Legio Mariæ Trong Thế Giới
Ngày Nay
Cách đây nhiều
năm, trước Công đồng Vatican II, đã có nhiều lời chỉ trích, cáo buộc Legio
Mariæ là quá tân thời, quá cách mạng, trong hệ thống huấn luyện các nam nữ giáo
dân tham gia nhiều hoạt động tông đồ cùng với các Linh mục và giúp đỡ các Linh
mục quản xứ.
Legio
Mariæ rất nổi bật trong thời kỳ đó, và có những người nghi ngờ rằng tông đồ
giáo dân đã xâm nhập bừa bãi vào lãnh vực mục vụ chăm sóc các linh hồn, vốn là
một lãnh vực vào thời đó thuộc về bổn phận của các Linh mục.
Bây
giờ thì lạ thay, sau Công đồng Vatican II, lại có những lời chỉ trích rằng
Legio Mariæ không đủ hiện đại; Legio Mariæ vẫn còn quá lỗi thời; và phải được cập
nhật để bắt kịp với tinh thần của Công đồng Vatican II.
Những
lời chỉ trích Legio Mariæ hiện thời đặt nền tảng trên một sự nhận thức rằng
Legio Mariæ làm cho các hội viên thấm nhiễm một lòng sùng kính Đức Mẹ Ma-ri-a
sâu sắc và mạnh mẽ thúc giục họ dẫn đưa những người không thuộc Giáo hội trở về
với Giáo hội Công giáo, và đặt nền tảng trên những giả định sai lạc rằng Công đồng
Vatican II không muốn nhấn mạnh tới lòng sùng kính Mẹ Ma-ri-a và muốn đẩy phong
trào đại kết thay thế cho tinh thần tông đồ đi hoán cải tha nhân.
HỘI LEGIO MARIÆ KHÔNG LỖI THỜI
Với
những ai hiểu biết về Công đồng Vatican II, thì quả rõ ràng Legio Mariæ không hề
lỗi thời, điều này thể hiện qua những quyết định của Công đồng. Thực thế, nhiều
Giám mục tham dự Công đồng đã nhìn nhận Legio Mariæ là mẫu hình lý tưởng của việc
giáo dân tham gia vào sứ mạng của Giáo hội trong thế giới hiện đại này. Nhiều
Giám mục nhìn nhận Legio Mariæ có vai trò quan trọng trong thời đại chúng ta,
điển hình trong số đó, có Giám mục John McEleney của Jamaica. Các vị đã khởi xướngLegio Mariæ trong giáo phận của
mình ngay khi trở về sau phiên họp khoáng đại cuối cùng của Công đồng Vatican
II. Hành động này sẽ hóa ra ngớ ngẩn nếu như các vị cho rằng Legio Mariæ đã lỗi thời
rồi.
Đức
Hồng y Krol, vị phụ tá thư ký của Công đồng Vatican II, biết rõ suy nghĩ của
các nghị phụ Công đồng, nhận thấy Legio Mariæ là một đoàn thể “có sứ mạng tông đồ đích thực và hoàn toàn
phù hợp với các sắc lệnh cũng như tinh thần của Công đồng chung Vatican II.”
Đức
Hồng y Suenens, đã phát biểu ở Rô-ma trong lúc Công đồng đang họp, rằng Legio Mariæ thực sự đã tham dự
Công đồng Vatican II theo nhiều cách khác nhau. Thật vậy, chúng ta có thể thấy
rằng Ủy ban thành lập Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân đã tham khảo Thủ Bản của Legio Mariæ. Trong Sắc
lệnh ấy, hội viên Legio Mariæ có thể thấy rằng nhiều ý tưởng, và đôi khi, cả những ngôn từ
nữa lặp lại từ Thủ Bản của Legio Mariæ.
Ngày 6 tháng 1 năm 1965, Đức giáo hoàng
Phao-lô VI gởi đến ngài Frank Duff, Đấng sáng lập Legio Mariæ, một lá thư tán dương và khích lệ tất cả các thành viên của Legio Mariæ. Xin dẫn một lời tán dương đặc biệt được trích từ lá thư
này: “Dẫu cho tinh thần của Legio Mariæ được hấp thụ dưỡng chất phong phú từ đời sống
nội tâm mạnh mẽ, từ việc tuân giữ kỷ luật, từ sự tận hiến vì ơn cứu độ của tha
nhân, từ lòng trung thành tuyệt đối với Giáo hội, thì tinh thần ấy vẫn trở
thành một đặc tính chuyên biệt của Legio Mariæ nhờ lòng vững vàng tin tưởng vào hành động của
Đức Nữ Trinh diễm phúc” [Thủ Bản –
Phụ Lục (TB- PL) 1,572].
Đối
với Đức Phao-lô VI, Legio Mariæ có tầm quan trọng trong những ngày họp Công đồng.
Nhận
được lời khuyên từ các Vị Linh giám rằng Legio Mariæ cần có sự đổi mới để
thăng tiến theo đường hướng của Công đồng Vatican II, thì ngài Frank Duff,
chính ngài cũng là một dự thính viên giáo dân ở Công đồng Vatican II, đã bắt đầu
nghiên cứu rất cẩn thận các tài liệu của Công đồng, để tìm hiểu xem hệ thống tổ
chức Legio Mariæ có nên thay đổi hay
không và thay đổi như thế nào. Cùng lúc đó, ngài Frank Duff đã gởi cho Đức giáo
hoàng Phao-lô VI một bản sao Thủ Bản bằng Anh ngữ, kèm với một quyển nhật ký,
trình bày chi tiết những điểm thay đổi lớn củaLegio Mariæ, qua sự hướng dẫn của
các vị Linh giám ở trong và ngoài Legio Mariæ. Ngài Frunk Duff xin Đức Thánh Cha thêm lời chỉ
bảo cho Legio Mariæ trong vấn đề
này.
Qua
Vị Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, Đức Phao-lô VI đã đáp lại lời thỉnh cầu này vào
ngày 2 tháng 6 năm 1966. Thư hồi đáp như sau: “Xin kính gởi Legio Mariæ, với thẩm
quyền Giáo hoàng tối cao, tôi khẳng định chắc chắn với Legio Mariæ rằng tôi không có dự
định thay đổi những điểm trình bày ở đây, ít nhất trong một tương lai có thể dự
đoán được. Tôi tin rằng thông tin này sẽ rất có giá trị và là sự an ủi cho Legio Mariæ cũng như cho các đồng
sự.”
Đây
là niềm an ủi và đảm bảo cho chúng ta, các hội viên Legio Mariæ, rằng Legio Mariæ thực sự là điều mà Đức
giáo hoàng Phao-lô VI mong muốn; và đúng là Công đồng Vatican II ước mong có một
tổ chức tông đồ giáo dân như thế.
VẪN
CÓ NHỮNG NHU CẦU THAY ĐỔI TRONG LEGIO MARIÆ
Tuy
nhiên, Legio Mariæ vẫn có những nhu cầu
phải cải tiến, thay đổi triệt để, mang một cái nhìn mới, qua sự góp ý đặc biệt
của các Linh mục, mà nhiều Vị trong số đó là Linh giám của Legio Mariæ.
Một
vài Linh mục đề nghị phải có những thay đổi chỉ vì thay đổi, vốn là điều tự
thân (nội tại) phải làm trong thời đại hiện nay; Những vị khác, với tình yêu mến
thực sự với Legio Mariæ, đề nghị Legio Mariæ có những thay đổi –
Các vị tin rằng nếu đề nghị được thực hiện, thì Legio Mariæ sẽ thu hút được rất
nhiều người, đặc biệt là các bạn trẻ.
Khi
nghiên cứu những đề nghị thay đổi này, chúng ta thấy quá rõ rằng có vài đề nghị
thay đổi là chuyện rất nhỏ, nhưng cũng có những điều lại rất triệt để, làm ảnh
hưởng đến cấu trúc toàn thể của Legio Mariæ, và nếu tuân theo, sẽ tạo ra một tổ chức mới
không còn phải là Legio Mariæ nữa; sẽ không còn là Legio Mariæ như được hình dung bởi
Đấng sáng lập và được chấp thuận bởi các Đức giáo hoàng cũng như các Giám mục
trên toàn thế giới.
NHỮNG
THAY ĐỔI DIỄN RA TRONG LEGIO MARIÆ
Vì Legio Mariæ là một tổ chức sống động,
nên có thể hiểu rằng những thay đổi nhỏ vẫn luôn diễn ra. Trong thời gian gần
đây, những hoạt động tông đồ mới đã được thử nghiệm và được sáp nhập vào hệ thống,
vào Thủ Bản của Legio Mariæ, ví dụ,
chương trình “Lên đường vì Chúa Ki-tô”, “Cư dân của Mẹ Ma-ri-a”; “Tìm hiểu về
Thiên Chúa”; và “Lòng nhiệt thành đích thực đối với Quốc gia”. Ấn bản mới nhất
của Thủ Bản phản ánh khá nhiều những thay đổi này khi trình bày những đổi mới về
các lời kinh trong các giờ cầu nguyện của Legio Mariæ, rồi những
đổi mới về bản chất của mối liên đới với các thành viên tán trợ, và đổi mới qua
việc sẽ loại bỏ, không trao tặng bằng khen cho các thành viên Legio Mariæ.
Nhưng
không có đổi mới nào làm thay đổi hệ thống tổ chức căn bản của Legio Mariæ, cũng
không làm thay đổi những nguyên lý cốt yếu và linh đạo được đề ra trong Thủ Bản.
Nhiều
thay đổi đã diễn ra và có thể diễn ra trong Legio Mariæ. Các phê
bình về Legio Mariæ có thể được đảm bào rằng
các đề nghị của họ về thay đổi, nêu được đưa ra một cách nghiêm túc thông qua
các nguồn chính thức, sẽ được nghiên cứu cách cẩn thận ở Hội đồng Concilium
trung ương tại Dublin Ireland. Nếu những kiến nghị được xem xét rộng rãi chúng
sẽ được đưa ra một cách dân chủ để tất cả các cấp Hội đồng trên thế giới nêu
lên ý kiến của họ.
VÀI
THAY ĐỔI ĐƯỢC ĐỀ NGHỊ
Có
những thay đổi nào đã được đề nghị để thăng tiến Legio Mariæ?
Thủ
Bản được xuất bản ở Mỹ. Ở Mỹ, có một nhu cầu thường được lặp lại rằng nên có một Ấn
bản của Thủ Bản Legio Mariæ tại đây. Vài người ý
kiến: phiên bản mới này không cần thay đổi nhiều nguyên tắc trong hệ thống Legio Mariæ, nhưng sẽ
trình bày những ý tưởng tương tự theo hình thức bản địa thời hiện đại, và như
thế sẽ dễ hiểu hơn, đặc biệt đối với các hội viên trẻ.
Thỉnh
cầu này dường như rất hợp lý, nhưng đó luôn là ý kiến của những người chưa bao
giờ biết đến một bản viết tay (bản thảo) cho một ấn bản Thủ Bản Anh ngữ. Những
lời góp ý này được đưa ra dưới hình thức một lời phàn nàn, và người ta mong chờ
công việc được thực hiện bởi những người vui lòng với một xuất bản bằng Anh ngữ
hiện đại. Bất cứ bản thảo nào đưa ra qua những lời góp ý như thế đều sẽ được
các các cấp Hội đồng xem xét cẩn thận.
Tuy
nhiên, Thủ Bản Legio Mariæ ngày càng được chấp
nhận như là một tác phẩm linh đạo kinh điển không cần “dịch lại,” giống như tác
phẩm Anh ngữ của Shakespeare không cần thay đổi cho các độc giả ở Mỹ. Người ta
thường bình luận rằng Thủ Bản được soạn thảo duy bởi một người Ai Len trong thập
niên năm 1920, và rằng các thành viên Legio Mariæ bắt buộc phải tuân theo kể từ đó.
Thực
ra Thủ Bản Legio Mariæ đầu tiên ra đời vào
cuối thập niên 1920, ít người nhận ra Thủ Bản đã phát triển từ một quyển sách
khá mỏng tới một kích cỡ đầy 300 trang giấy in như bây giờ.
Cần
biết rằng Thủ Bản Legio Mariæ là một sưu tập các phương pháp, các tác phẩm và các lý tưởng,
chỉ được ghi chép lại cách chính thức sau khi đã kiểm tra ở nhiều nơi và được
chấp thuận.
Legio
Mariæ đã sống và hoạt động
trước khi được viết vào sách. Thủ Bản của Legio Mariæ sẽ chẳng bao giờ là
hoàn toàn “lỗi thời, phải cập nhật”, vì nhiều tác phẩm và phương pháp được thử
nghiệm hôm nay, chưa được gồm tóm vào trong ấn bản hiện tại.
NHỮNG
ĐỀ NGHỊ THAY ĐỔI KHÁC
Còn
những kiến nghị đổi mới Legio Mariæ nào khác nữa? Chúng được nhóm vào bốn chủ đề chính sau
đây:
1. Trong thời buổi tự do
này, hệ thống Legio Mariæ quá cứng nhắc. Điều lệ
của Legio Mariæ không giữ một tinh thần
tự do cá nhân như hướng dẫn của Công đồng Vatican II. Do đó, Legio Mariæ không nên tuân thủ
các luật lệ của mình cách sơ cứng. Thay vì một ít người gặp gỡ hàng tuần, hãy
cho phép họ tham dự buổi họp mỗi hai, ba, hoặc bốn tuần một lần; mỗi hội viên
không nên bị ép buộc phải hoạt động căn bản hai giờ mỗi tuần, nhưng nên để họ tự
do thực hiện điều mình cảm thấy muốn làm; thay vì bắt buộc phải làm việc theo
nhóm, các hội viên có thể tự do làm việc một mình khi họ muốn; Các hội viên tùy
ý đọc thuộc bất cứ một lời nguyện nào họ muốn trong khi họp mặt, thay vì cứ buộc
phải đọc thuộc những lời kinh nguyện có sẵn của Legio Mariæ. Không
nên có một Legio Mariæ nhấn mạnh cộng tác
làm việc với các Đấng phẩm trật Hội Thánh và vâng phục tuyệt đối.
2. Lòng sùng mộ Đức Mẹ
Ma-ri-a sâu sắc mà Legio Mariæ khắc ghi vào trong các hội viên không tương hợp với tinh thần
của Công đồng Vatican II. Thay vì kinh Mân Côi buộc phải đọc trong mỗi buổi hội
họp Legio Mariæ, nên có
những lời Kinh nguyện khác (phổ biến thích hợp hơn), hoặc ít nhất chuỗi Mân Côi
nên được cắt giảm xuống còn khoảng một chục mà thôi. Các lời kinh nguyện và các
phần trong Thủ Bản đề cập đến Đức Mẹ Ma-ri-a như là Đấng trung gian của tất cả
ân sủng nên được bỏ đi. Việc thực hành lòng sùng mộ đích thực đối với Đức Mẹ
Ma-ri-a của thánh Montfort không nên được khuyến khích, và việc mô tả lòng sùng
mộ ấy trong Thủ Bản nên xóa bỏ đi.
3. Các hội viên Legio Mariæ nên hướng tới tinh thần
đại kết và ít quan tâm đến hoạt động tông đồ hoán cải. Trong thời đại cổ súy
phong trào đại kết, vốn là kết quả của Công đồng Vatican II, Legio Mariæ nên thay đổi giọng điệu
mang tính quân đội, thậm chí thay đổi cả danh xưng của Legio Mariæ.
4. Dưới Ánh sáng của
Công đồng Vatican II Legio Mariæ nên ngày càng quan tâm nhiều hơn đến các hoạt động tông đồ
xã hội và phong trào quyền công dân.
HỒI
ĐÁP BỐN GÓP Ý DÀNH CHO LEGIO MARIÆ
1. Giải đáp cho những góp ý thuộc nhóm thứ nhất chúng ta có thể
hỏi: liệu rằng những điều lệ cứng nhắc của Legio Mariætương hợp
với tinh thần của Công đồng Vatican II? Theo tinh thần tự do cá nhân thời hiện
đại, Legio Mariæ có nên kiên quyết
tuân giữ các điều lệ của mình?
Ban
quản trị các cấp Hội đồng trong Hệ thống Legio Mariæ, những
người hướng dẫn vận mạng của Legio Mariæ, tất cả đều là giáo dân – không cảm thấy rằng
Công đồng Vatican II giới thiệu một tinh thần tự do cá nhân đến nỗi loại bỏ đi
tất cả các mối ràng buộc. Họ không cảm thấy rằng Công đồng muốn hạn chế những
quy định trong các nhóm tông đồ. Họ biết rằng các nghị phụ Công đồng ước mong
các nhóm tông đồ giáo dân tổ chức và vận hành đoàn thể riêng của mình, điều này
không có nghĩa là cho phép bãi bỏ các luật lệ và nội quy trong các đoàn thể của
họ.
Khi
đọc thấy trong Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân những lời như sau: “Các đoàn thể hay hiệp
đoàn giáo dân…. phải luôn quan tâm và hỗ trợ cho việc đào tạo tông đồ theo những
cách thế phù hợp với tôn chỉ và phương thức hoạt động riêng của mình,”(VI, 30), thì các
viên chức giáo dân hiểu ý định của các nghị phụ là Legio Mariæ nên giữ gìn cẩn thận
và cần mẫn tuân thủ chương trình đào tạo tông đồ cho các hội viên.
Thực
thế, bí mật thành công của Legio Mariæ (và thành công mà Legio Mariæ đã đạt được trên toàn thế giới) là sự kiên trì tuân giữ các
buổi họp mặt hàng tuần và các họat động tông đồ căn bản hàng tuần. Một cuộc họp
mặt hàng tuần nâng cao tinh thần của các thành viên và đảm bảo cho việc thi
hành các bổn phận tông đồ hàng tuần. Những đoàn thể cố gắng thực hành các hoạt
động tông đồ với cuộc họp hàng tháng, đều có những thiếu sót, bởi vì trong khoảng
thời gian một tháng mối bận tâm cũng như tinh thần hoạt động có thể xuống cấp
và chết lịm. Điều này đặc biệt chuẩn xác nếu như hình thức và tổng khối công việc
bị bỏ lại đối với tự do của một cá nhân. Sự kiên trì làm việc theo cặp-đôi có
thể chắc chắn rằng công việc sẽ được thực hiện và thực hiện tốt, đồng thời hội
viên này có thể khích lệ và trợ giúp cho người kia thi hành sứ mạng.
Đề
nghị thay đổi trong những giờ nguyện của Legio Mariæ và thay đổi việc đọc
thuộc kinh Mân Côi là một điều lạ thường về phía các Linh mục, đối với lòng
sùng mộ Đức Mẹ Ma-ri-a, đề nghị này sẽ được thảo luận sau.
Một
vài Linh mục lầm lẫn đã phê bình Legio Mariæ về sự kiên quyết cộng tác hoàn toàn và vâng phục tuyệt đối
với hàng giáo phẩm, mặc dầu điều này không phải là điều Công đồng Vatican II muốn.
Những người chỉ trích Legio Mariæ không thực hiện nhiều tự do cá nhân trong mối tương quan với
thẩm quyền giáo huấn của Giáo hội, đã không đọc tài liệu Công đồng cẩn thận. Nếu
đã đọc sắc lệnh Tông đồ Giáo dân thì họ sẽ biết rằng Công đồng Vatican muốn tất
cả tông đồ giáo dân“phải luôn làm việc dưới sự điều hành của hàng Giáo phẩm” (IV, 20).
Đức
Phao-lô VI, trong lá thư gởi cho ngài Frank Duff, có lời tán dương đặc biệt về điều lệ và “lòng
trung thành tuyệt đối với Giáo hội” của Legio Mariæ.
ĐẠO
LÝ VỀ ĐỨC MẸ MA-RI-A CỦA LEGIO MARIÆ KHÔNG TƯƠNG HỢP VỚI CHỈ DẪN CỦA CÔNG ĐỒNG VATICAN II?
2. Nói rằng Legio Mariæ khắc ghi vào các hội
viên một lòng sùng mộ Đức Mẹ Ma-ri-a không tương hợp với tinh thần của Công đồng
là chứng tỏ một sự không hiểu biết về đạo lý lòng sùng mộ Đức Mẹ Ma-ri-a của Legio Mariæ cũng như của Công đồng.
Ai đó phản bác thần học về Đức Mẹ Ma-ri-a của Legio Mariæ cũng mắc vào một sự
thật rằng anh ta bị lừa bịp bởi những tiêu đề thông tin sau năm 1963 nói rằng
Công đồng hạ thấp Đức Mẹ Ma-ri-a. Một lý do khác cho sự phản đối giáo huấn về Đức
Mẹ Ma-ri-a của Legio Mariæ là phong trào đại kết
được Công đồng Vatican II nhấn mạnh, đòi hỏi làm dịu đi đạo lý về Đức Mẹ
Ma-ri-a cũng như lòng sùng mộ Đức Mẹ.
Nhưng
có đúng là lòng sùng mộ Đức Mẹ Ma-ri-a của Legio Mariæ (ví dụ kinh Mân Côi
trong tất cả các cuộc họp) đi ngược lại hướng dẫn và tinh thần của Công đồng?
Có đúng là Công đồng giảm nhẹ vai trò của Đức Mẹ Ma-ri-a không? Có đúng là Công
đồng không muốn chúng ta đọc kinh Mân Côi? Có đúng là phong trào đại kết đòi phải
loại bỏ Đức Mẹ Ma-ri-a?
Chúng
ta cùng tìm hiểu sự thật về những điểm này; cùng kiểm tra lại tài liệu; cùng đến
với dữ liệu của Công đồng. Công đồng nói gì về Đức Mẹ Ma-ri-a?
Công
Đồng có nhấn mạnh đạo lý về Đức Mẹ Ma-ri-a hay không?
Trong
chương 8 của hiến chế Tín lý Giáo hội, các nghị phụ cho chúng ta một tái khẳng
định mạnh mẽ về đạo lý Đức Mẹ Ma-ri-a truyền thống, vì họ tán dương Đức Mẹ
Ma-ri-a vô nhiễm nguyên tội, Mẹ rất thánh, Mẹ sinh con mà vẫn khiết trinh, Mẹ đồng
trinh trọn đời, Mẹ cộng tác với Chúa Con trong công trình cứu chuộc, Mẹ hồn xác
lên trời và Mẹ được tôn phong là Nữ Vương Thiên Đàng.
Đúng
là Công đồng không xác định bất cứ một tín điều mới nào về Đức Mẹ Ma-ri-a, ví dụ
“Đấng trung gian của mọi ân sủng”, nhưng cũng không phản bác bất cứ một giáo huấn
nào về Đức Mẹ Ma-ri-a được nổi bật bởi các trường phái tư tưởng Công giáo, ví dụ,
“Lòng sùng mộ đích thực đối với Đức Trinh Nữ” của thánh De Montfort. Thực vậy
các nghị phụ không có ý định công bố bất cứ một tín điều nổi bật nào nữa, và
nói với chúng ta rằng Công đồng “không có ý đưa ra một học thuyết đầy đủ về Đức Mẹ Ma-ri-a,
cũng không có ý giải quyết các vấn đề chưa được sáng tỏ trọn vẹn trong việc
nghiên cứu của các nhà thần học. Vì thế, được phép giữ những ý kiến đang được tự
do trình bày trong các trường phái Công giáo về Đấng có địa vị cao cả nhất
trong Hội Thánh sau Chúa Ki-tô và cũng là Đấng rất gần gũi với chúng ta” (Hiến chế tín lý Giáo
hội, VIII, 54).
Mặc
dầu các nghị phụ không xác định đạo lý Đức Mẹ Ma-ri-a là Đấng trung gian mọi ân
sủng, nhưng giải thích rằng Đức Mẹ Ma-ri-a diễm phúc luôn được Giáo hội khẩn cầu
dưới tước hiệu Đấng trung gian (Hiến chế tín lý Giáo
hội, VIII, 62).
Phải
chăng Công đồng ít chú trọng đến Lòng Sùng mộ Đức Mẹ Ma-ri-a?
Chắc
chắn các nghị phụ chủ ý ít chú trọng đến đạo lý về Đức Mẹ Ma-ri-a, nhưng phải
chăng các vị không muốn nhấn mạnh đến lòng sùng kính đối với Đức Mẹ Ma-ri-a? Phải
chăng các vị muốn chúng ta không tiếp tục các hành vi đạo đức như việc đọc kinh
Mân Côi? Chúng ta hãy cùng nghe lời của các Vị Giám mục về chủ đề này:
“Thánh Công đồng minh nhiên truyền dạy điểm giáo lý Công giáo này (về
lòng tôn kính Đức Mẹ Ma-ri-a), đồng thời khuyến khích tất cả con cái Giáo hội
hãy nhiệt tâm phát huy lòng sùng kính Đức Trinh Nữ, nhất là trong Phụng vụ, hãy
coi trọng những việc thực hành và việc đạo đức tôn kính ngài đã được huấn quyền
cổ vũ qua các thế kỷ, cũng như hãy thành tâm tuân giữ các quyết định trước đây
liên quan đến việc tôn kính ảnh tượng Đức Ki-tô, Đức Trinh Nữ và các thánh” (VIII, 67).
Đức
Phao-lô VI trong tông huấn Mẹ Chúa Ki-tô vào ngày 15 tháng 9 năm 1966, (tông huấn gắn với việc đọc
kinh Mân Côi trong việc tôn kính Mẹ Chúa Ki-tô) nói với chúng ta rằng, mặc dầu
các Nghị phụ không đề cập cách đặc biệt việc lần chuỗi Mân Côi, nhưng đây là điều
họ đã có trong ý định khi nói rằng lòng sùng mộ Đức Mẹ Ma-ri-a nên được coi trọng
và được tổ chức với cách thế long trọng. Ở đây có những lời của Đức Phao-lô VI: “Công đồng Vatican
khuyên nhủ mọi tín hữu đọc kinh Mân Côi, không phải bằng một ngôn từ rõ ràng
nhưng bằng một lối diễn tả không thể hiểu khác được – chúng ta hãy quý trọng những
thực hành và hoạt động đạo đức hướng tới Đức Nữ trinh diễm phúc và được quyền
giáo huấn của Hội Thánh phê chuẩn qua hàng thế kỷ.”
Từ
việc giải thích chính thức này về tài liệu của Công đồng, chúng ta thấy rõ rằng
Công đồng Vatican II muốn chúng ta đọc kinh Mân Côi. Vì vậy, trong chủ đề về
lòng sùng mộ Đức Mẹ Ma-ri-a, quả thực các Nghị phụ khuyến khích tất cả chúng ta
thực hành lòng đạo đức tôn kính Đức Mẹ, đặc biệt là đọc kinh Mân côi, Hiệp hội
đạo đức kính mến Mẹ, Rước kiệu tháng Năm, và những việc tương tự. Không có tài liệu nào
của Công đồng mà các Giám mục nói với chúng ta hãy giảm bớt lòng sùng kính Đức
Mẹ Ma-ri-a.
PHONG TRÀO ĐẠI KẾT VÀ
ĐỨC MẸ MA-RI-A
Hội Legio Mariæ có nên giảm bớt lòng
tôn kính Đức Mẹ Ma-ri-a vì lý do đại kết hay không? Công đồng có chủ trương như
thế không?
Khi
Đức Phao-lô VI, ngày 21 tháng 11 năm 1964, công bố Đức Ma-ri-a là Mẹ Giáo hội,
các Nghị phụ vỗ tay ủng hộ hết lòng. Nhiều thần học gia chủ trương đại kết đã
không hài lòng với tuyên bố này của các Nghị phụ. Họ cảm thấy rằng điều đó có hại
cho phong trào đại kết. Họ cảm thấy rằng phong trào đại kết đòi hỏi chúng ta ít
đề cập đến Đức Mẹ Ma-ri-a, đặc biệt đối với việc tôn vinh Mẹ, để các cuộc đối
thoại của chúng ta với các anh em ly khai sẽ giảm bớt căng thẳng và đạt nhiều
hiệu quả lâu dài.
Nhưng
liệu có đúng thực rằng trong cuộc đối thoại đại kết chúng ta nên ít đề cập đến
Đức Mẹ Ma-ri-a, đặc biệt nếu muốn đại kết, chúng ta giảm bớt giáo huấn của Giáo
hội về Đức Mẹ Ma-ri-a?
Các
Nghị phụ khuyên nhủ như thế chăng? Không. Đề cập đến Đức Mẹ Ma-ri-a trong Hiến
chế Tín lý về Giáo hội, các Nghị phụ nói rằng các thần học gia và các nhà giảng
thuyết nên “cẩn thẩn tránh xa những
lối diễn tả hay hành động có thể làm cho các anh em ly khai hay bất cứ ai khác
hiểu sai giáo lý đích thực của Giáo hội” (VIII, 4, 67).
Trong
sắc lệnh về Đại Kết, các nghị phụ nói với chúng ta rằng “Cách thức và phương pháp diễn tả đức tin Công
giáo phải làm sao để đừng gây trở ngại cho việc đối thoại với những người anh em.
Tuyệt đối phải trình bày thật rõ ràng một hệ thống giáo thuyết toàn vẹn. Không
gì phá hỏng công cuộc đại kết cho bằng chủ trương hòa đồng sai lạc, vừa làm tổn
thương vừa làm lu mờ ý nghĩa đích thực và chắc chắn của giáo lý Công giáo thuần
túy” (II, 11).
Cũng
trong sắc lệnh này các Giám mục nói với chúng ta rằng các tín hữu trong “hành động đại kết của
họ phải hoàn toàn và thực sự mang tính Công giáo, nghĩa là trung thành với chân
lý chúng ta đã lãnh nhận từ các Tông đồ và các giáo phụ, cũng như phù hợp với đức
tin đang được giáo hội tiếp tục tuyên xưng” (III, 24).
Chúng ta, những anh em
trong Chúa Ki-tô có thể nói thế nào về sự duy nhất Ki-tô giáo, về tái hiệp nhất
của gia đình Ki-tô giáo, mà không nói về mối dây hiệp thông chúng ta nên có –
tình yêu đối với Mẹ, một người Mẹ là Mẹ Thiên Chúa và Mẹ nhân loại? Phong trào
đại kết nếu không có Đức Mẹ Ma-ri-a thì giống như một gia đình không có người mẹ.
Các
Nghị phụ nói với chúng ta rằng chúng ta nên cầu nguyện với Đức Trinh Nữ diễm
phúc để công cuộc đại kết thành công. Đây là cách các Vị nói: “Tất cả các Ki-tô hữu
hãy tha thiết khẩn cầu Mẹ Thiên Chúa cũng là Mẹ nhân loại, để như ngài đã trợ
giúp Giáo hội sơ khai bằng lời cầu nguyện, thì ngày nay, được tôn vinh trên trời,
vượt trên các thánh và các thiên thần, ngài cũng chuyển cầu cùng Con ngài trong
sự hiệp thông của toàn thể các thánh, cho tới khi mọi gia đình dân tộc, hoặc đã
được vinh dự mang danh hiệu Ki-tô hữu, hoặc chưa nhận biết Đấng cứu chuộc mình,
đều hân hoan đoàn tụ trong an bình hòa thuận, họp thành đoàn dân Thiên Chúa duy
nhất, để làm vinh danh Một Chúa Ba Ngôi chí thánh” (Hiến chế Tín lý về
Giáo hội VIII, 5, 69).
Thế
nên Đức Mẹ Ma-ri-a không thể bị loại trừ ra khỏi công cuộc đại kết. Sự hiện diện
của Mẹ cần thiết thế nào, nếu chúng ta được các Giám mục khuyến khích hãy cầu
nguyện với Mẹ để công cuộc đại kết thành công?
Chúng
ta lấy làm vui thỏa khi biết rằng bây giờ trong thời hiện đại này, một cuộc thảo
luận về vai trò của Đức Mẹ Ma-ri-a trong lịch sử cứu độ ngày càng trở nên quan
trọng, là một phần trong cuộc đối thoại giữa các thần học gia Công giáo và
không Công giáo. Hiện nay, các nhà thần học trong đối thoại đại kết rất dễ dàng
cùng nhau nói về Đức Mẹ Ma-ri-a.
PHONG TRÀO ĐẠI KẾT VÀ
HOẠT ĐỘNG TÔNG ĐỒ HOÁN CẢI
3. Chúng ta thường nghe
chỉ trích rằng Hội Legio Mariæ nên có tư tưởng đại kết hơn và hãy ít quan tâm đến hoạt động
hoán cải người khác. Ngày nay, với phong trào đại kết, vốn là kết quả của Công
đồng Vatican II, Legio Mariæ nên thay đổi giọng điệu mang tính quân đội, thay đổi thậm
chí cả danh hiệu của mình. Lời chỉ trích này khó hiểu với những ai biết rằngLegio
Mariæ đã mang tinh thần đại
kết trước cả Công đồng Vatican II, và thậm chí trước cả một vài nhà đại kết hiện
đại. Sau năm 1939, Legio Mariæ được Tòa Thánh cho phép tổ chức cuộc đối thoại thần học với
các nhà thần học Tin Lành, và đây là một thời điểm rất ít các nhà thần học hiện
đại nghĩ về đại kết. Cũng khoảng thời điểm đó, năm 1940, Tòa Thánh đã cho phép Legio Mariæ (một tổ chức dành cho
Công giáo Rô-ma) nhận các hội viên Chính thống giáo vào hàng ngũ củaLegio Mariæ vì mục đích làm cho họ
thấm nhuần tinh thần truyền giáo.
Thực
tế, việc hệ thống Legio Mariæ dạy cho các hội viên của mình trở nên có tinh thần đại kết
không có nghĩa là hội viênLegio Mariæ phải ít quan tâm đến hoạt động tông đồ đi hoán cải tha
nhân. Công đồng Vatican II không muốn Legio Mariæ ít chú trọng đến hoạt động hoán cải. Quả vậy, Công đồng nói
với chúng ta rằng công cuộc đại kết và hoạt động hoán cải là tương hợp với
nhau, và sự dấn thân của chúng ta vào các hành động đại kết phải không làm giảm
động lực truyền giáo để mang các linh hồn về với Giáo hội. Chúng ta có thể năng
động trong công cuộc đại kết và vẫn hoạt động mang nhiều linh hồn không ở trong
Giáo hội trở về với Giáo hội. Các Nghị phụ diễn tả như sau: “Dĩ nhiên, việc chuẩn
bị và thực hiện hòa giải đối với những cá nhân ao ước hiệp thông trọn vẹn với
Giáo hội Công giáo, tự bản chất khác với sáng kiến đại kết; tuy nhiên, những tiến
trình đó không đối lập nhau vì cả hai đều khởi phát từ sự an bài kỳ diệu của
Thiên Chúa” (Sắc lệnh đại kết, I,
4).
Trong
hoạt động vì đại kết, các hội viên Legio Mariæ luôn mang một ý tưởng được diễn tả qua những lời sau đây của
các nghị phụ: “Các phương thế cứu rỗi
chỉ có thể được tìm thấy đầy đủ nơi trợ tá phổ quát của ơn cứu rỗi là Giáo hội
Công giáo của Chúa Ki-tô. Chúng ta tin rằng Chúa đã ủy thác tất cả ơn phúc của
Giao ước mới cho một Tông đồ đoàn duy nhất, với thánh Phê-rô là người đứng đầu,
để làm cho tất cả những ai đã thuộc về dân Chúa theo một cách thức nào đó, cũng
được tháp nhập trọn vẹn vào Thân Thể duy nhất của Đức Ki-tô đã được thiếp lập
nơi trần gian này” (Sắc Lệnh Đại Kết, I, 3).
Ngay
từ ban đầu, Hội Legio Mariæ đã rất tích cực trong
các hoạt động rao giảng Tin mừng và thánh hóa. Một trong số các hoạt động tông
đồ đầu tiên là chăm sóc các tín hữu Công giáo sa ngã; sau khi Legio Mariæ lan ra ngoài Ireland,
đặc biệt trong những vùng truyền giáo, Legio Mariæ đã sớm trở nên nổi tiếng về những thành công khi hoạt động
mang các người ngoài Giáo hội trở về với Giáo hội Công giáo. Như vậy, lẽ ra
ngày nay Legio Mariæ phải được tán dương về
những hoạt động tông đồ như thế, chứ không phải bị chỉ trích.
Tất
cả chúng ta nhớ rằng Đức Phao-lô VI đã lên tiếng kêu gọi hãy rao giảng Tin mừng
trong Tông thư về đề tài này. Kể từ đó, tất cả các Giám mục trên toàn thế giới
Công giáo thôi thúc các Linh mục, tu sĩ, giáo dân hãy quan tâm cách mãnh liệt
hơn tới hoạt động truyền giáo.
Các
nhà thần học viết về đa dạng các phương pháp rao giảng Tin mừng nên được sử dụng.
Họ đang hướng dẫn các cuộc hội họp về chủ đề này, nhưng hiếm khi nào họ nại đến
lời khuyên của Legio Mariæ, là một Hội
đoàn Công giáo Tiến hành kể từ năm 1921 đã rất thành công trong tất cả các nơi
trên toàn thế giới trong công việc rao giảng Tin mừng.
Tôi
nghĩ rằng những Linh mục nào chỉ trích Legio Mariæ, đặc biệt là những Vị Linh giám nào đã khẳng định Legio Mariæ phải cải
tiến, có lẽ chính họ phải được trách vấn, liệu rằng họ đã không thăng tiến
trong công việc rao giảng Tin mừng và họ không dùng Legio Mariæ như một mô hình cho
việc hiện đại hóa đó.
Cái
tên ban đầu của Legio Mariæ mang một giọng điệu
hành động quân đội, làm phiền nhiễu điều gì đó trong thời kỳ đại kết này, nhưng
không nên thay đổi. Bởi, mặc dầu tất cả hội viên Legio Mariæ được khuyến khích vì
các linh hồn chiến đấu chống lại sa-tan và tội lội, nhưng họ chiến đấu trong đường
lối hòa bình; họ ghét bỏ và đấu tranh chống lại tội lỗi, nhưng yêu mến và chăm
nom những người tội lỗi. Tổ chức nội tại của Legio Mariæ được tổ chức theo lề
lối, kỷ luật và lòng trung thành từng nét là đặc tính của các lực lượng quân đội;
đấy là sự thật, nhưng không có nghĩa Legio Mariæ thuộc về quân đội, ưa tranh đấu hoặc đối kháng khi tiếp xúc
với các linh hồn; ngược lại, các hội viên Legio Mariæ được dạy rằng trong
hoạt động tông đồ của mình phải thể hiện sự kiên nhẫn, yêu thương, hiểu biết về
Chúa và Mẹ Ma-ri-a.
Góp
ý rằng hội viên Legio Mariæ nên thăng tiến hơn nữa
trong công cuộc đại kết, nên tổ chức các cuộc gặp gỡ đối thoại với các Ki-tô hữu
khác, v.v.., có thể là kết quả của những điều kiện địa phương, nơi mà các hội
viên được được huấn luyện theo hệ thống Legio Mariæ, hoặc nơi
mà các Vị Linh giám có lẽ đã không cho rằng việc khuyến khích các hội viên Legio Mariæ gặp gỡ đại kết và hoạt
động vì đại kết là chuyện khả thi. Hệ thống Legio Mariæ không thể bị khiển
trách về điều đó, về nơi hệ thống Legio Mariæ được tuân thủ một cách trung thành thì các hội viên rất
tích cực trong phong trào đại kết, luôn luôn tương hợp với sắc lệnh Đại kết của
Công đồng.
HỘI LEGIO MARIÆ VỚI HOẠT ĐỘNG TÔNG
ĐỒ XÃ HỘI VÀ NHỮNG PHONG TRÀO NHÂN QUYỀN
4. Một góp ý cuối cùng,
Hội Legio Mariæ, dưới
ánh sáng của Công đồng Vatican II, nên dồn tâm trí vào hoạt động tông
đồ xã hội và vào những phong trào đấu tranh cho nhân quyền.
Nói
rằng Hội Legio Mariæ không dính dáng gì
đến việc tông đồ xã hội cho thấy một sự thiếu hiểu biết trầm trọng
về Legio Mariæ. Một
lần nữa, đây có lẽ là kết quả của những điều kiện địa phương nơi
mà những Vị Linh giám và Ban quản trị các cấp Hội đồng đã không hướng
dẫn hội viên cách thích hợp, hoặc không cho phép họ tham gia nhiều
công tác xã hội như các hội viên khác ở nhiều vùng trên thế giới. Ở
một số khu vực, có một Præsidium chuyên biệt để phụ trách, chăm lo cho
những em gái đường phố; trong khi một Præsidum khác thì làm việc với
những người bị bỏ rơi; hoặc tắm rửa cho những bệnh nhân tâm thần trong
bệnh viện; hoặc chăm sóc cho những tù nhân... Một số hội viên Legio Mariæ viếng thăm những
khu nhà ổ chuột, giúp người nghèo dọn dẹp, sơn sửa nhà cửa, tắm
rửa và nấu ăn cho người tàn tật, đọc sách cho người mù nghe, dạy chữ
cho người thất học, thu gom rác, cắt cỏ, dọn tuyết trên đường, chở những
người tàn tật đi nhà thờ v..v… Tất cả những điều ấy đều có trong Thủ
Bản với lời dẫn: “Hội Legio Mariæ thuộc quyền của Đức giám mục giáo phận và Linh mục
quản xứ về mọi thể thức trong việc phục vụ xã hội và phong trào Công
giáo Tiến hành mà những giáo quyền địa phương có thể thấy rằng
thích hợp với hội viên và hữu dụng cho công tác xã hội của Giáo
hội” (TB 2,5). Ngài Frank Duff,
đấng sáng lập Hội Legio Mariæ, cũng đã nói thêm về đề tài công tác xã
hội trong một cuốn sách có tựa đề “Nhiệt thành đích thực với Quốc gia.”
Hội viên Legio Mariæ cũng nên tìm đọc
qua cuốn sách này.
Tất
nhiên, tất cả hội viên Legio Mariæ phải ý thức rõ
rằng công tác xã hội không chỉ là sự trợ giúp về vật chất, hẳn nó
không phải là công việc chính yếu, nhưng là Phúc-âm-hóa và
thánh hóa các tâm hồn (mà họ cố gắng hoàn thành trong công
tác xã hội của họ) mà Công đồng đã xác định như là một yếu tố căn
cốt của tông đồ giáo dân, phải được quan tâm hàng đầu trong hoạt động
tông đồ của họ.
Mặc
dù Legio Mariæ đã không gắn liền
với bất cứ phong trào đấu tranh cho nhân quyền nào, nhưng Legio Mariæ luôn tôn trọng
quyền công dân và đã dạy hội viên tuân giữ những quyền ấy. Thực vậy, Legio Mariæ trên khắp hoàn vũ
đã có nhiều hoạt động để mang lại sự hòa hợp sắc tộc. Legio Mariæ ngay từ khởi đầu
đã không phân biệt chủng tộc. Tại những cuộc hội họp Legio Mariæ, những
người da màu, da trắng từ mọi miền trên thế giới đều đi lại, giao
thiệp với nhau một cách tự do, bình đẳng. Và cũng thật ngạc nhiên để
biết rằng trong tổ chức của Legio Mariæ trên toàn thế giới, thì số hội viên là người da màu
nhiều hơn so với người da trắng.
Hội Legio Mariæ có lẽ sẽ không
mang theo những áp phích kháng nghị trong những cuộc diễu hành đòi
nhân quyền, nhưng trong cuộc đấu tranh chống lại sự dữ, họ mang theo
biểu ngữ của lòng khoan dung, sự hiểu biết và tình thương mến với
đồng loại.
Thiết
nghĩ, những trình bày trên đã đủ trả lời cho những ai chỉ trích
rằng Hội Legio Mariæ đã không bắt kịp
với tinh thần của Công đồng Vatican II.
HỘI LEGIO MARIÆ CÓ
PHÙ HỢP VỚI CÔNG ĐỒNG VATICAN II TRONG QUAN NIỆM VỀ TÔNG ĐÔ GIÁO DÂN HAY
KHÔNG?
Bây
giờ, với một cách xác thực hơn, chúng ta hãy cùng xem xét những văn
kiện Công đồng để hiểu rõ quan niệm của các Nghị phụ về tông đồ
giáo dân. Sau đó, chúng ta sẽ so sánh Thủ Bản của Legio Mariæ với quan niệm của
Công đồng về tông đồ giáo dân để xem có phù hợp hay không.
Các
Nghị phụ quan niệm tổ chức tông đồ giáo dân là gì? Chúng ta hãy cùng
tìm hiểu qua các văn kiện Công đồng.
Trong Hiến chế Tín lý về
Giáo hội các Đức giám mục đưa ra định nghĩa về tông đồ giáo
dân như sau: “Hoạt động tông đồ
giáo dân là thông phần vào chính sứ mệnh cứu độ của Giáo hội. Qua Bí tích Thánh
Tẩy và Thêm Sức, chính Chúa ủy thác việc tông đồ cho tất cả các tín hữu” (IV, 33). Trong Sắc lệnh
về Hoạt động Tông đồ Giáo dân, các Nghị phụ Công đồng nói rằng: “Ơn gọi Ki-tô hữu
tự bản chất cũng là một ơn gọi tông đồ” (I,2).
Thủ
Bản của Legio Mariæ (bản thảo lần đầu
năm 1920) nhấn mạnh về quyền và nghĩa vụ của mỗi tín hữu, nhờ vào
Bí tích Thánh Tẩy và Thêm Sức mà họ đã nhận lãnh, để chia sẻ với
sứ vụ đi rao truyền giáo huấn và ân sủng của Chúa Ki-tô cho nhân
loại. Thực vậy, Thủ Bản nói về hoạt động tông đồ như là một ơn gọi.
Chúng ta phấn khởi nhắc nhau nhớ rằng qua nhiều năm trời, hội viên Legio Mariæ đã nỗ lực để thuyết
phục mọi người tông đồ giáo dân
là một ơn gọi.
Việc
rao giảng Tin mừng và thánh hóa.
Công
đồng cho rằng giáo dân “thực thi các hoạt động tông đồ để rao giảng Tin mừng và
thánh hóa con người, để làm cho tinh thần Phúc âm thấm nhuần và hoàn thiện hóa
trật tự trần thế” (I,2).
Legio
Mariæ luôn xem công cuộc Phúc-âm-hóa (I.e., loan truyền
Tin mừng của Chúa Ki-tô) và thánh hóa (chuyển trao ân sủng của Người cho tha nhân) như là
hoạt động tông đồ hàng đầu và quan trọng nhất của mỗi hội viên.
Nhiệm
Thể và tông đồ giáo dân.
Bốn
mươi năm trước, khi chưa có nhiều nhà thần học bàn về Nhiệm Thể Chúa
Ki-tô, thì Hội Legio Mariæ đã nhấn mạnh giáo huấn ấy rồi. Thực ra, Legio Mariæ đã căn cứ trên
quyền và nghĩa vụ của hội viên với sứ mạng tông đồ trong sự hiệp
nhất với Nhiệm thể của Chúa Ki-tô. Quan niệm tương tự cũng được nhấn
mạnh trong Sắc lệnh về Hoạt động
Tông đồ Giáo dân: “Bởi được liên kết với Chúa Ki-tô là Đầu, người giáo dân
có quyền và bổn phận làm tông đồ. Khi được tháp nhập vào Nhiệm thể Chúa Ki-tô
nhờ Bí tích Thánh Tẩy, được nên mạnh mẽ nhờ quyền năng Chúa Thánh Thần qua Bí
tích Thêm Sức, họ được chính Chúa trao phó trách vụ tông đồ” (I,3).
Hội Legio Mariæ đã luôn nhấn mạnh
rằng người giáo dân có bổn phận rao truyền Tin Mừng Chúa Ki-tô cho muôn
loài thụ tạo. Sắc lệnh cũng nói rằng: người giáo dân sẽ là “chứng nhân cho
Chúa Ki-tô trên khắp cùng thế giới” (I, 3).
Canh
tân đời sống tâm linh qua sự kết hợp với Chúa Ki-tô.
Hội Legio Mariæ luôn yêu cầu rằng:
trước khi một hội viên có thể mang sứ điệp ơn cứu độ đến cho tha
nhân, thì bản thân hội viên phải canh tân đời sống tâm linh của mình.
Sự canh tân này có nghĩa là một tiến trình nên thánh bao gồm việc
thực thi các nhân đức: đức tin, đức cậy, đức ái, đức kiên nhẫn, lòng
khiêm tốn. Mục đích tối hậu trong tiến trình nên thánh này là một
sự kết hợp mật thiết với Chúa Ki-tô. Nhờ vào sự kết hợp ấy, vốn
được dưỡng nuôi thường xuyên qua việc đón nhận các bí tích, hội viên Legio Mariæ sẽ nhìn thấy Chúa
Ki-tô nơi mỗi người và do đó sẽ làm những điều tốt nhất cho họ.
Sắc lệnh về Hoạt động Tông đồ Giáo dân cũng cho chúng ta
hay rằng “kết quả của việc
tông đồ giáo dân tùy thuộc vào sự kết hợp sống động của chính họ với Chúa
Ki-tô” (1,4) “Đời sống kết hiệp mật
thiết với Chúa Ki-tô trong Giáo hội được duy trì nhờ những trợ giúp thiêng
liêng dành cho tất cả các tín hữu, nhất là nhờ việc tham dự tích cực vào Phụng
vụ thánh” (I, 4).“Cách thế
này giúp người giáo dân thăng tiến trong nếp sống thánh thiện... một nếp sống
như thế đòi hỏi phải liên lỉ thực hành các nhân đức tin, cậy, mến. Chỉ có ánh
sáng đức tin và việc suy niệm Lời Chúa mới có thể giúp chúng ta nhận ra được
Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc, …, nhận ra Chúa Kitô nơi mọi người dù là thân
quen hay xa lạ” (I, 4).
Bản
thân người tông đồ giáo dân phải có đời sống tâm linh sâu sắc.
Sắc
lệnh Công đồng viết: “Những giáo dân, theo ơn gọi của mình, tham gia các hiệp
đoàn hay tu hội được Giáo hội nhìn nhận, phải nỗ lực trung thành sống theo đường
hướng riêng biệt trong linh đạo của từng tu hội” (I,4).
Hội Legio Mariæ, được sự
chấp thuận của Giáo hội, đã nuôi dưỡng một linh đạo Mẹ Ma-ri-a đặc biệt
cho mỗi hội viên, điều này được ghi chú cẩn thận trong Thủ Bản.
Đức
Mẹ Ma-ri-a và tông đồ giáo dân.
Các
Nghị phụ Công đồng đã nói về Đức Mẹ Ma-ri-a và tông đồ giáo dân như
sau: “Gương mẫu hoàn hảo của
đời sống thiêng liêng và đời sống tông đồ chính là Đức Trinh Nữ rất thánh
Ma-ri-a, Nữ Vương các Tông đồ… Mọi người hãy thành tâm tôn sùng Mẹ và phó thác
cuộc sống cũng như mọi hoạt động tông đồ vào tay Mẹ” (I, 4). Liệu chúng
ta có cần nói rằng hội viên Legio Mariæ phải lấy Mẹ Ma-ri-a như là gương mẫu, như là nữ
hoàng, để rồi phó thác sứ vụ tông đồ cho sự chăm sóc từ mẫu của Mẹ?
Rao
giảng Tin mừng bằng lời nói.
Thánh
Công đồng muốn người tông đồ giáo dân đích thực truyền tải thông điệp
và ân sủng của Chúa Ki-tô đến cho muôn người theo cách thế nào? Có
phải đơn giản chỉ là bằng gương sáng của Ki-tô hữu? Dĩ nhiên không
chỉ có thế mà còn bằng lời nói. Họ phải nói về niềm tin tôn giáo
cho những người khác. “Việc tông đồ không chỉ giới hạn trong việc làm chứng bằng
đời sống; người tông đồ đích thực còn tìm cách làm chứng cho Chúa Ki-tô bằng lời
nói, hoặc cho những người chưa tin để đưa họ đến với đức tin, hoặc cho những
người đã tin để hướng dẫn, củng cố và thúc đẩy họ sống sốt sắng hơn” (II,6). Từ nhiều năm
nay, hội viên Legio Mariæ đã thực thi điều
này. Và trong khi thực thi, họ đã phải chịu nhiều chỉ trích và bị
coi như những kẻ hảo tâm lập dị. Giờ đây, họ đã vui mừng nhận ra
rằng các Nghị phụ muốn người tông đồ giáo dân thực thi những điều
tương tự.
Tông
đồ giáo dân và nghệ thuật giao tiếp.
Công
đồng muốn tông đồ giáo dân phải được huấn luyện kỹ năng “để có thể chuyện
trò thân thiện với người khác” (VI, 29).“Liên
quan đến hoạt động tông đồ: việc rao giảng Tin mừng và thánh hóa con
người, người giáo dân phải được đào tạo kỹ lưỡng để biết đối thoại
với tha nhân” (VI, 31).
Những
ai đã từng biết tới Legio Mariæ thì cũng biết tới phương cách mà Legio Mariæ đã huấn luyện hội
viên của mình trong nghệ thuật giao tiếp.
Tông
đồ giáo dân phải chống lại những sai lầm và tội ác của thời hiện
đại.
Ngày
nay, Công đồng nhắc nhở chúng ta: “Người giáo dân phải coi việc canh tân thế giới trần
tục là một nhiệm vụ đặc biệt”(II, 7) Họ phải nhiệt tâm chống lại
những kẻ xấu chẳng còn quan tâm gì đến Thiên Chúa, đến bản chất của
con người, và những nguyên tắc luân lý; họ phải chống lại những hủ
bại đạo đức; và họ phải giúp những ai thần tượng quá mức đối với
khoa học tự nhiên và công nghệ kỹ thuật, nên đã rơi vào thái độ sùng bái những
thứ trần tục và đã trở thành nô lệ của chúng thay vì là chủ
nhân” (II, 7).
Thủ
Bản và đường hướng sống theo Thủ Bản dạy mỗi hội viên làm thế nào để
chiến đấu chống lại những sai lầm và tội lỗi. Tuy nhiên, khi thực thi
những điều ấy, thì hội viên Legio Mariæ, chiến sĩ của Mẹ Ma-ri-a, vẫn thỉnh
thoảng bị chỉ trích.
Hoạt
động Tông đồ giáo dân phải mang tính toàn cầu.
Công
đồng cho rằng tông đồ giáo dân “không nên hạn chế sự liên đới, chỉ hoạt động trong
địa hạt của giáo xứ hay giáo phận, nhưng phải mở rộng ra liên giáo
xứ, liên giáo phận, quốc gia và quốc tế” (III, 10). Chúng ta
biết rằng Hội Legio Mariækhông hạn chế hoạt động trong ranh giới
giáo xứ hay giáo phận. Phổ quát nghĩa là làm cho mỗi hội viên thấm
nhuần ý thức đặc tính “Công giáo” của Giáo hội. Phong trào Lên đường vì Chúa
Ki-tô, một hoạt động của
Legio Mariæ, gởi những hội viên từ những quốc gia khác để tìm kiếm
những cuộc hoán cải của tha nhân, đã nhấn mạnh nhu cầu coi sóc các linh
hồn ở bất cứ nơi đâu Legio Mariæ hiện diện. Công đồng nói rằng: “Sứ mệnh phổ quát của
Giáo hội đòi hỏi các đề xướng tông đồ của người Công giáo phải được tổ chức
ngày càng hoàn chỉnh hơn theo dạng thức đoàn thể cấp quốc tế. Các Tổ chức Công
giáo quốc tế sẽ họat động hiệu quả hơn nếu được liên kết chặt chẽ hơn nữa với tổ
chức cũng như thành viên của các đoàn thể trực thuộc” (IV, 19). Legio
Mariæ, qua những cuộc họp hàng tháng (có những người chỉ trích các cuộc họp
này) tạo nên một sự liên kết thống nhất giữa các hội viên trên toàn
thế giới.
Những
đặc phái viên của Legio Mariæ.
Công
đồng tuyên bố rằng: “Giáo hội rất vui mừng vì thấy càng ngày càng tăng
số giáo dân phục vụ trong các hiệp hội hoặc các tổ chức hoạt động
tông đồ ở lãnh vực quốc gia cũng như quốc tế, và nhất là trong các
cộng đoàn Công giáo tại các xứ truyền giáo và nơi những Giáo hội
mới thành lập” (Sắc lệnh về Hoạt động Tông đồ giáo dân, IV, 22).
Từ
nhiều năm nay, Hội Legio Mariæ đã gửi đi những đặc phái viên đến những
vùng truyền giáo để thiết lập một hoạt động tông đồ giáo dân năng động
ở những khu vực ấy. Những đặc phái viên này, là những người nam nữ
trẻ tuổi, sẽ gác lại công việc ở nhà để đến những miền xa xôi trong
khoảng từ 3 đến 5 năm nhằm đồng hành và dạy dỗ dân cư ở đó, giúp họ
trở thành những tông đồ giáo dân trong Legio Mariæ. Hội Legio Mariæ rất
hãnh diện về hai đặc phái viên tiêu biểu: Edel Quinn, đặc phái viên
vùng châu Phi, đang được mở án tuyên Chân phước tại Rô-ma và Alphie Lamb,
đặc phái viên vùng Nam Mỹ, cũng đã được mở án tuyên Chân Phước. Trong
thập niên 1970, Legio Mariæ đã giới thiệu chương trình Incolæ Mariæ (Cư dân của Mẹ
Ma-ri-a), nhờ đó một hội viên sẽ đảm nhiệm công việc tại một nơi ở
ngoại quốc và sử dụng tất cả thời gian rảnh để làm việc cho Giáo
hội.
Tông
đồ giáo dân và giới trẻ.
Sắc
lệnh cổ vũ những người trẻ góp phần tích cực vào hoạt động Tông đồ
giáo dân (III, 12) Hội Legio Mariæ có một chương trình đầy đủ cho những người trẻ, bao
gồm cả những hội viên ở lứa tuổi học sinh tiểu học và trung học.
Nhờ những chương trình của Legio Mariæ, nhiều người trẻ đã góp phần tích cực
vào hoạt động tông đồ giáo dân.
Tổ
chức tông đồ. Công đồng khen ngợi các nhóm tông đồ và nhắc nhở
rằng: “Những hội đoàn được thành lập để hỗ trợ hoạt động tông
đồ tập thể, phải nâng đỡ và đào tạo các hội viên cho sứ vụ tông đồ,
phối hợp và điều hành các công tác tông đồ, nhờ đó hy vọng kết quả
sẽ phong phú hơn là để từng người hoạt động riêng rẽ” (VI, 18).
Có lẽ không có tổ chức giáo dân nào thực hiện đầy đủ lời nhắc nhở
trên như Legio Mariæ, thể hiện
qua các Præsidium hàng tuần, các buổi họp cấp Hội đồng hàng tháng, qua việc
đào tạo các hội viên, sự tổ chức quy củ, điều hành các hoạt động tông
đồ.
Những
đặc tính cần thiết của các nhóm tông đồ giáo dân. Sắc lệnh kể ra 3
đặc tính mà các nhóm tông đồ giáo dân phải có, nếu được kể vào
danh sách Hoạt động Công giáo:
1. “Mục đích trực
tiếp của các tổ chức này phải là mục đích tông đồ của Giáo hội,
nghĩa là loan báo Tin mừng, Thánh hóa con người và đào tạo lương tâm
Kitô hữu đích thực để có thể đem tinh thần Tin mừng thấm nhập vào
các cộng đồng và các môi trường khác nhau” (IV, 20)
2. “Người giáo dân hoạt
động trong một thể chế có tổ chức” (IV, 20).
3. “Người giáo dân làm
việc dưới sự hướng dẫn của hàng Giáo phẩm” (IV, 20).
Hội Legio Mariæ, một
hội đoàn có tính tổ chức cao, thực hiện việc rao giảng Tin mừng và
thánh hóa mỗi hội viên, rồi qua các hội viên đến với các linh hồn
khác, như là đối tượng chính yếu của Legio Mariæ. Lòng
trung thành và tuân phục Hàng giáo phẩm của Legio Mariæ, như
được đề cập trong Thủ Bản, đã trở thành một trong những đặc tính nổi
bật của Legio Mariæ.
Sau
cùng, “hàng Giáo phẩm
có thể trao cho giáo dân một số phận vụ vốn gắn liền với nhiệm vụ
của chủ chăn, chẳng hạn việc dạy giáo lý, cử hành phụng vụ, hay
chăm sóc các linh hồn. Vì được ủy nhiệm, nên khi thi hành nhiệm vụ,
người giáo dân phải hoàn toàn vâng phục sự điều khiển của giáo
quyền thượng cấp” (V, 24).
Thủ
Bản của hội Legio Mariæ viết rằng: “Legio Mariæ quyết tôn kính, vâng
lời Vị Linh mục như bề trên chính thức, và còn hơn thế nữa. Việc tông đồ của Legio Mariæ dựa trên các Thánh lễ
và các Bí tích như là máng chuyển ơn Chúa mà Linh mục là người chính thức ban
các Bí tích cho ta. Tất cả cố gắng và phương cách của Legio Mariæ phải hướng về mục
đích chính này là đem thức ăn cho đại chúng đang ốm đau và đói khát. Dó đó một
trong những nguyên tắc cốt yếu của hoạt độngLegio Mariæ là đưa Linh mục đến với
dân chúng, nếu không thể đưa chính Vị Linh mục đến, vì có trường hợp không thể
làm, thì ít ra cũng giải thích cho người ta biết về địa vị của Linh mục và giúp
cho ảnh hưởng của người lan rộng”.
“Đó là ý kiến quan trọng của việc tông đồ trong Legio Mariæ. Dầu đại
đa số hội viên là giáo hữu, Legio Mariæ vẫn hoạt động liên kết mật thiết với các Linh mục, dưới quyền
hướng dẫn của người và vì quyền lợi cao quý của hai bên” [TB 10,124 – tr. 82].
Đào
tạo Tông đồ giáo dân. Các Nghị phụ nói gì về việc huấn luyện người tông đồ giáo
dân? Có buộc phải có một chương trình hướng dẫn tâm linh thường xuyên cho các hội
viên Legio Mariæ trong giáo xứ hay
không? Hoặc, theo Công đồng, phải có một điều gì đó đặc biệt cho hoạt động tông
đồ giáo dân chăng?
Các
Nghị phụ nói: “Ngoài chương trình đào tạo chung dành cho mọi tín hữu, có thể
nói đa số các đoàn thể tông đồ, do có những đoàn viên và hoàn cảnh khác biệt, đều
cần phải có thêm lớp đào tạo chuyên biệt” (VI, 28) “Vì giáo dân tham gia
sứ mệnh của Giáo hội theo một cách thức riêng biệt, nên việc đào tạo tông đồ phải
có những hướng dẫn đặc biệt thích ứng với tính cách đặc thù của người giáo dân
là sống giữa đời, cũng như với định hướng đời sống thiêng liêng đặc biệt” (VI, 29).
Hội Legio Mariæ có chương trình đào tạo
đặc biệt về đời sống thiêng liêng, về đạo lý cũng như kỹ năng, vì chương trình
này mà Legio Mariæ thường bị chỉ trích từ
phía các Vị Linh mục và tu sĩ, những con người đó không hiểu rằng Công đồng
Vatican II muốn các nhóm tông đồ giáo dân đưa ra chương trình đào tạo hoạt động
tông đồ chuyên biệt của mình. Những người chỉ trích như thế sẽ hiểu Legio Mariæ tốt hơn một khi họ hiểu
ý tưởng của các Nghị phụ Công đồng tốt hơn. NếuLegio Mariæ muốn có chương trình
đào tạo thiêng liêng chuyên biệt theo thần học về Đức Mẹ Ma-ri-a (được Công đồng
Vatican II chấp thuận) thì các Vị Linh mục và tu sĩ phải đưa cho Legio Mariæ chương trình này, nếu
các Linh mục và tu sĩ muốn đi theo hướng dẫn của Công đồng Vatican II (V,25)
Đào
tạo thông qua hoạt động đã được hoạch định. “Việc đào tạo tông đồ
không thể chỉ là những hướng dẫn lý thuyết, vì thế ngay từ đầu, người giáo dân
phải từng bước thận trọng học cách nhận thức, suy xét và hành động trong mọi
tình huống theo ánh sáng đức tin, tự đào tạo và hoàn thiện bản thân nhờ cùng hoạt
động với những người chung quanh, và như thế họ sẽ tích cực dấn thân phục vụ
Giáo hội. Chương trình đào tạo đòi hỏi... hoạt động có kế hoạch” (VI, 29).
Ngay
từ buổi đầu xuất hiện vào năm 1921, Legio Mariæ đã nhấn mạnh rằng toàn thể các hội viên được đào tạo không
chỉ bằng những lời cầu nguyện và những sự trợ giúp thiêng liêng khác, nhưng còn
bằng việc làm, bằng việc tích tực phục vụ và bằng hoạt động có kế hoạch. Trong Legio Mariæ, hoạt động
tông đồ luôn được lên kế hoạch và giao phó cho các hội viên theo từng cặp, nhờ
vậy họ sẽ thăng tiến chính bản thân cùng với những người khác bằng thi hành…
như Công đồng muốn.
Những
nhóm nhỏ và các cuộc họp mặt thường lệ.
Legio
Mariæ, với cuộc họp hàng tuần của những nhóm nhỏ, tại đó đạo lý Công giáo được
các hội viên thảo luận, và có Vị Linh giám giải thích, đồng thời kỹ năng thi
hành các hoạt động tông đồ cũng được bàn thảo, nhằm huấn luyện các thành viên họat
động như các Nghị phụ Công đồng đã nhắc nhở.
Thực
ra, Công đồng mô tả một buổi họp Legio Mariæ khi nói: “Cùng với những người đồng hội hay bạn bè trong các tiểu hội,
họ họp bàn kiểm điểm về phương pháp cũng như kết quả các hoạt động tông đồ, và
cùng nhau đối chiếu nếp sống hàng ngày với chính Tin mừng” (VI, 30).
Công
đồng liệt kê như sau: “Người giáo dân hiện nay có được nhiều phương tiện, chẳng hạn,
những khóa học tập, những kỳ đại hội, những cuộc tĩnh tâm, linh thao, những
ngày họp mặt thường xuyên, những buổi thuyết trình, sách báo và tài liệu chú giải…,
trợ giúp cho các hoạt động tông đồ” (VI, 32).
Tôi
tin tưởng rằng Legio Mariæ có lẽ là tổ chức tông
đồ giáo dân duy nhất thực sự tận dụng tất cả những sự hỗ trợ này đúng như Công
đồng Vatican II đã hướng dẫn. Thực thế, Legio Mariæ có chương trình học hỏi
trong các buổi họp hàng tuần, các cấp Hội đồng của trong Hệ thống Legio Mariæ có công hội và họp
bàn vào những thời gian nhất định, mỗi Hội đồng có ngày Hòa giải hàng năm và có
chương trình tĩnh tâm hàng năm. Trong các cuộc họp thường lệ, v..v…, hàng tuần,Legio
Mariæ có sẵn sách vở và các
tài liệu huấn luyện các hội viên.
Mọi
người phải tôn trọng những tổ chức tông đồ giáo dân đã được công nhận. Công đồng nói rằng: “Tất cả các đoàn thể
tông đồ đều phải được quý trọng. Tuy nhiên, có những đoàn thể mà hàng Giáo phẩm
khích lệ, đề nghị và nhanh chóng quyết định thành lập, các Linh mục, tu sĩ và
giáo dân phải quan tâm nhiều hơn và tìm cách phát huy những đoàn thể ấy” (IV,21).
Legio
Mariæ chẳng bao giờ được
thiết lập trong giáo phận mà không có sự chấp thuận, cho phép của Đức giám mục
bản quyền. Vì vậy, khi Legio Mariæ được thiếp lập trong một khu vực, Công đồng nhắc nhở chúng
ta, các Vị Linh mục, tu sĩ và giáo dân phải hết lòng tôn trọng.
Đây
là sự thật không chỉ vì Legio Mariæ được sự chấp thuận của Đức giám mục giáo phận nhưng còn vì
tự mình, Legio Mariæ đã chứng tỏ đúng là một
tổ chức, mà thông qua tổ chức này giáo dân của địa phận có thể tham gia sứ mạng
của Giáo hội cách hiệu quả, và bởi vì Legio Mariæ là một hình thức hoạt động tông đồ giáo dân mà các Nghị phụ
của Công đồng Vatican II muốn và chấp thuận – bởi vì Hội Legio Mariæ thích hợp cho thời đại
chúng ta.
KẾT
LUẬN
Vì
Hội Legio Mariæ thực sự tương hợp với
quan niệm của Công đồng Vatican II về tông đồ giáo dân, và vì Legio Mariæthích hợp
với thời đại chúng ta, nên rõ ràng rằng Legio Mariæ không cần phải thích
nghi. Thay vào đó, những người thường thích chỉ trích, phê bình Hội Legio Mariæ thì nên tự cập nhật để học
hiểu tổ chức hiện đại này là gì. Họ nên tìm hiểu về HộiLegio Mariæ với một đầu óc không
thành kiến và học điều mà những người khác đã biết, cụ thể, Legio Mariæ là tổ chức giáo dân
phù hợp nhất cho việc thi hành đầy đủ Sắc Lệnh về Hoạt động tông đồ giáo dân. Họ
nên học biết ý nghĩa của điều mà Đức hồng y Riberi đã nói: “Legio Mariæ là một phép lạ trong
thời hiện đại” (TB 10,123).
--------------------------------------
CÔNG TÁC TRUYỀN GIÁO
& TÁI TRUYỀN GIÁO CỦA LEGIO MARIAE
Noi
gương đời sống các Tông đồ (x. Mt 10,1-16) và các môn đệ Chúa Ki-tô (x. Lc
10,1-12), từng hai hội viên được sai đi thăm viếng, tiếp xúc, chia sẻ với:
1.
Thăm gia đình Công giáo bình thường
2.
Thăm gia đình tôn giáo bạn và không tôn giáo
3.
Thăm gia đình rối
4.
Thăm gia đình trễ nải khô khan
5.
Thăm gia đình có phép chuẩn hôn phối
6.
Thăm gia đình bất thuận
7.
Thăm bệnh nhân tại bệnh viện
8.
Thăm bệnh nhân tại tư gia
9.
Thăm gia đình dự tòng
10.
Thăm gia đình tân tòng
11.
Dẫn đưa người đến lớp giáo lý dự tòng
12.
Đưa đón dự tòng đi học giáo lý
13.
Hướng dẫn lập thủ tục rửa tội cho trẻ em
14.
Dẫn đưa người đi học giáo lý nhận Bí tích Thêm sức
15.
Dẫn đưa trẻ em đến lớp giáo lý Rước lễ lần đầu
16.
Phụ giúp việc cho các lớp giáo lý
17.
Phụ giúp hay tổ chức các nghi thức cho dự tòng
18.
Dạy giáo lý dự tòng
19.
Dạy giáo lý tân tòng
20.
Dạy giáo lý hôn nhân
21.
Dạy giáo lý trẻ em
22.
Thăm nhà hưu dưỡng, cơ sở từ thiện xã hội
23.
Thăm gia đình nhập cư, di dân
24.
Thăm công nhân, học sinh, sinh viên tạm trú
25.
Thăm viếng, chăm sóc trẻ em bụi đời
26.
Thăm viếng, chăm sóc bệnh nhân xì ke, HIV, AIDS
27.
Thăm trẻ em thất học văn hóa
28.
Thăm trẻ em không đến lớp giáo lý
29.
Đưa đón các em đi lễ và học giáo lý
30.
Đưa đón người già, bệnh tật, neo đơn dự lễ
31.
Thăm gia đình Hội viên (HĐ + TT)
32.
Thăm và dự họp với đơn vị cấp Hội đồng
33.
Thăm và dự họp với Præsidium bạn
34.
Tuyển mộ hội viên hoạt động mới
35.
Tuyển mộ và chăm sóc tán trợ (mới)
36.
Tuyển mộ người cho các Đoàn thể bạn
37.
Tặng sách báo đạo, chuỗi Mân Côi cho Dự tòng, Tân tòng
38.
Giúp sửa nhà, bàn thờ cho Tân tòng
39.
Tổ chức đọc kinh các gia đình
40.Tổ
chức Tôn Vương Thánh Tâm trong gia đình
41.
Lập Sổ gia đình Công giáo
42.
Đón Cha xức dầu bệnh nhân
43.
Giúp hầu (trao) Mình Thánh Chúa cho bệnh nhân
44.
Tham gia chương trình “kết thân” để loan báo Tin mừng
45. Phân
phối, cổ động tập san “Legio Mariæ” và các sách báo đạo
46.
Thu gom và chôn cất thai nhi
47.
Thăm, chăm sóc và giúp người lỡ lầm tránh phá thai.
48.
Chăm sóc kẻ liệt.
-----------------------------------
HIỆU
QUẢ VIỆC TRUYỀN GIÁO CỦA LEGIO MARIAE VIỆT NAM
THEO THỐNG KÊ NĂM
2014
+
Đưa người lớn nhập đạo: 7.473 người
+
Đưa trẻ em Rửa tội: 5.840 em
+
Giải hòa: 3.316 gia đình
+
Giúp hợp thức hóa hôn phối: 2.492 đôi
+ Giúp người bỏ xưng tội lâu năm đến Tòa Hòa giải: 17.517 người
+
Giúp trẻ em xưng tội Rước lễ lần đầu: 12.185 em
+
Giúp người lớn lãnh Bí Tích Thêm Sức: 8.297 người
+
Giúp tránh phá thai, bảo vệ sự sống: 102 thai nhi.
Tác
giả: Rev. Msgr. Thomas b. Falls, s. T. D., ph.d.
Linh
giám Legio Mariæ ở Tổng giáo phận Philadelphia
Quan
sát viên tại Công đồng Vatican II
Học
viện Đa-minh chuyển ngữ
(Nguồn: Senatus Việt Nam 8/2015)