hỗn loạn.
(3) Hoặc siêng năng đọc
kinh cầu nguyện hay là hỏa ngục đời đời cho nhiều người.
(4) Hoặc chấp nhận
quyền Nữ Vương của Mẹ Maria hay chiến tranh và sự bành trướng của chủ thuyết vô
thần sai lạc.
(5) Hoặc thống hối ăn
năn hay sự tiêu diệt.
Tại Fatima Ðức Mẹ đã
mang đến cho thế giới và những người thiện tâm niềm an ủi, nhưng đồng thời cả
những lời nhắn nhủ nghiêm trọng, là phải ăn năn đền bù tội lỗi, sự đe dọa chiến
tranh, sự đàn áp tôn giáo và các đau khổ sẽ xảy ra nếu nhân loại không biết
nghe theo lời Mẹ. Nhiều dữ kiện đã được ứng nghiệm và nếu không có sự cải thiện
canh tân thì nhiều điều bí mật làm rung động thế giới sẽ lộ diện. Vậy, ít nhất
là chúng ta hãy đón nhận những lời kêu mời khẩn thiết này! [Die Wunder von Fatima, của tác giả
Werner Forster]
2. Một hiện tượng lịch
sử
Ở đây cần ghi nhận một
biến cố, một hiện tượng quan trọng trong lịch sử nhân loại hiện đại. Ðồng thời
người ta cần tự hỏi: Phải chăng đây chỉ là một sự kiện lịch sử thuần tuý nhân
loại chứ không do sức mạnh siêu nhiên từ Trời Cao can thiệp? Phải chăng đây
không phải là một phép lạ Fatima?
Khi vào năm 1989/90,
bảy mươi hai năm sau lời Mẹ Maria tiên báo ở Fatima: “Nước Nga sẽ ăn năn trở
lại và trái tim Mẹ sẽ thắng” đã hoàn toàn ứng nghiệm. Toàn khối Liên Sô, trong
đó có nước Nga, đã trở lại. Ðảng cộng sản vô thần quá khích, chủ trương tiêu
diệt tôn giáo bằng các cuộc đàn áp đẫm máu ở Nga và các nước thuộc Liên Sô cũng
như ở các nước Ðông Âu đã hoàn toàn cáo chung, đã tự đào thải trước cao trào tự
do dân chủ tiến bộ của nhân loại ngày nay, trả lại cho các dân tộc liên hệ
những quyền tự do con người, đặc biệt các quyền tự do thuộc lãnh vực tinh thần,
như tự do tư tưởng, tự do lương tâm, tự do tôn giáo.
Hiện nay trên thế giới,
tuy còn 4 nước duy nhất vẫn áp dụng đường lối chính trị của đảng cộng sản, đó
là Trung Hoa Lục Ðịa, Việt Nam, Cuba và Bắc Hàn. Nhưng ngoài Bắc Hàn ra, ba
nước còn lại đã bắt đầu canh tân đổi mới, loại bỏ từ từ các hình thức cai trị
quá khích và lạc hậu buổi sơ khai.
Ðặc biệt nhất là trường
hợp Việt Nam, Nhà Nước cộng sản chẳng những bắt đầu đổi mới đường lối chính trị
trong nước mà còn mở cửa giao lưu với tất cả các nước tự do dân chủ trên khắp
thế giới, hội nhập vào đời sống văn minh tiến bộ của toàn thể nhân loại. Từ đầu
năm 1986 tới nay Nhà Nước đã từ từ loại bỏ chính sách “kinh tế bao cấp” hay “kinh
tế kế hoạch” khắt khe bảo thủ, do Nhà Nước qui định và áp dụng chính sách “kinh
tế thị trường” tự do, theo đúng phương thức “dân giàu nước mạnh”. Mọi người
công dân tương đối được hưởng các quyền tự do cơ bản, nhất là được tự do lựa
chọn và sống theo một tôn giáo thích hợp, đúng với lương tâm của mình. Chính
trong bộ dân luật của Nhà Nước XHCN Việt Nam công bố năm 1992, khoản 70 đã ghi
là mỗi người công dân đều được tự do tin theo một tôn giáo. “Vì tôn giáo chính
là nhu cầu tinh thần đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc”, như đã được ghi rõ trong
nghị quyết của hội nghị lần VII của Ban Chấp Hành Trung Ương đảng Cộng Sản Việt
Nam, khóa IX; hay, vì “tôn giáo là một yếu tố cơ bản của đời sống con người”,
như cựu tổng thư ký đảng cộng sản Liên Sô Michail Gorbatschow đã từng nhận
định. Giáo Hội Công Giáo luôn khẳng định quan điểm xã hội chân chính của mình
là một Nhà Nước văn minh dân chủ tự do không được phép lấy tôn giáo làm quan
điểm chính trị, hay nói đúng hơn, không được phép lấy một tôn giáo làm quốc
giáo và ép buộc mọi người dân phải chấp nhận tôn giáo đó, hay ngược lại, không
được phép chủ trương vô thần, đàn áp tôn giáo, kỳ thị và chia rẽ lương - giáo
giữa cộng đồng dân tộc mình. Một Nhà Nước tân tiến phải có đường lối trung lập
trong vấn đề tín ngưỡng, tôn trọng và tạo điều kiện cho mọi người dân có thể
sống và thực hành lòng tín ngưỡng của họ. Vào ngày 25.01.1998, trong bài giảng
tại thánh lễ ở thủ đô Havanna, nước Cuba cộng sản, trước sự hiện diện của chủ
tịch nước Fidel Castro và của hàng trăm ngàn người tham dự, Ðức Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II đã thẳng thắn tuyên bố: “Một Nhà Nước hiện đại không được phép
lấy chủ thuyết vô thần hay tôn giáo để làm quan điểm chính trị. Nhà Nước cần
tránh các chủ nghĩa quá khích và tục hóa cực đoan, đồng thời cổ võ một bầu
không khí hài hòa trong xã hội và một luật pháp hợp lý, hầu cho mỗi cá nhân
cũng như mỗi cộng đồng tôn giáo có thể tự do sống đạo và hành đạo cách công
khai” [Ðức Gioan Phaolô II, Lương Tâm Nhân Loại, bản dịch của Lm. Nguyễn
Hữu Thy, 2005, trang 116]. Bởi vì “sự hạn chế quyền tự do tôn giáo của các cá
nhân cũng như của các cộng đồng chắc hẳn không chỉ là một kinh nghiệm đau
thương, nhưng còn chạm đến nhân phẩm con người nói chung, độc lập với tôn giáo.
Sự hạn chế quyền tự do tôn giáo và sự xúc phạm đến quyền tự do tôn giáo là đi
ngược lại phẩm giá và các quyền lợi khách quan của con người” [Lương Tâm
Nhân Loại, trang 54].
Thật vậy, tâm thức tín
ngưỡng hay sự thâm tín tôn giáo của con người không những là “yếu tố cơ bản” đã
ăn rễ sâu vào tâm khảm con người, hướng dẫn lương tri và cả cuộc sống con
người, nhưng còn là chính đời sống tinh thần con người, như dòng huyết quản lưu
chảy và nuôi sống cơ thể con người vậy. Niềm tin tôn giáo có tính cách nội tại
chứ không mang tính cách ngoại tại như một ý thức hệ, một quan điểm triết học,
xã hội hay chính trị. Trong đức tin Kitô giáo, câu hỏi được đặt ra không còn
phải là 'hữu' hay 'vô hữu' như trong lãnh vực triết học, xã hội, chính trị hay
văn hóa, nhưng là chấp nhận và tìm hiểu cái 'hữu' khách quan, nằm ngoài tầm
kiểm soát của trí năng con người. Nói cách khác, mục đích hay đối tượng của
thần học Kitô Giáo không phải là luận bàn về có hay không có Thiên Chúa, nhưng
là tìm hiểu các chân lý minh nhiên về Thiên Chúa, để sự xác tín về sự hiện hữu
của Người thêm vững mạnh hơn. Vì không một ai có thể phủ nhận được sự hiện hữu
của Thiên Chúa Tạo Hóa, Ðấng Toàn Năng tuyệt đối, nếu không muốn đi ngược lại
lương tri và trí năng của mình. Một người có trí năng lành mạnh và khách quan,
bao giờ cũng nhận ra được sự hiện hữu của Thiên Chúa, mặc dù mọi phạm trù luận
lý của nhân loại hoàn toàn bất lực không thể giải thích trọn vẹn được bản thể
của Người.
Bởi vậy, con người có
thể làm áp lực để thay đổi được một nhân sinh quan, một hệ thống chính trị hay
một ý thức hệ, nhưng không bao giờ có thể loại bỏ được niềm tin vào Thiên Chúa
nơi lòng người. Người ta có thể ngạo mạn phủ nhận hay chối từ Thiên Chúa, nhưng
người ta không thể khai tử hay loại bỏ được sự hiện hữu của Thiên Chúa, không
thể xóa bỏ được niềm tin của lòng người vào Thiên Chúa. Máu của 130,000 Kitô
hữu đã nhuộm đỏ ba miền đất nước Việt Nam trong bao thế kỷ qua là một minh
chứng hùng hồn cho sự khẳng định đó. Những Kitô hữu can trường đó thà chết chứ
không thể chối bỏ một sự thật khách quan hiển nhiên: Sự hiện hữu và tình yêu vô
biên của Thiên Chúa, Ðấng đã dựng nên con người và vũ trụ muôn vật. Do đó, Kinh
Thánh đã khẳng định: “Phúc cho dân tộc nào có Thiên Chúa làm Chúa mình và phúc
cho quốc gia nào được Người chọn làm gia nghiệp” (Tv 33,12). Họ có được Giáo Lý
của Người soi sáng hướng dẫn hầu trước hết là biết “úy Thiên mệnh”, biết kính
sợ Thượng Ý của Chúa và tiếp đến là biết tôn trọng nhân vị và phẩm giá của đồng
loại với tất cả các quyền tự do căn bản của họ, vì mỗi người đã được dựng nên
giống Thiên Chúa và mang trong mình hình ảnh của Người (x. St 1,26-27), và là
con Thiên Chúa (x. Mt 5,45; Lc 11,2-4; Ga 20,17b). Ngược lại, khốn thay cho dân
tộc nào chối bỏ Thiên Chúa, bắt bớ và sát hại các tín hữu của Người! Họ là
những kẻ sống trong đêm tối của vô tri, không có ánh sáng của lương tri ngay
chính phát xuất từ Thiên Chúa dẫn đường chỉ lối. Vì thế họ đã xúc phạm đến Ðấng
Toàn Năng và chà đạp các quyền tự do cơ bản và chính đáng nhất của đồng loại.
Và hậu quả đương nhiên là họ sẽ không thể thoát khỏi án phạt nghiêm minh của
Thiên Chúa. Lời công bố long trọng của Ðức Kitô, Quan Án chí công, không chỉ có
giá trị cho từng người mà còn cho từng xã hội và cho từng dân tộc: “Ai tin vào
Phúc Âm và chịu Phép Rửa, sẽ được cứu rỗi. Còn ai không tin, thì sẽ bị luận
phạt” (Mc 16,16).
Bởi vì con người không
chỉ được sinh ra, lớn lên, rồi chết là hết như các tạo vật khác, nhưng sau khi
từ giã cõi đời này để bước vào cuộc sống vĩnh hằng, tất cả mọi người không phân
biệt giai cấp thứ bậc, không phân biệt tín ngưỡng, có tin ngưỡng hay vô tín
ngưỡng, đếu phải ra đứng trước tòa Thiên Chúa để trả lẽ về cuộc sống trần thế
đã qua của mình, về các phúc tội đã làm đối với nhân loại (x. Mt 25,31 - 46),
hầu để được trọng thưởng hay bị luận phạt muôn kiếp, vì trước mặt Thượng Ðế mọi
người đều bình đẳng, đúng như lời đức Khổng Tử dạy: “Hoàng Thiên vô thân, duy
đức thị thụ: Thượng Ðế không thân riêng ai, chỉ kẻ có đức là Trời giúp”, hay: “Duy
Thiên vô thân, khắc kính duy thân: Trời không thân riêng ai, chỉ thân với người
hay kính” (Kinh Thư). Vì thế, “tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhất thi giai dĩ
tu thân vi bản: từ Vua cho đến người dân, ai ai cũng phải lấy sự sửa mình làm
gốc” (Ðại Học). Nhất là sự minh xét của Thiên Chúa không hề bị ảnh hưởng bởi sự
đồng tình hay phản đối của người đời. Những gì người đời đề cao có thể trước
mặt Thiên Chúa lại không có giá trị, trái lại những gì con người kết án lại có
thể là điều công chính trước mặt Thiên Chúa. Bởi lẽ “con người chỉ đoán xét
theo những điều họ thấy trước mắt, còn Thiên Chúa lại thấu suốt lòng dạ con
người” (1Sam 16,7b) vì “lòng mỗi người, chính Chúa dựng nên và những việc họ
làm Người đều thông suốt cả” (Tv 33,15). Con người chỉ có thể lừa gạt được đồng
loại, còn trước mặt Thiên Chúa mọi hành vi và tư tưởng tốt xấu của mỗi người
đều được vạch trần và được phân xét một cách công minh.
Ðàng khác, nếu con
người có tâm thức tín ngưỡng và tin theo một tôn giáo để biết “ăn ngay ở lành”,
xét theo phương diện tinh thần và luân lý là một điều tốt, nhưng chưa đủ. Con
người còn phải biết tìm hiểu và tin đúng “Chánh Ðạo” nữa. Nói cách khác, con
người không chỉ lo sống đức hạnh, lo ăn ngay ở lành, nhưng trước hết còn phải
biết tôn thờ và cảm tạ Thiên Chúa, Ðấng Tối Cao duy nhất đã dựng nên mình và cả
vũ trụ cùng với muôn vật, hữu hình và vô hình. Hầu tránh được cảnh tượng thương
tâm như người ta thường nói là “mồ cha không khóc, đi khóc tổ mối”, Ðấng Tạo
Hóa, Chúa Tể càn khôn thì không tôn thờ, nhưng lại chạy theo cúng bái thờ lạy
các thần nhân là các tạo vật do chính bàn tay Chúa dựng nên. Trong khi đó, Ðạo
Công Giáo, một tôn giáo đã được chính Ðức Kitô, Thiên Chúa Nhập Thể, sáng lập
dựa trên nền tảng Phúc Âm Tình Thương của Người, dạy cho con người biết “sự
thiên và ái nhân”, biết thờ kính Thiên Chúa và yêu mến tha nhân như chính mình.
Hơn thế nữa, Ðạo Công Giáo không những dạy cho con người nhận biết và tôn thờ
Thiên Chúa, Ðấng Tạo Hóa toàn năng, và là nguồn mọi chân thiện mỹ tuyệt đối,
nhưng còn chỉ cho con người biết Người là Cha Chung Nhân Từ của toàn thể nhân
loại và tất cả mọi người là anh em với nhau, không phân biệt màu da, chủng tộc,
tín ngưỡng, vô thần hay hữu thần. Vì thế, một người công giáo thâm tín đích
thực luôn dành chổ đứng cho hết mọi người trong thẩm cung tình yêu của mình,
chứ không hề coi bất cứ ai là kẻ thù “bất cộng đái thiên” hoặc loại trừ bất cứ
ai. Vâng, Thiên Chúa là tình yêu nên các con cái Chúa cũng phải sống trong tình
yêu và đem san sẻ tình yêu đó cho hết mọi anh em đồng loại của mình. “Các con
hãy thương yêu nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15,12), lời nhắn nhủ
đầy tâm huyết của Ðức Kitô vẫn luôn ghi đậm mãi trong tâm thức của mỗi kitô
hữu.
Nói tóm lại, qua Sứ
điệp của Ðức Maria và các phép lạ Fatima, Thiên Chúa muốn nói cho nhân loại
biết rằng Người vẫn luôn hiện diện và đồng hành với họ, nhất là Người hằng yêu
thương họ và muốn chỉ cho họ con đường dẫn tới sự sống chân thật.
(Trích trong: Lm Nguyễn
Hữu Thy, Ðức Maria trong Kinh Nguyện Giáo
Hội, Trier 2006, trang 219-238)
LM Nguyễn Hữu Thy
Nguồn tin: www.catholic.org.tw