Phúc
Lành Gặp Gỡ
(liengiaophan.de) 23-12-2020
Lm. GB. Nguyễn Ngọc Thế SJ.
Đức Maria đi thăm bà Ê-li-sa-bét và bài ca Ngợi Khen – Magnificat
(Lc 1,39-56).
Sau khi Mẹ Maria được Thiên Thần Gáp-ri-en truyền tin và
Mẹ nói lời xin vâng với sứ mạng Thiên Chúa trao ban, Mẹ đã bước vào một hành
trình mới. Hành trình sống dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa, để thực thi thánh
ý của Người trong lịch sử cứu rỗi nhân loại. Hành trình của Mẹ được mở ra với
việc Mẹ lên đường đến thăm một người bà con, là bà Ê-li-sa-bét.
Thánh Ambrôsiô đã chia sẻ về biến cố này như sau: “Khi
loan báo những điều huyền nhiệm cho Đức Trinh Nữ Maria thì sứ thần cũng báo cho
Người biết việc một phụ nữ cao niên và hiếm muộn đã thụ thai. Sứ thần dùng sự
việc này như một ví dụ để minh xác rằng bất cứ điều gì Thiên Chúa muốn thì
Người sẽ thực hiện.
Vậy khi nghe biết chuyện đó, Đức Maria đã vội vàng lên
miền núi. Người hành động như vậy không phải là không tin vào lời sấm, hay
không chắc chắn về lời truyền tin, cũng chẳng phải là hồ nghi về ví dụ điển
hình. Nhưng Người lên đường như kẻ mừng vui vì được điều mong ước, sốt sắng chu
toàn một bổn phận và lẹ làng vì phấn khởi hân hoan. Vậy sau khi được đầy tràn
Thiên Chúa, Người vội vã ra đi. Hướng về đâu, nếu không phải là những thực tại
cao vời? Ân sủng của Chúa Thánh Thần không cho phép ngập ngừng hay chậm trễ”.[1]
Giờ đây chúng ta cùng đọc lại đoạn Thánh Kinh này: “39 Hồi
ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền núi, vào một thành thuộc chi tộc
Giu-đa.40Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét.41 Bà
Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên, và
bà được đầy tràn Thánh Thần,42 liền kêu lớn tiếng và nói rằng:
‘Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng
được chúc phúc.43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với
tôi thế này?44 Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì
đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.45 Em thật có phúc, vì
đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em’.
46 Bấy giờ bà Maria nói:
‘Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
47 thần trí tôi hớn hở vui
mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
48 Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.
49 Đấng Toàn Năng đã làm cho
tôi
biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn!
50 Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người.
51 Chúa giơ tay biểu dương
sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
52 Chúa hạ bệ những ai quyền
thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban
của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng.
54 Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi
tớ của Người,
55 như đã hứa cùng cha ông
chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
và cho con cháu đến muôn đời’.
56 Bà Maria ở lại với bà
Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà”.
Đoạn Thánh Kinh trên có hai nhân vật nổi bật: Mẹ Maria và
bà Ê-li-sa-bét. Chúng ta có thể chia bản văn thành các chủ đề sau: về Đức Maria
(câu 39-40), về bà Ê-li-sa-bét (câu 41-45) và Đức Maria với bài ca Ngợi Khen –
Magnificat và phần kết (câu 46-56). Chúng ta cùng chiêm ngắm hành trình thăm
viếng của Mẹ: “39 Hồi ấy, bà Maria vội vã lên đường, đến miền
núi, vào một thành thuộc chi tộc Giu-đa.40Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a
và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét”.
Như thế là thời gian không lâu sau biến cố quan trọng của
Mẹ Maria gặp gỡ Thiên Thần, Mẹ vội vã lên đường. Trong Thánh Kinh, “lên đường”
là một hành động của những người lắng nghe và đón nhận thánh ý của Thiên Chúa.
Lên đường để đến một nơi mà Thiên Chúa muốn. Với Maria, đó là thành Giu-đa nằm
trên một vùng núi. “Tên chính xác của thành không được nêu ra. Nhưng nó chính
là thành Ain Karim, nằm giữa miền núi và sa mạc gần Giê-ru-sa-lem”.[2]
Theo Ravasi, “Ain Karim có nghĩa là nguồn của đồi nho.
Nơi đó là vùng tĩnh lặng gần ở Giê-ru-sa-lem. Người hành hương đến nơi thánh
này sẽ nhớ đến cuộc gặp gỡ giữa Mẹ Maria và bà Ê-li-sa-bét, cũng như nhớ đến
bài hát của hai phụ nữ này. Trong hai bài hát đó, cả hai đều diễn tả sứ mạng và
trách nhiệm của họ, nghĩa là họ cưu mang hai Hài Nhi. Hai bài hát này chất chứa
niềm vui, qua hình ảnh bào thai trong lòng bà Ê-li-sa-bét nhảy mừng”.[3]
Như thế, để đến thăm bà Ê-li-sa-bét, Mẹ Maria phải đi một
đường dài. Mẹ mất từ 03 đến 04 ngày đường đi bộ. Chúng ta cũng nhận ra rằng, Mẹ
Maria đi một mình chứ không đi chung với thánh Giu-se. Mẹ “lên đường” đến nhà
bà Ê-li-sa-bét là do thánh ý của Thiên Chúa, qua sự báo tin của Thiên Thần
Gáp-ri-en với Mẹ: “Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng
đang cưu mang một người con trai: bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay
đã có thai được sáu tháng. Vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm
được” (Lc 1,36-37).
Mẹ không chậm trễ, mà Mẹ vội vã lên đường theo lời mời
gọi của Thiên Chúa. Mẹ lên đường với niềm vui và sự nhanh lẹ. Thật vậy, ai nghe
tiếng Chúa kêu mời lên đường đi theo Chúa và được Thần Khí thúc đẩy, phải bước
đi với tâm hồn vui mừng và tinh thần cởi mở, dầu trên con đường đầy khó khăn
thử thách.
“Bà Maria vội vã lên đường”. Thánh Luca diễn tả thật đơn giản, nhưng quyết định để ra
đi chắc chắn không dễ dàng. Vào thời đó, vấn đề đi xa thật nguy hiểm, nhất là
đối với thiếu nữ đã đính hôn và giờ lại đi xa một mình. Ở đây chúng ta thấy một
sự tự do hành động của Mẹ. Hơn nữa, ân huệ của Chúa Thánh Thần không trì hoãn
công việc phải làm. Chính Chúa Thánh Thần đã thúc đẩy Mẹ Maria và ban cho Mẹ tự
do để lên đường, một sự linh hoạt không theo lề thói bình thường. Chúng ta có
thể hỏi Đức Maria: “Điều gì làm Mẹ vội vã như vậy?”[4]
Trong ý nghĩa thiêng liêng và tốt lành chúng ta thấy
rằng: sự vội vã của Đức Maria nhằm diễn tả lòng yêu mến, muốn đi thăm viếng để
chúc mừng bà chị họ, sau khi Mẹ được thiên thần báo tin. Hơn nữa, Mẹ cũng chia
vui với chị họ giống như Mẹ được ơn làm mẹ. Với bà Ê-li-sa-bét, thì đó là một
ơn lớn Chúa ban, đang khi bà không còn chút hy vọng có con. Ngoài ra, Mẹ còn
muốn nâng đỡ chị họ “nay đã có thai được sáu tháng”. Cụ thể, Mẹ “ở lại với bà
Ê-li-sa-bét độ ba tháng”. Ở lại để giúp đỡ bà cho đến khi Gioan tẩy giả chào
đời.
Hơn nữa, Mẹ Maria đến thăm và đã đem Chúa đến cho gia
đình ông bà Da-ca-ri-a, là một cái nhìn rất đẹp cho đời sống Đức Tin và tâm
linh. Em-ma-nu-en có nghĩa là Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Mẹ Maria đem Đấng
luôn muốn ở cùng nhân loại đến nhà người chị họ. Đó là một hành động chia sẻ
rất tuyệt vời. Mỗi người chúng ta hôm nay, ai ai cũng cần có Chúa, dù cho thế
giới và xã hội có làm ngơ Chúa đến mấy, và dù cho nhiều người đang đẩy Chúa ra
khỏi ánh mắt nhìn của họ.
Càng quay lưng đi với Chúa, thì nhân loại càng cần đến
Chúa. Vì nếu xã hội chúng ta vắng bóng Thiên Chúa, thì biết bao điều tệ hại sẽ
xảy ra, cuộc sống con người sẽ mất dần ý nghĩa và trở nên tẻ nhạt. Mong sao,
chúng ta là những tín hữu ý thức bắt chước Mẹ Maria, luôn sẵn sàng mang Chúa
đến cho người khác, nhất là những người gần gũi với mình nhất.
Ngoài ra, đức cố hồng y Martini còn nhìn động lực Mẹ vội
vã lên đường thăm bà Ê-li-sa-bét theo tâm tình sau: “Tôi nghĩ rằng, nếu đi sâu
vào thâm tâm của Mẹ, chúng ta có thể khám phá Mẹ có một khát vọng muốn có một
dấu chỉ để khẳng định bí nhiệm của Mẹ. Lời loan báo của Thiên Thần là một bí
mật rất nặng nề để giữ kín, một bí mật khó truyền thông, và chúng ta có ấn
tượng rằng, Mẹ không kể nó cho ai. Bởi vì điều này, Mẹ cần gặp bà Ê-li-sa-bét
để đón nhận sự khẳng định về lời truyền tin cho Mẹ, về điều liên quan đến ý
muốn của Thiên Chúa.
Dĩ nhiên Đức Maria có một khát vọng mãnh liệt muốn phục
vụ và giúp đỡ cho bà chị họ già nua. Nền tảng cho một mối liên hệ chân chính và
sâu xa nằm sẵn trong chính hoàn cảnh của nó, và nền tảng ấy là sự hỗ tương. Mẹ
muốn giúp đỡ, nhưng cũng nhận sự giúp đỡ…Trong một mối liên hệ chân chính, một
người có thể hiểu người khác sâu sắc, và cũng được người kia hiểu mình như vậy.
Đây là tính hỗ tương của mối liên hệ”.[5]
Như thế, cuộc thăm viếng của Mẹ Maria nơi bà Ê-li-sa-bét
mang một nét đẹp của tình người, của sự tương trợ và chia sẻ. Martini tiếp tục
nêu lên tầm quan trọng của ý nghĩa hỗ tương này: “Đức Maria đã giữ kín trong
lòng một bí mật không thể nói ra được cho đến khi viếng thăm người chị họ,
nhưng đây là một gánh nặng nề xét theo quan điểm của con người.
Chúng ta cũng phải mang vác những gánh nặng nề mà chúng
ta không thể nói ra: các vấn đề khó khăn của mình, những đau khổ mà người khác
tâm sự với chúng ta. Do đó, chúng ta dễ hiểu về Đức Maria, người mang trong lòng
gánh nặng: sự trinh khiết của Mẹ, mối liên hệ với thánh Giuse, hướng đi mới của
Mẹ, mầu nhiệm mà Mẹ bắt đầu bước vào, và điều đó sẽ tỏ ra sau này nơi thập giá
và sự phục sinh của Người
Con của Mẹ. Mẹ cảm thấy bà Ê-li-sa-bét đã hiểu về Mẹ. Mẹ
ý thức rằng: có một người khác, không cần Mẹ giải thích nhưng đã biết bí mật
của Mẹ, khẳng định điều đó với Mẹ, và bảo đảm với Mẹ rằng: Mẹ đã đúng khi hết
lòng tin tưởng. Như thể bà Ê-li-sa-bét nói rằng: Hãy can đảm lên. Chị đã hiểu
rõ em. Đừng sợ. Em đang đi trên con đường đúng đắn. Chị cũng mang thai một đứa
con”.[6]
Đó là ý nghĩa của việc Mẹ vội vã lên đường đến thành
Giu-đa. Khi đến nơi, “Bà vào nhà ông Da-ca-ri-a và chào hỏi bà Ê-li-sa-bét”. Người
Do thái thường chào nhau với từ “Sha-lom”, nghĩa là chúc “Bình an ở với
anh” (x.Ga 20,19), hay “Thiên Chúa ở cùng anh”. Ở câu truyện truyền tin cho
Mẹ Maria, sứ thần Gáp-ri-en đã chào Mẹ: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy
ân sủng, Đức Chúa ở cùng Bà” (Lc 1,28).
Còn trong câu truyện Mẹ đến thăm viếng bà Ê-li-sa-bét,
thì thánh sử Luca chỉ nói là Mẹ chào bà, nhưng không nhắc đến lời chào như thế
nào. Dù vậy, chúng ta thấy rằng Mẹ đã chào người chị họ với những lời hoà nhã
và kính trọng. Trong lời chào này còn chứa đựng chính sự trân trọng ân sủng mà
Chúa đã ban cho bà Ê-li-sa-bét mà Mẹ cũng đã được báo tin (x. Lc 1,36-37).
Hai người phụ nữ được Chúa thương đoái nhìn, hai người
phụ nữ của ân sủng, hai người phụ nữ tràn đầy niềm vui, vì có Chúa ở cùng và
hai người phụ nữ mang trọng trách Chúa trao, gặp gỡ nhau trong tình yêu thương.
Thật đẹp, khi được phép chiêm ngắm khung cảnh hai tâm hồn tuyệt vời gặp gỡ
nhau.
Sau khi lắng nghe lời Đức Maria chào, bà Ê-li-sa-bét có
phản ứng gì? Thánh Luca viết như sau: “41 Bà Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con
trong bụng nhảy lên, và bà được đầy tràn Thánh Thần,42 liền kêu
lớn tiếng và nói rằng: Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em
đang cưu mang cũng được chúc phúc.43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu
Chúa tôi đến với tôi thế này?44 Vì này đây, tai tôi vừa nghe
tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng.45 Em
thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.
Phản ứng của bà Ê-li-sa-bét được tỏ ra trong bản văn qua
ba sự kiện: nghe tiếng chào, sự nhảy mừng của đứa con trong bụng và tràn đầy
Thánh Thần. Đây là hiệu quả có ba phần của mối liên hệ sâu xa và chân chính,
được thiết lập bởi Đức Maria qua lời chào hỏi của Mẹ.
Ở đây chúng ta chúng ta chú ý đến sự kiện thứ hai. Đó là
hình ảnh bào thai trong bụng nhảy lên vì vui mừng: “Bà
Ê-li-sa-bét vừa nghe tiếng bà Maria chào, thì đứa con trong bụng nhảy lên” (câu
41). Trong câu 44 chúng ta thấy Luca cũng diễn tả hình ảnh đứa bé: “Vì này
đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui
sướng”.
Như thế, có nét giống nhau là “đứa con trong bụng nhảy
lên”. Còn nét khác biệt nằm ở cách diễn tả của thánh sử Luca. Trong câu 41,
“đứa con trong bụng nhảy lên” được diễn tả theo tính cách gián tiếp xảy ra nơi
bà Ê-li-sa-bét, còn trong câu 44, Luca nói rõ ràng là bà Ê-li-sa-bét chủ động
thốt ra: “đứa con trong bụng đã nhảy lên vui sướng”, khi vừa nghe lời Mẹ Maria
chào. Nhưng hình ảnh “đứa con nhảy lên trong bụng” có ý nghĩa gì?
Như chúng ta biết Luca là một y sĩ (x.Cl 4, 14), vì thế
việc Luca chú ý đến những khoảnh khắc bào thai “đạp” và “nhảy” trong bụng là
điều dễ hiểu. Đó là những giây phút khó quên. Bào thai “đạp” và “nhảy” nghĩa là
bào thai đang hiện diện cách sống động. Trong Cựu Ước, cũng có hình ảnh anh em
sinh đôi Ê-sau và Gia-cóp đã nhảy múa trong bụng bà Rê-béc-ca trước kia là hiếm
hoi: “Các đứa con đụng nhau trong lòng bà, nên bà kêu lên: ‘Nếu vậy thì
tại sao tôi thế này?’ Bà thỉnh ý Đức Chúa. Đức Chúa phán với bà: Có hai dân tộc
trong lòng ngươi, hai dân từ dạ ngươi sinh ra và sẽ chia rẽ nhau.Dân này sẽ
mạnh hơn dân kia, đứa lớn sẽ làm tôi đứa bé” (St
25,22-23).
Cousin cũng chia sẻ về hình ảnh này: “Em (Gio-an Tẩy Giả
trong lòng bà Ê-li-sa-bét) được đầy Thánh Thần như sứ thần đã loan báo (x.Lc
1,15), em bé thấy hừng lên bình minh của thời đại mới và nói tiên tri bằng việc
nhảy mừng và không phải bằng lời nói, khi hân hoan nhận ra sự hiện diện của
Đấng mà thiên hạ đợi trông vào thời cuối cùng”.[7]
Khi bào thai trong lòng bà Ê-li-sa-bét nhảy mừng,
thì bà được đầy tràn Thánh Thần. Tác động của Thần
Khí trên bà mạnh mẽ đến nỗi, từ môi miệng của mình bà Ê-li-sa-bét đã hát lên
một bài ca thật đẹp ca ngợi Mẹ Maria và Hài Nhi ở trong lòng Mẹ: “Em
được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được
chúc phúc.43 Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế
này?44 Vì này đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con
trong bụng đã nhảy lên vui sướng.45 Em thật có phúc, vì đã tin
rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em”.
Suy niệm từng lời trong bài ca này, chúng ta thấy những
áng văn thật đẹp và tràn đầy niềm vui. “Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu
mang cũng được chúc phúc”. Người phụ nữ cao niên hơn, bà
Ê-li-sa-bét, mở lời chúc mừng cô trinh nữ Maria, vì cô trinh nữ đã đón nhận ơn
quá đặc biệt từ trời cao, nên cô được chúc phúc hơn tất cả các phụ nữ khác.
Theo Ravasi, “phúc lành trong Thánh Kinh luôn đi đôi với
hoa trái. Trong ngôn ngữ Sê-mít thì câu ‘được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ’ mang tính
cách superlative, có nghĩa là mức tối thượng, cao nhất”.[8] Như
thế, Mẹ Maria là người được nhận sự chúc phúc cao nhất từ Thiên Chúa. Thêm vào
đó, không chỉ Mẹ Maria được chúc phúc, mà người con em đang cưu mang cũng
được chúc phúc. Nghĩa là “bà Ê-li-sa-bét biết rằng Đức
Maria là một người Mẹ. Bà đã hiểu điều mà trước đó bà không biết và điều mà Đức
Maria không nói với ai cả”.[9]
Tiếp theo lời chúc mừng về phúc lành của Thiên Chúa trên
Mẹ Maria và Hài Nhi, bà Ê-li-sa-bét trở về với chính bản thân và chân nhận việc
Mẹ Maria, Thân Mẫu của Thiên Chúa, đến thăm bà là một hồng ân cao quý. Bà thốt
lên rằng: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?”. Trong
lời của bà Ê-li-sa-bét, chúng ta nhận ra được sự khiêm tốn và lòng biết ơn sâu
xa. Hơn nữa, lời này còn chính thức công nhận việc Đức Maria làm Mẹ là một điều
ngoại thường.
Thật vậy, “bà Ê-li-sa-bét không chỉ nhận ra rằng Đức
Maria và đứa con bà cưu mang là đối tượng cho phúc lành của Chúa. Bà còn tuyên
xưng người bà con của mình là Mẹ của Chúa tôi; bà Ê-li-sa-bét nói bằng chính
môi miệng mình điều mà đứa con bà đã xác nhận bằng cách nhảy mừng: con của Đức
Maria là Đấng Kitô, Chúa đã loan báo trong Thánh vịnh 110, câu 1 (được trích
dẫn bởi Lc 20,41-44 và Cv 2,34-36)”.[10]
Sự nhận biết của bà Ê-li-sa-bét dựa trên một giao động
đặc biệt. Đó là sự “nhảy lên vui sướng” của bào thai trong chính lòng bà: “Vì này
đây, tai tôi vừa nghe tiếng em chào, thì đứa con trong bụng đã nhảy lên vui
sướng”. Theo Martini, “Tất cả mầu nhiệm của Đức Maria được
trình bày ở đây: Đức Maria và Chúa Giê-su, Đức Maria và Gioan, đức tin của Đức
Maria, việc Đức Maria làm mẹ, sự vâng phục của Đức Maria đối với tiếng gọi của
Chúa.
Chúng ta có thể nói rằng trong bản văn này, lòng sùng
kính đối với Đức Maria vì vai trò của Mẹ trong lịch sử cứu độ, lòng sùng kính
được diễn tả bởi một con người, có sự khởi đầu của nó. Trong cảnh truyền tin,
chúng ta chiêm ngắm mầu nhiệm Đức Maria mà bà Ê-li-sa-bét cảm nghiệm. Trong
cảnh thăm viếng, chúng ta chiêm ngắm việc một phụ nữ nhận biết mầu nhiệm này và
ca ngợi nó. Bà Ê-li-sa-bét là người đầu tiên trong số muôn vàn người ‘sẽ ngợi
khen Đức Maria có phúc’ từ đời nọ đến đời kia”.[11]
Bài ca ngợi của bà Ê-li-sa-bét được kết với lời cũng thật
đẹp về Mẹ Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người
đã nói với em”. Một lần nữa Mẹ Maria được ca ngợi là người có
phúc, nhưng phúc lành của lần này dựa trên chính niềm tin của Mẹ: “vì (em) đã
tin rằng”.
Theo Ravasi, “niềm tin trong ngôn ngữ của Thánh Kinh diễn
tả một sự đồng thuận toàn vẹn. Một lời đồng thuận hoàn toàn của tâm hồn và thể
xác dành cho Thiên Chúa. Có thể nói cụm từ ‘Mẹ thật có phúc, vì đã tin’ là định
nghĩa đẹp nhất dành cho dung mạo của Mẹ Maria. ‘Em thật có phúc, vì đã tin rằng
Chúa sẽ thực hiện những gì Người đã nói với em’.
Lời này cũng làm cho chúng ta nhớ lại một đoạn khác trong
Tin Mừng Luca: ‘27 Khi Đức Giê-su đang giảng dạy, thì giữa đám
đông có một người phụ nữ lên tiếng thưa với Người: Phúc thay người mẹ đã cưu
mang và cho Thầy bú mớm!28 Nhưng Người đáp lại: Đúng hơn phải
nói rằng: Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa’ (Lc
11,27-28).
Mẹ Maria được ca ngợi là người được chúc phúc, không chỉ
dựa trên việc Mẹ là Mẹ thật của Hài Nhi có tên là Giê-su ở thành Na-da-rét, mà
chính yếu là vì Mẹ trở thành Mẹ Thiên Chúa, như công đồng Ê-phê-sô đã tuyên bố.
Nhưng để trở nên Mẹ Thiên Chúa, thì Maria phải là người tin, một người lắng nghe
Lời Thiên Chúa. Vì thế, Mẹ Maria là người tín hữu đầu tiên của các tín hữu”.[12]
Thật vậy, “bà Ê-li-sa-bét cũng nối kết Đức Maria với ông
Áp-ra-ham, người cha của những kẻ tin, bởi vì cũng như tổ phụ Áp-ra-ham, Mẹ đã
tin vào việc Chúa sẽ thực hiện lời đã hứa. Như thế, từ một lời chào, từ một
cuộc gặp gỡ, từ một mối liên hệ của lòng tốt, từ sự tôn trọng và kính trọng,
một mầu nhiệm lớn lao tỏ ra”.[13]
Ngoài ra, chúng ta có thể khám phá được niềm tin và phúc
lành trải dài trong Tin Mừng. Đức Giê-su nói với viên đại đội trưởng “Ông cứ
về đi. Ông tin thế nào, thì được như vậy!”, và người đầy tớ của ông
ta đã được chữa lành (x.Mt 8,13). Đối với người phụ nữ bị băng huyết, Người
nói “Này con, cứ yên tâm, lòng tin của con đã cứu chữa con”.
Và ngay từ lúc đó, máu của bà ngưng không chảy ra nữa
(x.Mt 9,22). Đối với hai người đàn ông bị mù, Người nói “Các anh
tin thế nào, thì được như vậy!”, và họ đã được nhìn thấy trở lại
(x.Mt 9,29). Và còn biết bao nhiêu ví dụ khác nữa.
Một lần nữa hướng nhìn về Mẹ Maria, chúng ta thấy Mẹ thật
cao cả trong câu truyện này với nhiệm vụ làm Mẹ của Thiên Chúa. Sự cao cả của
Mẹ còn được biểu lộ qua tinh thần “xin vâng” hoàn toàn thánh ý của Thiên Chúa ở
nơi Mẹ, cũng như qua lòng tin vào sức mạnh và quyền năng của Lời Thiên Chúa.
Đi đôi với niềm tin của Mẹ được bà Ê-li-sa-bét ca ngợi là
chính hành động của niềm tin mà Mẹ thực hiện. Thiên Chúa hoạt động để cứu độ
con người, nhưng Thiên Chúa cần đến sự cộng tác của con người, để sự cứu độ
được kiện toàn. Sự cộng tác và tham gia của con người chính là niềm tin được
biểu lộ qua việc làm.
Đức Maria được chúc phúc, bởi vì không những Mẹ đã tin,
mà còn hành động theo lòng tin của mình nữa. Ngay sau khi sứ thần đến thăm, Mẹ
vội vã thăm viếng bà Ê-li-sa-bét. Từ điểm này, chúng ta nhận thấy lòng tin tôn
giáo nơi Mẹ không phải chỉ là vấn đề cảm xúc. Nhưng Mẹ đã chuyển lòng tin đó
thành hành động cụ thể. Đó là niềm tin sống động.
Trong cái nhìn tổng thể về cuộc thăm viếng bà Ê-li-sa-bét
của Mẹ Maria, chúng ta thấy đó là cuộc gặp gỡ thật đẹp giữa hai phụ nữ. Qua sự
hoạt động của Thiên Chúa, cuộc sống đang thay đổi đối với Mẹ Maria và
bà Ê-li-sa-bét. Sau khi được truyền tin, Mẹ Maria đã lập tức đi
thăm người chị họ.
Mẹ một mình đi đến miền Giuđa: một điều chưa
từng bao giờ nghe thấy trong thời đại ấy! Khi hai người phụ nữ này gặp nhau, họ
chia sẻ cho nhau biết về ý nghĩa của những phép lạ xảy ra trong cuộc đời mình.
Đó là hai bào thai mà hai người phụ nữ đang cưu mang.
Sự chuyển động “nhảy lên” của bào thai trong lòng bà
Ê-li-sa-bét đã diễn tả sự trông đợi trong vui mừng của bà và niềm vui này cũng
toả qua Mẹ Maria. Có lẽ không ít người nghĩ rằng khi gặp Đức Maria,
bà Ê-li-sa-bét sẽ “nổ” về tin vui trọng đại của mình. Nhưng không. Bà
Ê-li-sa-bét gạt niềm vui riêng của mình sang một bên để đặt Đức Kitô vào trung
tâm của biến cố khi nói rằng: “Bởi đâu tôi được Thân Mẫu Chúa tôi đến với tôi thế này?”
Với những lời này, bà Ê-li-sa-bét đã chiếm ưu
thế, vì bà là người đầu tiên gọi con trẻ Giê-su là Thiên Chúa Của Tôi. Và
cũng bởi vì bà đã hiểu được ân huệ mang thai, một ân huệ mà bà và người em
Maria đã chia vui cùng nhau.
Cuối cùng, trước tất cả những gì thật đẹp diễn ra trước
mặt, Mẹ Maria đã cất lên một bài Ca Ngợi tuyệt vời. Đây là bài ca thứ hai tràn
đầy niềm vui của Cô Trinh Nữ được Chúa chúc phúc hơn mọi phụ nữ, được Chúa đoái
thương dù thân phận cô chỉ là nữ tỳ hèn mọn.
Bài ca Ngợi Khen, Magnificat là lời cầu nguyện rất đẹp
của Mẹ Maria hướng về Thiên Chúa. Bài ca Ngợi Khen được hoà quyện với những lời
của Cựu Ước, và bài ca này có một sự liên hệ chặt chẽ với bài ca của bà An-na,
mẹ Sa-mu-en (x.1Sm 2,1-11).
Bài ca Ngợi Khen là một bài thánh thi được dùng trong
Phụng Vụ, và Mẹ Maria đã hát lên bài ca này với tư cách của một nữ tỳ khiêm nhu
ca tụng ngợi khen Thiên Chúa, về những hành động cao cả của Ngài đối với Mẹ.
Giáo Hội tiên khởi cũng luôn chú ý đến lời ngợi ca Thiên Chúa về những hành
động tuyệt vời của Người.
Sách Công Vụ có viết: “Họ đồng tâm nhất trí, ngày
ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với
lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân thương mến. Và Chúa
cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (Cv
2,46-47).
Thánh Phao-lô cũng nhắc nhớ cộng đoàn Ê-phê-sô: “Chớ say
sưa rượu chè, vì rượu chè đưa tới truỵ lạc, nhưng hãy thấm nhuần Thần
Khí. Hãy cùng nhau đối đáp những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do
Thần Khí linh hứng; hãy đem cả tâm hồn mà ca hát chúc tụng Chúa. Trong mọi
hoàn cảnh và mọi sự, hãy nhân danh Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, mà cảm tạ
Thiên Chúa là Cha” (Ep 5,18-20).
Từ hơn 2000 năm nay, Giáo Hội tiếp tục hát lên bài ca
Ngợi Khen tuyệt mỹ này trong các Thánh Đường, các tu viện và cả trong những
ngôi nhà đơn sơ, như nhà của Ê-li-sa-bét ngày xưa. Trong tông huấn Marialis
Cultus, thánh Giáo Hoàng Phao-lô VI viết: “Magnificat là lời cầu nguyện tuyệt vời
của Mẹ Maria, bài ca ngợi khen của những thời khắc cứu tinh (messianic), nơi
hòa chung niềm vui của Ít-ra-en cựu và tân.
Nơi bài ca này lại vang lên một lần nữa niềm hân hoan của
Áp-ra-ham là người đã được thấy ngày của Đấng Cứu Tinh (x.Ga 8,56) và vang lên
một cách tiên tri tiếng nói của Hội Thánh. Bài ca của Đức Trinh Nữ đã trở thành
lời cầu nguyện của Hội Thánh trong mọi thời đại” (số 18).
Bài ca Ngợi Khen có thể được nhìn trong hai phần. Phần
thứ nhất dựa trên dạng số ít “linh hồn tôi” trong tương quan đối với Thiên Chúa
(câu 46-50). Phần thứ nhất này cũng được coi là tâm tình tạ ơn tôn vinh Thiên
Chúa của Mẹ Maria. Phần thứ hai (51-55) với dạng số nhiều “những ai”, “những kẻ
quyền thế” và “những kẻ bị áp bức”. Có thể nói đó là tâm tình của toàn thể dân
Ít-ra-ren, toàn thể dân Chúa dâng lên trải dài trong thời gian.
Giờ đây chúng ta cùng “lắng nghe” thật chú tâm với toàn
bộ con người lời Mẹ ca tụng Ngợi Khen Thiên Chúa:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới;
từ nay, hết mọi đời
sẽ khen tôi diễm phúc.
Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi
biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn!
Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”.
Bài ca tuyệt vời này có phần mở đầu với tâm tình của
người cầu nguyện được diễn tả qua cụm từ “linh hồn tôi” và “thần trí tôi”. Như
thế, tâm tình ngợi khen và vui mừng của Mẹ Maria đã thấm sâu vào trong hồn của
Mẹ và của thần trí Mẹ. Tâm tình ca ngợi và tạ ơn này khởi đi từ chỗ sâu thẳm
nhất của con người Mẹ, nơi mà Mẹ đã được Thiên Chúa chạm đến và hoạt động cách
tuyệt vời.
Vì thế, đối tượng mà Mẹ ngợi khen, tôn vinh và cảm tạ là
chính Thiên Chúa. Đức cố hồng y Martini đã nhìn bài ca Magnificat là một thánh
thi vui mừng: “Khi đọc kỹ bài Magnificat của Đức Maria, chúng ta nhận thấy Mẹ
bắt đầu với ngôi thứ nhất, ‘Linh hồn tôi, thần trí tôi’. Bài ca khởi đầu với
những gì Mẹ cảm nghiệm được, và còn qui hướng về kinh nghiệm của Mẹ, về niềm
hân hoan, về các cảm xúc của Mẹ, nhưng đột nhiên, chủ từ thay đổi. Thần trí
tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, và từ đây trở đi Mẹ chỉ nói
đến Thiên Chúa mà thôi”.[14]
Thánh Bê-đa khả kính đã suy niệm về lời của Đức Mẹ như
sau: “Bấy giờ Đức Maria nói : Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa, thần trí tôi hớn hở vui
mừng vì Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ tôi. Như thế là Người muốn
nói: Đức Chúa đã làm cho tôi nên cao trọng khi ban ân huệ rất lớn lao và chưa
từng nghe nói, đến nỗi không miệng lưỡi nào giải thích nổi, mà phải có lòng mến
yêu sâu thẳm mới mong hiểu phần nào.
Vì thế, tôi đem hết sức lực của linh hồn để dâng lời cảm
tạ. Đời sống của tôi cùng với mọi cảm nghĩ và hiểu biết, tôi dùng tất cả để
chiêm ngưỡng ân huệ cao quý vô song đó với tâm tình tri ân cảm tạ, bởi vì trong
chính Đức Giê-su, Đấng Cứu Độ tôi, thần trí tôi được hớn hở
vui mừng vì Người là Thiên Chúa vĩnh cửu, và thân xác tôi trở
nên phong phú vì Người đã đầu thai để sống trong thời gian”.[15]
Thật vậy, khi đọc tiếp các lời kế, chúng ta thấy rõ hơn
việc Mẹ ca ngợi Thiên Chúa dựa trên những hoạt động của Chúa. Thánh Luca đã
dùng các động từ để diễn tả những việc Chúa hoạt động: Phận nữ
tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới. Đấng Toàn
Năng đã làm cho tôi. Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người. Như
thế, trong lời ca ngợi này, Mẹ Maria đã “ra khỏi mình” và chỉ còn tập trung vào
chính Thiên Chúa là đối tượng và là chủ thể.
Chính Thiên Chúa đoái nhìn đến Mẹ, một phận nữ tỳ hèn
mọn. Mẹ Maria tự kể mình trong hàng hèn mọn, nhỏ bé và nghèo nàn. Mẹ dâng lên
bài ngợi ca này trong thân phận người nghèo của Thiên Chúa, trong tiếng Do Thái
là anawin.
Theo Ravasi, “anaw có nghĩa là tự cúi xuống, và công nhận
sự lớn lao của người khác. Hành vi này không có ý nghĩa là bị chèn ép, mà là
một hành vi nội tâm”.[16] Như thế, trong thẳm sâu của
lòng Mẹ, với sự khiêm nhu Mẹ đã nhìn nhận thân phận mỏng dòn, nhỏ bé, đơn sơ và
nghèo nàn của mình trước Thiên Chúa, Đấng Tối Cao, Đấng đã thực hiện điều vĩ
đại trong chính cung lòng Mẹ.
Thánh Vịnh gia và các ngôn sứ luôn chú ý nhiều đến những
người nhỏ bé và hèn mọn được Thiên Chúa đoái nhìn. “Nhưng
người túng thiếu không mãi bị bỏ quên, kẻ nghèo khổ chẳng tuyệt vọng bao giờ” (Tv
9,19). “Bởi vì Đấng muôn trùng cao cả, Đấng ngự chốn vĩnh hằng,Đấng mang
danh chí thánh, Người phán như sau: Ta ngự chốn cao vời và thánh thiện, nhưng
vẫn ở với tâm hồn khiêm cung tan nát, để ban sức sống cho tâm hồn những kẻ
khiêm cung, và ban sinh lực cho những cõi lòng tan nát!” (Is
57,15).
“Vì sức mạnh của Ngài không dựa vào số đông, quyền lực của Ngài
chẳng ở nơi người mạnh thế. Nhưng Ngài là Thiên Chúa của kẻ khiêm nhu, là Đấng
cứu giúp người hèn mọn, Đấng đỡ nâng kẻ cô thế, Đấng bảo vệ người bị bỏ rơi,
Đấng Cứu Tinh của những ai thất vọng” (Gdt
9,11).
Thiên Chúa của người Do Thái trong thời Cựu Ước và Thiên
Chúa của Mẹ Maria luôn quan tâm đến những người bất hạnh, hèn yếu và khiêm nhu.
Hình ảnh Thiên Chúa này cũng được Chúa Giê-su diễn tả cách sống động, như qua
chính mối phúc: “Phúc cho ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt
5,3).
Hơn nữa, trong kế hoạch và chương trình cho sứ mạng của
Chúa Giê-su, người nghèo khó có chỗ đặc biệt: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì
Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người
đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ
được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của
Chúa” (Lc 4,18-19).
Nếu chúng ta đọc lại và chiêm ngắm cuộc đời của Chúa
Giê-su, sẽ nhận ra người nghèo luôn có chỗ đặc biệt trong trái tim của Người,
người nghèo luôn được ưu tiên nhìn đến. Trên hết chính Người, Thiên Chúa “giàu
sang nhất”, đã trở nên một người nghèo.
Trong Tông Huấn Niềm Vui Tin Mừng, ở chương thứ Tư và số
197, Đức Thánh Cha Phanxicô có đề cập đến việc Chỗ đứng đặc quyền của người
nghèo trong Dân Thiên Chúa, ngài đã chia sẻ rất sâu sắc về
hình ảnh của Thiên Chúa qua Đức Ki-tô đã trở nên nghèo: “Trong quả tim của
Thiên Chúa có một chỗ đặc biệt cho người nghèo, đến nỗi chính Người ‘trở nên
nghèo’ (x.2Cr 8, 9).
Toàn thể cuộc hành trình cứu chuộc của chúng ta được đánh
dấu bởi sự hiện diện của những người nghèo. Ơn cứu độ này đã đến với chúng ta
qua lời ‘xin vâng’ của một thiếu nữ khiêm tốn từ một ngôi làng xa xôi nhỏ bé ở
vùng ngoại vi của một đế quốc vĩ đại”.
Lời xin vâng của Mẹ là lời đáp trả khiêm tốn trước ánh
mắt của Thiên Chúa nhìn đến Mẹ. Được Thiên Chúa nhìn đến, đó là một diễm phúc
tuyệt vời. Vì thế Mẹ đã vui mừng khôn siết: “từ nay, hết mọi đời sẽ khen
tôi diễm phúc”. Thiên Thần Gáp-ri-en và bà Ê-li-sa-bét là
những người đầu tiên khen ngợi Mẹ là người diễm phúc, là người nhận được sự ưu
ái đặc biệt của Thiên Chúa.
Từ đó, từ thế hệ này qua thế hệ khác, người ta liên tiếp
ca khen Mẹ và tri ân Thiên Chúa đã đoái thương chọn Mẹ. Lời ca khen Mẹ Maria
được diễn tả qua rất nhiều phương diện, từ âm nhạc đến các suy tư, từ nghệ
thuật đến các lời cầu nguyện ca tụng Mẹ. Chúng ta có thể kể đến Johann
Sebastian Bach và Georg Friedrich Haendel với những bài thánh ca bất hủ “Magnificat”;
riêng Johann Sebastian Bach còn sáng tác hai bài ca khác liên hệ đến
Magnificat. Bài thứ nhất với tựa đề “Herz und Mund, Tat und Leben – Trái tim và môi miệng cùng hành
động và cuộc sống”. Bài thứ hai với tựa đề “Meine
Seel erhebt den Herren – linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa”. Trong
nghệ thuật hội hoạ có những bức tranh diễn tả cuộc thăm viếng của Mẹ nơi bà
Ê-li-sa-bét, như của hoạ sĩ Fra Angelico, của hoạ sĩ Giotto di Bondone, của hoạ
sĩ Domenico Ghirlandaio, của hoạ sĩ Albrecht Duerer hay của hoạ sĩ Carl von
Blaas.
Thật vậy, dung mạo Mẹ Maria là người diễm phúc đã đi vào
lòng cuộc đời này và Mẹ luôn sống động trong mọi thời đại, vì Mẹ chính là mẫu
gương của niềm tin, mẫu gương của người khiêm tốn và luôn đón nhận Thiên Chúa
và thánh ý của Người qua chính lời xin vâng của Mẹ.
Đẹp thay người nữ diễm phúc nhất trên trần gian này, vì
Mẹ có Chúa ở bên, vì Mẹ thật khiêm tốn trong lời nói xin vâng và trong cuộc
sống hoàn toàn dâng hiến cho chính Thiên Chúa, để Ngài làm gì Ngài muốn trên
cuộc đời của Mẹ.
Mẹ là Đấng diễm phúc và Mẹ được đón nhận biết bao điều
cao cả từ trời cao:
“Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả,
danh Người thật chí thánh chí tôn!”
Mẹ thật diễm phúc nhưng Mẹ không bao giờ hãnh diện về
chính bản thân, mà tất cả mọi hãnh diện Mẹ đều dành cho Thiên Chúa. Chỉ có Chúa
và danh Thánh của Chúa mới đáng được ca tụng tôn vinh. Tâm hồn nghèo hèn và
khiêm tốn là thế. Trước Thiên Chúa, Đấng Toàn Năng và Đấng Tối Cao, Đấng Yêu
Thương và Đấng Nhân Hậu, Mẹ Maria, một nữ tỳ hèn mọn, luôn ý thức được sự hư vô
của mình.
Thật vậy, có thể nói rằng, đại diện cho toàn nhân loại,
với lòng khiêm tốn thẳm sâu Mẹ chúc tụng danh Thánh Thiên Chúa chí tôn chí
thánh. Nhà Thánh Kinh học Nobert Lohfink suy tư như sau: “Khi người nghèo hèn
đã được Thiên Chúa thực hiện điều lạ lùng và được mọi người ca tụng, thì chính
lúc đó hành động của Thiên Chúa sẽ được chúc tụng và tôn vinh. Sự chúc tụng tôn
vinh này được biểu lộ rõ rệt qua ‘danh Người thật chí thánh chí tôn!’.
Trong Cựu Ước, cụm từ ‘danh Người thật chí thánh chí tôn!’ có nghĩa là: Thiên
Chúa chú tâm đến việc Danh của Người cần được rao giảng ở khắp mọi nơi và cụ
thể hơn với một sứ điệp tích cực là: sự Thánh Thiện của chính Người, nghĩa là
Danh Thánh của Người”.[17]
Ngoài ra, “tâm tình ca ngợi danh thánh Chúa của Mẹ Maria
nhắc nhớ chúng ta một điều, đó là hành động của Thiên Chúa luôn tương hợp với
bản chất của Ngài. Bản chất của yêu thương, của lòng nhân từ vô bờ bến. Về điều
này, François Bovon đã nói rằng : ‘Trong sự trung thành với danh Thánh của
mình, nghĩa là trung thành với chính mình, Thiên Chúa cứu rỗi dân của Ngài’. Và
tất cả những người được cứu đều biết đến Danh Thánh của Đấng Cứu Rỗi, bằng cách
họ đã đón nhận và được sống trong ân sủng và tình yêu thương của Đấng Cứu Rỗi.
Trong Cựu Ước, thánh vịnh gia cũng đã thốt lên : ‘Người đem
lại cho dân ơn giải thoát, thiết lập giao ước đến muôn đời. Tôn danh Người
thánh thiêng khả uý’ (Tv 111,9). Như vậy, Mẹ Maria đã cảm
nghiệm sâu xa ân sủng cứu rỗi và yêu thương của Thiên Chúa, vì thế với tất cả
tâm hồn Mẹ đã thốt lên lời ca ngợi tuyệt vời như vậy. Và không chỉ Mẹ, mà tất
cả chúng ta, ai khám phá dấu ấn tình yêu Thiên Chúa trong đời mình, đều muốn
thốt lên như thế”.[18]
Thánh Bê-đa Khả Kính chia sẻ như sau: “Đấng toàn
năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, Danh Người thật chí thánh
chí tôn”. Điều này có liên quan đến lời mở đầu bài thánh ca: Linh hồn
tôi ngợi khen Đức Chúa. Hẳn chỉ có linh hồn được Đức Chúa đoái
thương làm cho những việc trọng đại, mới có thể ngợi khen Người, bằng những lời
tán dương xứng hợp, và mới có thể mời người khác chia sẻ ước nguyện và ý hướng
của mình khi nói: Hãy cùng tôi ngợi khen Đức Chúa, ta đồng thanh tán tụng danh Người.
Quả thật, ai biết Thiên Chúa mà lại chểnh mảng, không làm
hết sức để ngợi khen Người, để làm cho danh thánh Người vinh hiển thì sẽ bị coi
là người nhỏ nhất trong Nước Trời. Danh Người được gọi là thánh,
bởi vì Người có quyền năng vô song và do đó, Người vượt trên mọi loài thụ tạo
và tách biệt hẳn với nhân loại Người đã dựng nên”.[19]
Tâm tình của Mẹ đưa chúng ta trở về với kinh Lạy Cha do
chính Chúa Giê-su dạy: “Xin cho Danh Cha được cả sáng”. “Khi chúng ta cầu
nguyện ‘xin làm cho danh thánh Cha được vinh hiển’, là
chúng ta đang ao ước tất cả mọi người trên thế giới này đều khám phá được Thiên
Chúa, Đấng là Cha trên trời và cũng là Cha dưới đất, người Cha nhân từ, người
Cha luôn đứng chờ con ở cửa nhà, và vui mừng hớn hở khi thấy con đi hoang trở
về.
Và lúc con mới xuất hiện ở đầu làng, Cha đã chạy đến ôm
lấy con mình, hôn lấy hôn để khuôn mặt lấm bụi đời của con. Nụ hôn và vòng tay
của Cha trả lại cho con tư cách làm con, đeo lại cho con chiếc nhẫn của tình
cha con, mặc cho con chiếc áo mới nhất, tẩy sạch tất cả những gì ô uế trên thân
mình con, và mở tiệc mừng con trở về và sống lại với con bê đã vỗ béo (x.Lc
15,11-32).
Tất cả cần phải ăn mừng, mọi người đều hân hoan dâng lời
ca tụng như Mẹ Maria: ‘Đấng Toàn Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người
thật chí thánh chí tôn!’ Và tiếp tục kêu xin: xin
làm cho danh thánh Cha được vinh hiển”.[20]
Danh thánh chí tôn chí thánh của Thiên Chúa luôn tìm thấy
sự vinh hiển nơi con người trần thế, đặc biệt nơi Mẹ Maria, là mẫu gương của
niềm tin. Với niềm tin của Mẹ, Mẹ trở nên người diễm phúc. “Muôn thế hệ sẽ khen
Mẹ là Đấng diễm phúc, không phải vì chính sức mạnh của Mẹ cũng như không phải
do công nghiệp của Mẹ, mà Mẹ được khen ngợi là diễm phúc, vì Chúa đã thực hiện
điều lạ lùng nơi Mẹ. Vì thế, Mẹ Maria đã diễn tả lời chúc phúc mà Mẹ nhận được,
cũng như Mẹ đã cao rao ca tụng lòng thương xót của Thiên Chúa”[21]:
“Đời nọ tới đời kia,
Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người”.
Trước đó, Mẹ đã cao rao Danh Thánh chí tôn, nghĩa là sự
thánh thiện của Thiên Chúa, tiếp theo là Mẹ ca tụng lòng thương xót của Thiên
Chúa. Thật vậy, giữa sự thánh thiện của Thiên Chúa và lòng thương xót của Thiên
Chúa luôn có sự nối kết chặt chẽ. Sự thánh thiện được bộc lộ qua lòng thương
xót của Chúa nói lên sự khác biệt và sự vượt trổi của Thiên Chúa so với những
gì thuộc về trần thế và thuộc về sự dữ. Sự thánh thiện này, tiên tri I-sai-a đã
nhắc đến với ba lần cao rao: “Thánh! Thánh! Chí Thánh! Đức Chúa các đạo binh là Đấng Thánh! Cả
mặt đất rạng ngời vinh quang Chúa!” (Is 6,3).
Trước những lời tung hô đó con người cần phải cẩn trọng,
không được xúc phạm đến Thiên Chúa, không được coi thường Ngài và lòng thương
xót của Thiên Chúa. Hơn nữa, con người cũng không được phép biến Thiên Chúa
thánh thiện và tràn đầy lòng thương xót, thành một người ngốc nghếch không biết
gì.
Và con người cũng không được phép lấy Thiên Chúa ra làm
trò cười cho mình, hay chế diễu Thiên Chúa. Con người là ai? Trí thông minh con
người lớn cỡ nào? Sức con người mạnh đến mấy? Một cơn gió thổi qua cũng đủ làm
cho những con người thông minh nhất, kiêu hãnh nhất và mạnh mẽ nhất có thể gục
ngã. Thiên Chúa thánh thiện thương xót con người. Đó là một điều rất tuyệt vời
mà con người cần chiêm ngắm và cảm tạ.
Thương xót trong
tiếng Do Thái là hesed. Theo thần học gia ĐHY. Walter Kasper, từ ngữ
quan trọng nhất diễn tả lòng thương xót là hesed. Hesed diễn đạt những ý nghĩa như ân huệ, dễ
thương, và cũng có ý nghĩa ân sủng của Thiên Chúa và lòng thương xót. Ý nghĩa
của từ ngữ hesed vượt trên sự rung động hay tội nghiệp về
những khổ đau của người khác, và chỉ về sự chú ý tràn đầy tự do và từ bi của
Thiên Chúa đối với con người. Hơn nữa, từ ngữ hesed không
chỉ về một hành động tạm thời, mà chỉ về hành động kéo dài.
Như thế, hướng về Thiên Chúa, từ ngữ hesed này
diễn tả ân sủng của Thiên Chúa dành cho con người. Ân sủng này của Thiên Chúa
vượt trên tính hợp lý của tương quan giữa hai người trung thành với nhau. Nghĩa
là dù con người có bất trung và bội phản, thì Thiên Chúa vẫn thương xót, và
Ngài không bao giờ bỏ rơi con người. Ân sủng này của Thiên Chúa còn mang tính
cách nhưng không vô điều kiện, và vượt trên mọi sự chờ đợi của con người. Tóm
lại, ân sủng này của Thiên Chúa làm tan vỡ mọi chuẩn mực và thước đo của con người.
Thiên Chúa quyền năng và thánh thiện đón nhận hoàn cảnh
đầy khổ đau và tội lỗi của con người, Ngài đã nhìn thấy cảnh đời oái ăm của
người nghèo nàn và bất hạnh, Ngài đã đón nhận lời kêu van của họ, Ngài đã cúi
mình xuống và tự hạ mình xuống, Ngài đã đi xuống với người đang chìm mình trong
khổ đau, và dù cho bao sự bất trung của con người, Ngài vẫn tiếp tục đón nhận,
tha thứ và ban cho con người những cơ hội mới, dù cho con người lẽ ra cần phải
chịu những hình phạt vì những tội lỗi họ gây ra.
Tất cả những điều này của Thiên Chúa vượt trên mọi kinh
nghiệm bình thường và sự chờ đợi của con người, vượt trên mọi mường tượng và
suy nghĩ của con người. Trong sứ điệp của hesed, Thiên Chúa
tự mạc khải một phần nào mầu nhiệm của Thiên Chúa.[22]
Lòng thương xót của Thiên Chúa không chỉ được biểu lộ qua
từ ngữ, mà đặc biệt qua lịch sử ơn cứu độ của Thiên Chúa đối với nhân loại. Lật
lại các trang Thánh Kinh, chúng ta khám phá được lòng thương xót sâu xa của
Thiên Chúa ngay từ công trình sáng tạo. Rồi khi con người sa ngã, lòng thương
xót của Thiên Chúa vẫn tỏ lộ.
Khi đuổi con người ra khỏi vườn địa đàng, Thiên Chúa đã
ban cho con người áo quần mặc, để con người có thể tự che chở trước đe doạ của
thiên nhiên, và che đậy sự xấu hổ của con người với nhau, cũng như gìn giữ phẩm
giá của con người (x.St 3,21). Hơn nữa, dù có phạt Cain về tội giết em, nhưng
Thiên Chúa vẫn bảo vệ Cain, Ngài đã ghi dấu trên Cain, để bất cứ ai gặp ông
không giết ông (x.St 4,15).
Cuối cùng Thiên Chúa đã tạo cho ông Nôe một cơ hội mới để
bắt đầu một cuộc sống mới, sau trận lụt hồng thuỷ. Thiên Chúa đã ban phúc lành
cho ông Nôe và con cháu ông, Ngài lập lại trật tự và ký kết giao ước tình yêu
che chở con người mang hình ảnh của Ngài (x.St 8 và 9).
Nhưng như vậy cũng chưa đủ cho con người. Tính kiêu căng
của con người không có điểm kết. Con người lại xây dựng tháp Babel cao ngất tới
trời cao. Sự kiêu ngạo đã đưa con người tới tình trạng hỗn loạn của ngôn ngữ,
con người không còn hiểu nhau được nữa, vì thế con người đã chia cách nhau và
tràn lan khắp mặt đất (x.St 11).
Một lần nữa Thiên Chúa lại không để con người bất trung
và bội phản cô đơn lẻ loi với số phận của họ. Ngài đã chống lại hỗn loạn và
thảm hoạ. Với việc kêu gọi ông Áp-ra-ham, Thiên Chúa đã bắt đầu một trang sử
mới với con người (x.St 12,1-3).
Với Áp-ra-ham Thiên Chúa viết trang sử cứu độ con người.
Trong Áp-ra-ham, tất cả mọi người trên trái đất được Thiên Chúa chúc phúc.
Trong câu chuyện của Áp-ra-ham, người ta có thể đọc được những lời nói diễn tả
tình thương và sự trung thành của Thiên Chúa (x.St 24,12.14.27; 32,11). Đó là
khởi đầu của câu chuyện nói về hành động tràn đầy lòng thương xót của Thiên
Chúa đối diện với biết bao tội lỗi con người gây ra, đối diện với hỗn loạn và
thảm hoạ của tội lỗi.
Ngay từ ngày đầu tiên, lòng thương xót của Thiên Chúa đã
được thực hiện rõ ràng. Lòng thương xót của Thiên Chúa cũng là cách thức hành
xử của Thiên Chúa với sự dữ luôn đe doạ con người. Cách hành xử và hành động
xót thương của Thiên Chúa tương phản với sự dữ và hỗn loạn cùng thảm hoạ của
nó. Cách hành xử và hành động của Thiên Chúa không nhuốm màu bạo lực. Ngài
không tự nhiên xen vào ngay, nhưng với lòng thương xót Ngài tạo cho con người
những cơ hội mới, và tái lập sự sống mới với không gian được Chúa chúc lành.[23]
Trong Tân Ước chúng ta thấy rõ rệt Thiên Chúa tiếp tục
thể hiện lòng thương xót của Người qua Chúa Giê-su cách sống động. Trong tông
sắc về năm Thánh lòng thương xót của Thiên Chúa (từ 08.12.2015 đến 20.11.2016),
Đức Phanxicô đã viết: “Vào ‘thời viên mãn’ (Gl 4,4), một khi tất cả mọi thứ đã
được sắp xếp theo đúng kế hoạch cứu rỗi của Ngài, Ngài đã sai Con Một Ngài
xuống thế gian, sinh bởi Đức Nữ Đồng Trinh Maria, để biểu lộ tình yêu của Ngài
cho chúng ta một cách quyết liệt. Bất cứ ai nhìn thấy Chúa Giê-su cũng là thấy
Chúa Cha (x.Ga 14,9). Chúa Giê-su thành Na-da-rét, qua lời nói, hành động và
toàn bộ con người của Ngài đã thể hiện lòng thương xót của Thiên Chúa” (số 01).
Chiêm ngắm Chúa Giê-su, chúng ta thấy Ngài là một Thầy
dạy đúng nghĩa trọn vẹn, nên lời giảng của Chúa Giê-su luôn đi đôi với đời sống
của Ngài. Lời và đời sống là một nơi Chúa Giê-su. Ngài đã sống tinh thần lòng
thương xót của Thiên Chúa cách sống động. Ngài đã chữa lành cho người bị thần ô
uế ám, Ngài đã thương nhìn đến và lắng tai nghe người đui mù hành khất kêu xin.
Ngài đã tự mình mời người phụ nữ còng lưng đang nghe Ngài giảng trong hội đường
ra giữa mọi người, để chữa lành cho bà và trả lại cho bà sự thẳng
đứng của cuộc đời.
Ngài đã cảm nhận được sự khổ đau tột bậc không chỉ của
thân xác, mà cả tinh thần của người phong hủi và đã đáp lời anh, khi anh lên
tiếng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch”.
Đặc biệt, lòng thương xót được Chúa dành cho những người tội lỗi có lòng ăn năn
hối cải: “Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi
không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc
2,17).
Người phụ nữ tội lỗi nổi tiếng trong thành, đứng đàng sau
sát chân Chúa và khóc. Giọt nước tuôn trào trên đôi chân Chúa. Ngài không rút
chân lại, mà Ngài vẫn để vậy, đến nỗi những giọt nước mắt kia làm ướt đẫm chân
Chúa. Không chỉ thế, người phụ nữ quỳ xuống và dùng mái tóc để lau chân Chúa.
Chân Ngài vẫn không rút lại. Đôi chân ướt đẫm các giọt nước mắt thống hối ăn
năn giờ cần được lau khô. Lòng thương xót của Thiên Chúa không bao giờ chỉ dừng
lại ở những giọt nước mắt ăn năn.
Nước mắt cần chảy đấy. Nhưng chảy rồi, nước mắt cần được
lau khô, được lau sạch, để dọn chỗ cho lòng thương xót tràn đầy sự tha thứ của
Chúa. Cũng nổi tiếng tội lỗi, Gia-kêu, một tay thu thuế tham lam, khi gặp Chúa
và chính Ngài muốn đến nhà của ông, vì hôm nay ơn cứu độ và lòng thương xót của
Chúa cần đến thăm ông, để tha thứ, để thánh hoá và để dọn cho ông một con đường
mới. Khi bị treo trên cây Thánh Giá, lòng thương xót của Chúa Giê-su vẫn không
hề tắt. Ngài đã lên tiếng với kẻ tử tội có lòng thống hối ăn năn: “Tôi bảo
thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc
23,43).[24]
Trở về với dung mạo của Mẹ Maria, chúng ta thấy dựa trên
lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa, Mẹ Maria tin tưởng và hy vọng tuyệt đối
vào Thiên Chúa và sức mạnh của niềm hy vọng này được diễn tả thật đẹp qua các
lời kế tiếp:
“51 Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh,
dẹp tan phường lòng trí kiêu căng.
52 Chúa hạ bệ những ai quyền
thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường.
53 Kẻ đói nghèo, Chúa ban
của đầy dư,
người giàu có, lại đuổi về tay trắng”.
Lời của Mẹ Maria kể về chính biến cố của dân tộc Mẹ và
lịch sử cứu độ của Thiên Chúa dành cho dân tộc Mẹ được tiếp nối nơi Mẹ
Maria: “Người Ai Cập đã ngược đãi, hành hạ chúng tôi và đặt ách nô lệ
trên vai chúng tôi. Bấy giờ chúng tôi đã kêu lên cùng Đức Chúa, Thiên Chúa của
cha ông chúng tôi; Người đã nghe tiếng chúng tôi, đã thấy cảnh khổ cực, lầm
than, áp bức chúng tôi phải chịu. Đức Chúa đã dang cánh tay mạnh mẽ uy
quyền, đã gây kinh hồn táng đởm và thực hiện những dấu lạ điềm thiêng, để đưa
chúng tôi ra khỏi Ai-cập. Người đã đưa chúng tôi vào đây, ban cho chúng
tôi đất này, đất tràn trề sữa và mật” (Đnl 26,6-9).
Trong lịch sử cứu độ của Thiên Chúa, những sức mạnh đen
tối dù lớn lao đến mấy đều bị chính Thiên Chúa quyền năng dẹp tan và triệt hạ.
Đó là Pha-ra-ô trong biến cố dân Do Thái vượt qua biển đỏ, là những kẻ thù của
dân tộc Do Thái trong thời các quan án, là những thủ lãnh hùng mạnh của
Ba-by-lon. Thiên Chúa đã lật đổ tất cả những thế lực của đêm đen đầy kiêu ngạo,
và Ngài chú ý nâng đỡ những phận người khiêm nhu, đói khổ và nghèo hèn không
nơi nương tựa.
Mẹ Maria đã cho chúng ta nhận ra rằng, tất cả những ai
kiêu hãnh và cậy dựa vào sức mạnh, vào quyền thế và vào của cải vật chất của mình,
sẽ không tìm thấy được con đường đến với Thiên Chúa, vì chính họ đã đóng trái
tim họ lại bởi chính những điều họ đang bám víu.
Còn với những người khiêm nhu và hèn mọn, thì họ chẳng có
gì để cậy dựa và họ cũng ý thức về sự hư vô đơn hèn của mình, nên họ mở lòng ra
với Thiên Chúa. Người sẽ đón nhận họ và mở cho họ một con đường để đến với
Người, nơi đó họ tìm thấy sự ấp ủ, chở che, niềm tin và niềm hy vọng. Thiên
Chúa thật là nơi họ nương náu.
Lời ca này của Mẹ Maria đưa chúng ta đến với những mối
phúc của Chúa Giê-su: Phúc cho ai nghèo hèn, khóc lóc và đói khổ, vì họ có Chúa
ở bên, quan tâm đến họ. Người không bao giờ quên họ và không bao giờ bỏ rơi họ.
Người luôn độ trì họ, vì Người là Thiên Chúa tín trung và yêu thương.
“54 Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người,
55 như đã hứa cùng cha ông
chúng ta,
vì Người nhớ lại lòng thương xót
dành cho tổ phụ Áp-ra-ham
và cho con cháu đến muôn đời”.
Thời gian ân sủng của Mẹ Maria cũng là thời gian ân sủng
của dân tộc Mẹ. Trong phần đầu của bài ca Magnificat Mẹ đã ca tụng ân sủng
Thiên Chúa ban tặng cho Mẹ, và giờ đây ở những câu cuối cùng của bài hát Ngợi
Ca, Mẹ ca tụng ân sủng Thiên Chúa ban tặng cho dân tộc Mẹ. Mẹ và dân tộc Mẹ là
một. Cả hai đều được Thiên Chúa tín trung độ trì, tỏ lòng thương xót.
Câu truyện đời Mẹ được hoà quyện vào trong câu truyện của
dân tộc Mẹ. Martini chiêm ngắm Mẹ Maria và đã nói như sau: “Đức Maria cảm
nghiệm nhận thức của Mẹ nối kết với nhận thức của cả dân tộc, nhận thức mình
được yêu thương, được tuyển chọn và được nâng đỡ bởi Thiên Chúa”.[25]
Còn Nobert Lohfink thì giải thích: “Ở phần cuối này Đức
Maria đã liên hệ đến lời của tiên tri I-sai-a: ‘Nhưng phần ngươi, hỡi Ít-ra-en,
tôi tớ của Ta, hỡi Gia-cóp, kẻ Ta tuyển chọn, dòng dõi Áp-ra-ham, bạn của Ta’ (Is
41,8), và Mẹ đã nêu bật tư cách của dân Chúa với cụm từ tôi tớ
Thiên Chúa. Điều này cho chúng ta nhớ lại phần mở đầu của kinh
Magnificat mà Mẹ đã tự coi mình là ‘nữ tỳ’ của Thiên Chúa.
Như thế, điều lạ lùng mà Thiên Chúa đã vừa thực hiện nơi
Mẹ, một nữ tỳ, không gì khác hơn là điểm cuối cùng hội tụ tất cả mọi điều lạ
lùng mà Người đã thực hiện cho tôi tớ của Người là dân tộc Ít-ra-en. Thật vậy,
ở trong Mẹ Maria chắc chắc hội tụ tất cả lịch sử của Ít-ra-en và qua lòng
thương xót của Thiên Chúa ơn cứu rỗi cho thế giới được biểu lộ”.[26]
Mẹ đã cao rao lời ca tụng sự tín trung và lòng thương xót
của Thiên Chúa. Tất cả những gì Thiên Chúa đã hứa với tổ phụ và tổ tiên Mẹ là
Áp-ra-ham, giờ đây được thực hiện nơi Mẹ và nơi tất cả những người con của dân
tộc Mẹ. Lòng thương xót và ơn cứu độ của Thiên Chúa vượt trên mọi thời gian và
mọi không gian, vì Thiên Chúa là Đấng Yêu Thương và quyền năng không biết đến
bất cứ biên giới nào mà con người đặt ra.
Để kết thúc phần suy niệm bài ca Magnificat tuyệt vời của
Mẹ Maria, chúng ta cùng Martini tự hỏi về chính bài ca Magnificat của mỗi người
chúng ta sẽ là bài như thế nào: “Bài Magnificat của chúng ta sẽ như thế nào
đây? Chúng ta sẽ dùng những lời lẽ nào? Chúng ta sẽ nhắc đến các biến cố nào
xảy ra trong đời chúng ta? Chúa đã can thiệp trong cuộc sống chúng ta như thế
nào và chúng ta có những gì để cám ơn Ngài?
Mỗi người chúng ta phải có can đảm để mở lòng ra, để khám
phá những giờ phút quan trọng mà Chúa đã can thiệp vào cuộc đời mình. Chúng ta
hãy tưởng nhớ bao nhiêu điều tốt lành, bao nhiêu tình thương người khác đã dành
cho chúng ta, hãy hồi tưởng những cuộc gặp gỡ đã mang lại niềm vui và phấn chấn
lòng tin của chúng ta, từ khi chúng ta lãnh nhận bí tích Rửa Tội cho đến hôm
nay.
Chúng ta hãy nhớ lại chúng ta đã cùng gặp gỡ Thiên Chúa
cứu độ, Thiên Chúa muốn cứu thoát, Thiên Chúa đuổi người giàu có trở về tay
không, và ban của dư đầy cho người nghèo khó. Chúa cứu độ chúng ta trước hết,
vì chúng ta đói khát và nghèo khổ, rồi còn những người khác nữa.
Chúng ta hãy tự hỏi: gặp gỡ được Thiên Chúa và tha nhân
đã giải thoát chúng ta khỏi những lo âu nào? Các thực tại nào đã bừng sáng lên
trong cuộc đời, khi chúng ta tháp nhập vào niềm hy vọng của Nước Trời? Chúng ta
hãy tự hỏi Chúa muốn chúng ta làm gì, nếu chúng ta đứng về phía những người
nghèo?”[27] Sau
khi đã hát bài Ca Ngợi rất tuyệt vời đó, thánh Luca cho chúng ta biết
rằng: “Bà Maria ở lại với bà Ê-li-sa-bét độ ba tháng, rồi trở về nhà”.
Câu truyện kể về cuộc gặp gỡ giữa hai người phụ nữ, một
cao niên và một trẻ trung, thật đẹp. Cái đẹp của tinh thần công chính, cái đẹp
được Chúa đoái thương và chọn gọi. Giờ đây chúng ta cùng với hai người phụ nữ
đặc biệt này, bà Ê-li-sa-bét và Mẹ Maria hướng về với Thiên Chúa tình yêu, để
cùng ca tụng, tôn vinh và cầu nguyện với Người qua những suy tư và gợi ý sau:
“Bà Maria vội vã lên đường”. Thánh Luca diễn tả thật đơn giản, nhưng quyết định để ra
đi chắc chắn không dễ dàng. Vào thời đó, vấn đề đi xa thật nguy hiểm, nhất là
đối với thiếu nữ đã đính hôn và giờ lại đi xa một mình. Nhưng Cô Trinh Nữ không
chậm trễ, mà vội vã lên đường theo lời mời gọi của Thiên Chúa, một cuộc lên
đường với niềm vui và sự nhanh lẹ.
Đời người được hội tụ với những cuộc lên đường. Có lúc là
đoạn đường thật dài, có lúc đoạn đường lại rất ngắn. Nhưng những cuộc lên đường
được Thiên Chúa mời gọi dù dài dù ngắn đều mang một ý nghĩa và giá trị sâu xa.
Chúng ta xin Chúa cho chúng ta noi gương Mẹ Maria, sẵn sàng nhanh lẹ lên đường,
khi được Chúa mời gọi. Trên đường đó chúng ta luôn khiêm tốn và mở lòng ra để
Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn và thúc đẩy, có như thế chúng ta sẽ tìm thấy được
niềm vui, tìm được đích đến là chính Hài Nhi Giê-su. Nào chúng ta cùng thờ lạy
Chúa trong máng cỏ đơn sơ và nghèo hèn.
Mẹ Maria lên đường và đến thăm hai cụ cao niên, là ông
Da-ca-ri-a và bà Ê-li-sa-bét. Mẹ đến và đem Chúa đến cho hai ông bà. Đó là một
hành động rất đẹp trong đời sống Đức Tin và tâm linh. Em-ma-nu-en nghĩa là
Thiên Chúa ở cùng chúng ta. Mỗi người chúng ta hôm nay, ai ai cũng cần có Chúa,
dù cho thế giới và xã hội có làm ngơ Chúa đến mấy, và dù cho nhiều người đang
đẩy Chúa ra khỏi ánh mắt nhìn của họ. Càng quay lưng đi với Chúa, thì nhân loại
càng cần đến Chúa. Vì nếu xã hội chúng ta vắng bóng Thiên Chúa, thì biết bao điều
tệ hại sẽ xảy ra, cuộc sống con người sẽ mất dần ý nghĩa và trở nên tẻ nhạt.
Sứ mạng của ngày Giáng Sinh mà các Ki-tô hữu đón nhận là
gì? Là đưa Chúa đến cho anh chị em khác, như Mẹ Maria đã làm. Xin mời bạn cùng
tôi nhìn đến môi trường xung quanh, trong gia đình, hàng xóm, hãng xưởng. Chúng
ta cùng suy xét xem nơi nào và những ai đang cần được đón nhận Chúa, và chúng
ta hãy xin ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta biết đưa Chúa đến nơi đó và
cho những anh chị em đó.
“Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu
mang cũng được chúc phúc”. Người
phụ nữ cao niên hơn, bà Ê-li-sa-bét, mở lời chúc mừng cô trinh nữ Maria, vì cô
trinh nữ đã đón nhận ơn quá đặc biệt từ trời cao, nên cô được chúc phúc hơn tất
cả các phụ nữ khác. Phúc lành lớn lao là phúc lành được Chúa ở cùng. Cùng đến
chiêm ngắm Hài Nhi Giê-su trong máng cỏ. Thật nhẹ nhàng và trong tĩnh lặng,
chúng ta xin Chúa hoạt động trong chúng ta, và cho chúng ta có được sự cảm nhận
sống động Chúa ở với chúng ta trong cõi lòng thâm sâu của chúng ta. Hãy ở lại
lâu bao nhiêu có thể cảm nhận cao quý này. Đó là phúc lành của Trời Cao ban
xuống, phúc lành mà đất thấp này không thể dùng bất cứ thứ gì để mua
được.
Bài ca ngợi của bà Ê-li-sa-bét được kết với lời cũng thật
đẹp về Mẹ Maria: “Em thật có phúc, vì đã tin rằng Chúa sẽ thực hiện những gì Người
đã nói với em”. Một lần nữa Mẹ Maria được ca ngợi là người có
phúc, nhưng phúc lành ở lần này dựa trên chính niềm tin của Mẹ: “vì (em) đã tin
rằng”. Như thế, phúc lành đi với niềm tin. Chúng ta nhìn lại hành trình Đức Tin
của mình, và xem xét kỹ lưỡng về “chữ phúc” đã được viết ra như thế nào trong
cuộc sống của mỗi người chúng ta, một người tin vào Chúa. Nếu bạn muốn, khi cầu
nguyện trước Hài Nhi Giê-su trong máng cỏ, bạn lấy ra một tờ giấy và viết lại
thật đẹp những lần “chữ phúc” được chính Thiên Chúa tô vẽ trên trang giấy đời
sống Đức Tin của bạn. Cuối cùng với trang giấy đó, bạn hãy tâm sự với Hài Nhi
Giê-su.
Đi đôi với niềm tin của Mẹ được bà Ê-li-sa-bét ca ngợi là
chính hành động của niềm tin mà Mẹ thực hiện. Thiên Chúa hoạt động để cứu độ
con người, nhưng Thiên Chúa cần đến sự cộng tác của con người, để sự cứu độ
được kiện toàn. Sự cộng tác và tham gia của con người chính là niềm tin được
biểu lộ qua việc làm. Lời của thánh Gia-cô-bê tương hợp với mẫu gương Mẹ Maria:
“Đức Tin không việc làm là Đức Tin chết”. Chúng ta cùng ý thức xem xét nghiêm
túc lại Đức Tin của mình. Chúng ta đang sống Đức Tin thực sự hay không? Có
khoảnh khắc nào hay thời điểm nào Đức Tin của chúng ta “sống cách thật sống động”
và khi nào thì Đức Tin của chúng ta đã “chết” trong khô khan và cằn cỗi? Chúng
ta hãy dành chút thời gian và tâm sự với Mẹ Maria về tâm tình suy tư cầu nguyện
này.
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.
Phận nữ tỳ hèn mọn,
Người đoái thương nhìn tới”.
Tâm tình ca ngợi và tạ ơn này khởi đi từ chỗ sâu thẳm
nhất của con người Mẹ, nơi mà Mẹ đã được Thiên Chúa chạm đến và hoạt động cách
tuyệt vời. Trong lời ca ngợi này, Mẹ Maria đã “ra khỏi mình” và chỉ còn tập
trung vào chính Thiên Chúa là đối tượng và là chủ thể. Chính Thiên Chúa đoái
nhìn đến Mẹ, một phận nữ tỳ hèn mọn. Mẹ Maria tự kể mình trong hàng hèn mọn,
nhỏ bé và nghèo nàn. Mẹ dâng lên bài ngợi ca này trong thân phận người nghèo
của Thiên Chúa.
Martini tự hỏi về chính bài ca Magnificat của mỗi người
chúng ta sẽ là bài như thế nào: “Bài Magnificat của chúng ta sẽ như thế nào
đây? Chúng ta sẽ dùng những lời lẽ nào? Chúng ta sẽ nhắc đến các biến cố nào
xảy ra trong đời chúng ta? Chúa đã can thiệp trong cuộc sống chúng ta như thế
nào và chúng ta có những gì để cám ơn Ngài?”
Kết thúc bài suy niệm, chúng ta cùng cao rao thánh thi
chúc tụng và dâng lời cầu nguyện lên Thiên Chúa, Đấng Yêu Thương:
“Ðấng cả địa cầu đại dương tinh tú
Hằng tin yêu và thờ lạy kính tôn,
Ðấng trị vì khắp vũ trụ càn khôn,
Nay lại muốn đầu thai trong lòng Mẹ.
Ðấng bóng nguyệt vầng ô tuân chỉ thị,
Ðấng lấy thời gian điều khiển muôn loài
Ðã chẳng nề bằng phép lạ trinh thai
Ðể cho Mẹ cưu mang tròn chín tháng.
Mẹ diễm phúc vì giờ đây mang nặng
Chúa tạo thành trời đất cõi vô biên,
Ðấng Toàn Năng, tay nắm trọn uy quyền :
Thân xác Mẹ là Hòm Bia Giao Ước.
Người trinh bạch, thiên sứ chào diễm phúc,
Ðã thụ thai do quyền lực Thánh Thần
Vẫn tinh tuyền khi sinh hạ Thánh
Nhân,
Ðấng toàn thể muôn dân từng mong đợi.
Ôi Thánh Tử Giê-su đầy lân ái
Ðã sinh ra làm con Ðức Nữ Trinh,
Kính dâng Ngài, cùng Thánh Phụ, Thánh Linh
Bài ca tụng đến muôn đời muôn thuở.
Lạy Cha là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, khi Thánh Mẫu Maria vừa
cưu mang Chúa Giê-su, Cha đã soi sáng cho Thánh Mẫu đi thăm viếng bà
Ê-li-sa-bét. Xin cho chúng con hằng mau mắn nghe theo Chúa Thánh Thần hướng
dẫn, để được cùng Ðức Maria ngợi khen Cha muôn đời”.[28]
[1] Trích bài diễn giải của thánh Ambrôsiô, giám
mục, về Tin Mừng theo thánh Lu-ca (truyền tin). Trong giờ Kinh Sách ngày 21.12.
[2] X. Martini C. M., Con Đường
Tin Mừng của Đức Maria. S.29.
[3] Ravasi G., Die vier Evangelien.
Hinfuehrungen und Erklaerung. S.235.
[4] X. Martini C. M., Con Đường
Tin Mừng của Đức Maria. T.28.
[5] X. Martini C. M., Con Đường
Tin Mừng của Đức Maria. T.29.
[6] X. Martini C. M., Con Đường
Tin Mừng của Đức Maria. T.33.
[7] Cousin H., L’évangile de Luc. Commentaire
pastoral. Édition Centurion.Paris 1993. P.30.
[8] Ravasi G., Die vier Evangelien.
Hinfuehrungen und Erklaerung. S.235.
[9] Martini C. M., Con Đường
Tin Mừng của Đức Maria. T.31.
[10] Cousin H., L’évangile de Luc. Commentaire
pastoral. P.31.
[11] Martini C. M., Con Đường Tin Mừng của Đức
Maria. T.32.
[12] Ravasi G., Die vier Evangelien.
Hinfuehrungen und Erklaerung. S.235-236.
[13] Martini C. M., Con Đường
Tin Mừng của Đức Maria. T.32.
[14] Martini, C.M., Cầu
nguyện như Chúa Giê-su đã dạy, Chuyển ngữ: Lm Montfort Phạm Quốc
Huyên O.Cist, NXB.Tôn Giáo 2013. T.32.
[15] Trích bài diễn giải của thánh Bê-đa khả kính
về Tin Mừng theo thánh Lu-ca. Giờ Kinh Sách ngày 22.12.
[16] Ravasi G., Die vier Evangelien.
Hinfuehrungen und Erklaerung. S.237.
[17] Lohfink N. Lobgesaenge der Armen: Studien
zum Magnificat. Kath. Bibelwerk Verlag. Stuttgart 1990. S.15.
[18] Nguyễn Ngọc Thế SJ., Lời kinh
Cha Mẹ dạy. Suy niệm Kinh Lạy Cha. NXB. Phương Đông. Gò-vấp 2012.
T.65-66.
[19] Trích bài diễn giải của thánh Bê-đa Khả Kính,
linh mục, về Tin Mừng theo thánh Lu-ca. Giờ Kinh Sách ngày 22.12.
[20] Nguyễn Ngọc Thế SJ., Lời kinh
Cha Mẹ dạy. Suy niệm Kinh Lạy Cha. NXB. Phương Đông. Gò-vấp 2012.
T.66.
[21] Lehmann K., Vor dem Wunder der Weihnacht.
Herder Verlag, Freiburg 1987. S.43.
[22] X. Kasper W., Barmherzigkeit,
Herder Verlag, Freiburg 2012. S.51.
[23] X. Kasper W., Barmherzigkeit.
S.52-53.
[24] Nguyễn Ngọc Thế SJ. Phúc
Thay. Tám Mối Phúc Thật. NXB. Tôn Giáo. Gò-vấp 2015. T.365-366.
[25] Martini C. M., Con Đường Tin Mừng của Đức
Maria. T.11.
[26] Lohfink N. Lobgesaenge der Armen: Studien zum Magnificat. S.21.
[27] Martini, C.M., Cầu nguyện như Chúa Giê-su đã
dạy. T.36-37.
[28] Trích từ Giờ Kinh Sách ngày lễ Đức Maria thăm viếng
bà Ê-li-sa-bét, ngày 31.5.