Tước Hiệu Đức Mẹ „Đồng Công
Cứu Chuộc“ Làm Lu Mờ Ưu Việt Tính Của Chúa Ki-tô
Kinh Thánh, Truyền Thống
và Quyền Giáo Huấn của Hội Thánh nói gì về tước hiệu „Đồng Công Cứu Chuộc“ của
Đức Maria?
Trong Giáo hội có một số
nhóm, đặc biệt là các phong trào cổ vũ lòng sùng kính Đức Mẹ, đang ra sức vận
động Giáo hội, hay nói cụ thể hơn là vận động Đức Thánh Cha, hãy công bố một
tín điều mới về Đức Maria với tước hiệu: Đức Mẹ „Đồng Công Cứu Chuộc“ (Coredemptrix
– dịch chính xác là: Đồng Cứu Chuộc).
Một số người còn bổ sung
thêm hai tước hiệu nữa, đó là tước hiệu „Đấng
Bầu Cử“ và „Đấng Trung Gian“, vì
những tước hiệu này được yêu cầu trong „những
cuộc hiện ra của Đức Mẹ“ tại Amsterdam, dù những cuộc „hiện
ra“ này vẫn còn đang trong vòng tranh cãi và chưa được Giáo hội xác nhận.
Trong những lời được gọi
là „Sứ Điệp“ của Marpingen tại
Saarland, Tín Điều „Đức Mẹ Đồng [Công]
Cứu Chuộc“ cũng được mong muốn; bên cạnh đó là những „sứ
điệp“ của người tự xưng là „Nữ Tiên
Tri“ Anna ở Gütersloh: Theo những „sứ
điệp“ của bà thì, trong một thị kiến, chính Chúa Giê-su đã đòi hỏi phải
công bố tín điều này để ủng hộ Thân Mẫu của Ngài. Việc Giáo hội công bố tín
điều „Đức Mẹ Đồng Công Cứu Chuộc“
cũng được đòi hỏi trong cả hai lần „Đức
Mẹ hiện ra“ tại San Damiano. Nhưng cả ba cuộc mạc khải tư nêu trên đều
không được thừa nhận bởi toàn Giáo hội.
Tuy nhiên, nổi tiếng nhất
vẫn là niềm mong ước trong mối liên hệ đến những điều được gọi là „những Sứ Điệp“ xuất phát từ Amsterdam.
Đây là một niềm ước mong mạnh mẽ, muốn Giáo hội công bố tín điều „Đức Mẹ là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc“.
Vào ngày 15 tháng 04 năm
1951, một „Trinh Nữ“ được cho là đã
hiện ra tại Amsterdam với tư cách là „Người
Nữ Của Tất Cả Mọi Dân Tộc“, người này tự đồng nhất mình với Đức Maria, và
đã đặt mình trước Cây Thánh Giá cũng như đã nói với „Nữ
Thị Nhân“ Ida Peerdemann những lời sau đây:
„Chúa
Con đã đến thế giới với tư cách là Đấng Cứu Độ con người. Công trình cứu độ
chính là Thánh Giá. Ngài được Chúa Cha sai đến. Nhưng giờ đây Chúa Cha và Chúa
Con muốn sai Đức Trinh Nữ đến với toàn thế giới. Đức Trinh Nữ vừa xuất hiện
trước Chúa Con và cũng vừa xuất hiện sau Chúa Con. Vì thế, giờ đây Mẹ đứng trên
thế giới, trên quả địa cầu. Thánh Giá đứng ở đó, được trồng xuống và được neo
chặt ở đó. Giờ đây người Trinh Nữ đặt mình vào đàng trước cây thập Giá đó với
tư cách là Mẹ của Chúa Con, Đấng đã cùng với Chúa Con hoàn thành công trình cứu
chuộc. Hình ảnh này trình bày một ngôn ngữ rõ ràng, và giờ đây nên được mang
vào thế giới, vì thế giới tái cần tới Thập Giá. Nhưng Đức Trinh Nữ đứng trước
cây Thập Giá với tư cách là Đấng Đồng [Công] Cứu Chuộc và là Đấng nguyện giúp
cầu thay.“
Ở đây chúng ta nên làm
sáng tỏ hai điều:
1.Chúa Ki-tô hiện hữu
trước: Với tư cách là Con Thiên Chúa, Chúa Ki-tô
hiện hữu trước mọi thời đại (trước cả mầu nhiệm Nhập Thể của Ngài): „Trước khi có Áp-ra-ham, thì tôi đã hiện hữu“
(Ga 8,58) – Chúa Giê-su đã nói về chính Ngài như thế. Ngài là Ngôi Hai của
Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì thế, tuyệt đối không có chuyện một „Trinh
Nữ“ nào đó, kể các Đức Maria, đã xuất hiện trước Ngài, vì Đức Maria cũng
chỉ là một thụ tạo, xuất hiện trong thời gian; trái lại, Chúa Giê-su chính là
Thiên Chúa, được sinh ra bởi Thiên Chúa Cha trước mọi thời đại.
2.Hình ảnh về một Trinh
Nữ tự đặt mình trước cây Thánh Giá, vì người
Trinh Nữ ấy cho rằng mình „đã hoàn tất
công trình cứu chuộc cùng với Chúa Con“, là điều vô cùng phi lý xét theo
quan điểm Thần Học. Hình ảnh ấy mâu thuẫn với cả hình thức lẫn nội dung của
Kinh Thánh, vì Kinh Thánh thuật lại rằng, Đức Maria đứng dưới chân Thập Giá,
khi Người Con Thần Tính của Mẹ, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại, tự hiến bản
thân mình để cứu độ thế giới.
Quan điểm về một „tình trạng đồng cứu độ“ cách trực tiếp
và thực tế của Đức Trinh Nữ không thuộc về Thánh Mẫu Học có tính truyền thống
của Giáo hội; mãi cho tới giữa thời Trung Cổ cũng chưa thấy ai nói đến khái
niệm „Đồng
Công Cứu Chuộc“. Khái niệm này mới chỉ xuất hiện cách mạnh mẽ kể từ khi
bắt đầu thời hiện đại.
Vào giữa và cuối thời
Trung Cổ, Thánh Mẫu Thiên Chúa được tôn kính cách đặc biệt với tư cách là Đầng
cầu Thay Nguyện Giúp, Đấng Bầu Cử, và Đấng Phù Hộ các Tín Hữu. Ngoài ra, Mẹ còn
được tôn kính như là Đức Mẹ Mang Áo Choàng Bảo Vệ, và thường là Người Đồng Khổ
Đau, Người Mẹ Đau Khổ dưới chân Thập Giá hay trước huyệt mộ: Chúng ta hãy nghĩ
tới vô vàn những bức tượng Pieta (Đức Mẹ Sầu Bi) trong các nhà thờ và các nhà
nguyện, những bức tượng ấy mô tả Đức Maria đang ôm xác con mình trong lòng.
Một đại Thần Học Gia Dòng
Phan-xi-cô, đó là Thánh Bô-na-ven-tu-ra Tiến Sĩ Hội Thánh, thường thích mô tả
Mẹ Thiên Chúa như là Nữ Trạng Sư, tức là „Luật
Sư, người biện hộ cho nhân loại.“
Trong truyền thống Giáo
hội, nếu có thì cũng không mấy ai sử dụng tước hiệu „Đồng
Công Cứu Chuộc“. Và chắc chắn, tước hiệu này không được sử dụng một cách
liên tục và bền vững trong việc giảng dậy Giáo Lý, hoàn toàn không xuất hiện
trong truyền thống các Tông Đồ, hay ít nhất là trong thời Giáo hội sơ khai,
chẳng hạn như thời các Giáo phụ hay cuối thời cổ đại.
Nhưng để có thể tuyên bố
thành tín điều, thì một sự gắn kết như thế, tức một sự liên tục và liền mạch từ
thời các Tông Đồ, hoặc ít nhất là từ thời các Giáo Phụ cho tới tận ngày nay,
không chỉ là điều đáng mong ước, mà còn là điều cần thiết và bắt buộc. Không có
một truyền thống đáng tin cậy cho tới tận thời đầu của Giáo hội, thì sẽ không
có cách nào có thể có được một tín điều.
Nguyên tắc rất nổi tiếng
mà Thánh Vinh-sơn Lerin, Tiến Sĩ Hội Thánh đưa ra, vẫn còn có nguyên hiệu lực
đối với toàn bộ Đức Tin Công Giáo. Thánh Nhân nói: „Công
Giáo là điều mà nó được tin luôn luôn, được tin ở khắp mọi nơi, và được tin bởi
tất cả.“ cụm từ „Công Giáo“, theo
nghĩa đen, có nghĩa là „bao gồm tất cả“.
Khi chứng kiến „Kết Quả từ Truyền Thống“, thì một Tín Điều
về „Đức Maria Đồng Công Cứu Chuộc“
xem ra không thể xảy ra.
Hồi giữa thế kỷ 18, Thánh
Vụ (tiền thân của Thánh Bộ Giáo Lý Đức Tin ngày nay) còn dứt khoát cấm chỉ
việc sử dụng khái niệm „Đồng
Công Cứu Chuộc Nhân Loại“ trong mục kiểm duyệt một tạp chí của Dòng
Phan-xi-cô. Nhưng sau đó thì người ta lại được phép sử dụng tước hiệu này. Tuy
nhiên, cho tới nay, tước hiệu này cũng vẫn chưa bao giờ được sử dụng trong các
văn bản chính thức của huấn quyền Giáo hội.
Nhưng dù sao, qua việc
tham dự vào với công trình cứu chuộc của Thiên Chúa, bắt đầu từ việc Mẹ cưu
mang Con Thiên Chúa cách siêu nhiên, cho tới khi Mẹ trung thành đứng dưới chân
Thập Giá, Đức Maria hoàn toàn có công trong công trình Cứu Chuộc; vì thế, Đức
Maria cũng đồng thời là mẫu gương hoàn mỹ, cũng như là nguyên mẫu của Giáo hội
– và là Mẹ thiêng liêng của các Ki-tô hữu.
Trong sách Giáo lý của
Hội Thánh Công Giáo, số 967, có viết rằng, Đức Maria đã „hoàn
toàn ưng thuận“ với công trình cứu chuộc của Con Mẹ; vì thế, Mẹ trở thành „mẫu gương của Đức Tin và Đức Ái“, và do
đó, trở thành „nguyên mẫu của Giáo hội“.
Trong các trình bày của
Giáo hội về Đức Maria, vấn đề đã được làm sáng tỏ rằng, trong mức độ của một
thụ tạo, Đức Maria đã được phép tham dự vào với công trình cứu độ đời đời – tuy
nhiên, trong sự lệ thuộc hoàn toàn vào Chúa Ki-tô, và được tạo điều kiện nhờ
vào ân sủng của chính Thiên Chúa; do đó, chẳng còn nghi ngờ gì nữa, Thánh Mẫu
Thiên Chúa chính là „nữ trợ tá“ và là
„cộng tác viên“ tuyệt vời nhất của
Đấng Cứu Độ chúng ta.
Tuy nhiên, bản thân Đức
Maria cũng là một người được cứu độ, nhưng Mẹ là người được cứu độ trước, là
người được cứu độ đầu tiên và là người đã được cứu độ một cách hoàn toàn của
Giao ước mới nhờ vào sự thụ thai vô tì vết của Mẹ trong một cách thế vô tiền
khoáng hậu – và như thế, Mẹ có được địa vị cao nhất trong số tất cả những người
được cứu độ, nhưng điều đó hoàn toàn không thay đổi chuyện Mẹ cũng thuộc về một
nhân loại cần được cứu độ. Điều này đã trở nên rõ ràng một cách đặc biệt trong
Tín Điều về sự thụ thai Vô Nhiễm Nguyên Tội. Đây là nguyên văn của Tín Điều vừa
nói:
„Giáo
Lý về việc Đức Trinh Nữ Rất Thánh Maria được ngăn ngừa khỏi mọi tì vết của tội
Nguyên Tổ ngay từ khoảnh khắc đầu tiên Mẹ được thụ thai, nhờ vào một ân sủng
đặc biệt, cũng như nhờ vào sự thưởng công của Thiên Chúa toàn năng vì công
nghiệp của Chúa Giê-su Ki-tô, Đấng Cứu Độ nhân loại, là Giáo Lý được mạc khải
bởi Thiên Chúa, và vì thế phải được tin tưởng một cách chắc chắn và bất di bất
dịch bởi tất cả mọi tín hữu“ (H.Dz 2803).
Với Tín Điều trên, Giáo
hội đã làm sáng tỏ rằng, đặc ân được thụ thai Vô Nhiễm Nguyên Tội là một hành
vi đặc biệt của ân sủng Thiên Chúa, mà hành động đó đã diễn ra nhờ vào „công nghiệp của Chúa Ki-tô“, Đấng Cứu Độ
nhân loại – và đặc biệt là Đấng Cứu Độ của Đức Maria, Thân Mẫu của Ngài.
Đức Mẹ đã rất ý thức về
hồng ân cao cả ấy như Kinh Thánh đã làm chứng, vì trong lời Kinh Ngợi Khen đầy
lòng biết ơn của Mẹ, tức Kinh Magnificat, Mẹ đã reo mừng vì „Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi“ (xc. Lc
1,47).
Đấng Hằng Hữu cũng là
Đấng Cứu Độ của Mẹ, trong khi Mẹ ý thức mình là „Nữ
Tì hèn mọn của Chúa“ (Lc 1,48), và luôn luôn tham chiếu về Chúa Ki-tô, ngay
cả trong tiệc cưới Cana, khi Chúa Giê-su thực hiện dấu lạ chính thức đầu tiên
của Ngài, bằng cách là Ngài đã biến nước lã thành rượu nho (xc. Ga 2,1-12).
Trước đó Mẹ đã nói với
những viên đầy tớ: „Người bảo sao, các
anh cứ làm như vậy!“ (Ga 2,5). Căn bản mà nói, lời vừa rồi của Đức Maria
chính là kim chỉ nam cho tất cả mọi hoạt động rao giảng Tin Mừng của Giáo hội:
Chúa Ki-tô bảo sao, thì hãy làm như vậy!
Đối với Đức Mẹ, tước hiệu
„Đồng Công Cứu Chuộc“ là điều quá
đáng, rất dễ gây hiểu lầm và cần phải được dẫn giải một cách phức tạp – và nó
có thể dễ dàng tạo ra sự lầm lạc, ấy là chưa nói đến chuyện, hành vi cứu độ duy
nhất của Chúa Ki-tô, của Con Thiên Chúa, sẽ bị đặt thành vấn đề với tước hiệu
này, ít nhất là ở mức độ gián tiếp, chẳng hạn như: nếu Đức Maria đồng công
trong công trình cứu chuộc, thì Chúa Ki-tô chỉ được một nửa công trong công
trình đó thôi sao?
Dĩ nhiên, một số nhân vật
cao cấp trong Giáo hội hay một số Thần Học Gia thì lại nhìn vấn đề này theo một
hướng khác: có lẽ một số vì sự gắn bó với „các
sứ điệp“ của Amsterdam, còn số khác thì dựa trên những suy từ Thần Học có
tính suy đoán.
Một số người, chẳng hạn
như Đức Cha Klaus Küng Giám Mục Giáo phận St. Pölten, đã ra sức bảo vệ cho tước
hiệu „Đồng Công Cứu Chuộc“. Vào ngày
22 tháng 08 năm 2009, trong một bài giảng tại khu hành hương Đức Mẹ nổi tiếng
Mariazell, Ngài đã giải thích rằng, Mẹ Thiên Chúa đáng được đón nhận tước hiệu „Đồng Công Cứu Chuộc“.
Tuy nhiên, Đức Thánh Cha
Bê-nê-đíc-tô XVI thì lại đánh giá khác về tước hiệu trên. Thực ra, Ngài hoàn
toàn coi trọng những nỗ lực đầy thiện chí cũng như chủ đích của những người cổ
vũ cho tước hiệu „Đồng Công Cứu Chuộc“,
tuy nhiên, mặc dù ý định rất tốt, nhưng cách thực hành thì không luôn luôn tốt.
Trong một cuốn sách được
xuất bản vào năm 2000 với tựa đề là „Thiên
Chúa và thế giới“, ở chương nói về „các
tín điều“, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger hồi đó cũng đã bàn tới đề tài „Đức Mria là Đấng Đồng Công Cứu Chuộc“
(Taschenbuch-Ausgabe: S. 329 f):
„Câu
trả lời của Thánh bộ Giáo Lý Đức Tin cho vấn đề đó là thế này, điều mà nó được
nghĩ tới liên quan đến tước hiệu trên, đã được trình bày với một cách thức đặc
biệt trong các tước hiệu khác của Đức Maria rồi, trong khi công thức „Đồng Công
Cứu Chuộc“ lại quá xa vời với ngôn ngữ của Kinh Thánh và của các Giáo Phụ, và
vì thế, sẽ gây ra những hiểu lầm.
Vậy chính xác là gì?
Thưa, chính xác là Chúa Ki-tô không chỉ dừng lại bên ngoài chúng ta hay bên
cạnh chúng ta, nhưng Ngài hình thành nên một sự hiệp thông mới và sâu xa với
chúng ta. Tất cả những gì là của Ngài thì cũng sẽ là của chúng ta; và tất cả
những gì là của chúng ta, thì Ngài cũng đều đã đón nhận hết, và như thế, cũng
sẽ là của Ngài:
Sự trao đổi vĩ đại này
chính là nội dung thực sự của ơn cứu độ, là sự giới hạn cái TÔI và là sự bước
vào trong sự hiệp thông với Thiên Chúa.
Vì Đức Maria chính là
hình ảnh tiên trưng của Giáo hội, và có thể nói được rằng, Mẹ chính là hiện
thân của Giáo hội, nên việc „Đồng“ này đã được hiện thực hóa trong Mẹ để làm
mẫu.
Nhưng về sự „Đồng“ này,
người ta không được phép quên đi tính cách „Trước Tiên“ của Chúa Ki-tô. Tất cả
đều đến từ Ngài, giống như thư gửi tín hữu Ê-phê-sô và thư gửi tín hữu Cô-lô-sê
đã nói cách đặc biệt về điều đó; Đức Maria cũng là tất cả những gì mà Mẹ là,
nhờ vào Ngài.
Đối với những gì thuộc về
Đức Tin, thì sự liên tục và liền mạch với ngôn ngữ của Thánh Kinh và của các
Giáo Phụ chính là điều căn bản; ngôn ngữ không được phép tùy ý gây tác động.“
Đức Tổng Giám Mục Angelo
Amato, Tổng trưởng Thánh Bộ Phong Thánh của Giáo Triều Rô-ma, cũng có cái nhìn
tương tự như cái gì của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger.
Trong một cuộc phỏng vấn
dành cho nhật báo Avvenire của Ý hồi tháng 07 năm 2008, Đức Hồng Y Amato (lúc
đó vẫn còn là Tổng Giám mục) đã giải thích rằng, việc công bố tín điều Đức
Maria là „Đấng Đồng Công Cứu Chuộc“,
vừa không thích hợp với Kinh Thánh, lại cũng không thích hợp với truyền thống
của các Giáo Phụ, và không thích hợp với quan điểm Thần Học nói chung.
Tại Công Đồng Vatican II,
khoảng 500 Nghị Phụ đã ủng hộ việc trình bày Đức Maria như là „Mediatrix“ (Nữ
Trung Gian), và có khoảng 50 Nghị Phụ lại muốn trình bày Đức Mẹ như là
„Coredemptrix“ (Đấng Đồng [công] Cứu Chuộc). Rốt cục, trong Hiến Chế Lumen
Gentium, Công Đồng Vatican đã sử dụng tới 60 lần tước hiệu „Mediatrix“ (Nữ
Trung Gian) để nói về tư cách trung gian của Đức Maria. Trong Thông Điệp
Redemptoris Mater, Đức Thánh Cha Gio-an Phao-lô II đã sử dụng thuật ngữ „Tư cách trung gian trong Chúa Ki-tô“ tới
38 lần. Tuy nhiên, cụm từ „Coredemptrix“ (Đấng Đồng [công] Cứu Chuộc) chưa một
lần được sử dụng bởi Công Đồng Vatican II cũng như bởi Huấn Quyền của Giáo hội.
(Trình bày theo Felizitas
Küble, Giám đốc diễn đàn Christoferus Münster)
Lm Đa-minh Thiệu O.Cist