I. ÐỨC MARIA
MỘT TẤM GƯƠNG CHO GIÁO HỘI TRONG NHẬP THỂ.
1. "ÐẦY ÂN SỦNG"
ÐỨC
MARIA DẪN GIÁO HỘI TỚI VIỆC KHÁM PHÁ RA ÂN SỦNG CỦA THIÊN CHÚA.
"Hiện tôi có là gì là bởi ơn Thiên Chúa".
Bức thư
sống động của Thiên Chúa, Ðức Maria khởi đầu bằng một từ ngữ sâu
xa đến nỗi nó đã manh nha chứa đựng tất cả đời sống của Người. Ðó
là từ "ân sủng". Khi bước vào nhà Maria, thiên thần nói : "Vui lên, hỡi đầy ân sủng !" và
sau đó lại nói : "Maria, đừng sợ, vì Người đã đắc sủng nơi Thiên
Chúa" (Lc 1, 28 - 30).
Trong
lời chào, thiên thần đã không gọi tên Maria, mà chỉ gọi là "đầy ân
sủng" hay "được đầy ân sủng" (kêkharitômênê). Thiên thần không
nói : "Vui lên, hỡi Maria", mà là "Vui lên, hỡi đầy ân sủng". Ân
sủng, đó là chân tính sâu thẳm nhất của Ðức Maria. Maria là người
rất "quý giá" đối với Thiên Chúa ("cher" [quý giá] và "charité"
[lòng mến, đức ái] đều phát xuất từ một gốc : charis, có nghĩa là
ân sủng). Tất nhiên ân sủng nơi Ðức Maria tùy thuộc vào sứ mạng
làm Mẹ Ðấng Mêsia mà thiên thần loan báo, nhưng điều đó chưa giải
thích hết ân sủng nơi Ðức Maria. Maria không phải chỉ là một chức vị,
mà trước hết, là một con người, và chính con người Ðức Maria là điều
Thiên Chúa quý giá từ muôn thuở.
Như thế,
Maria là lời công bố sống động và cụ thể rằng, ngay từ khởi thủy
đã có ân sủng trong các mối quan hệ giữa Thiên Chúa và thụ tạo
của Người. Ân sủng là mảnh đất, là nơi chốn thụ tạo có thể gặp
được Ðấng dựng nên mình. Cũng thế, trong Kinh Thánh, Thiên Chúa được
trình bày như là Ðấng giàu ân sủng, nghĩa là đầy tràn ân sủng (x. Xh
34, 6). Thiên Chúa đầy ân sủng theo nghĩa chủ động (actif) vì là Ðấng
"đổ đầy" ân sủng, còn Ðức Maria cũng như với mỗi thụ tạo đầy ân
sủng theo nghĩa thụ động (passif), bởi lẽ người "được đầy" ân sủng. Ðứng
giữa là Ðức Kitô, Vị trung gian, Ðấng "đầy ân sủng" (Yn 1, 14) theo cả
hai nghĩa : nghĩa chủ động và nghĩa thụ động. Trong tư cách là Thiên
Chúa và là Ðầu của Giáo Hội, Ngài ban ân sủng, còn trong tư cách
là người, Ngài được Chúa Cha đổ đầy ân sủng và Ngài "lớn lên về
ân sủng" (Lc 2, 52). Chính qua ân sủng mà Thiên Chúa "nghiêng" mình
cúi xuống trên các thụ tạo của Người. Ân sủng là mưa móc đầy tràn
đong đầy hố thẳm khát khao Thiên Chúa của nhân loại. Thánh Yoan nói
: "Thiên Chúa là Tình Yêu" (1Yn 4, 8) và điều này đưa tới hệ luận :
Bên ngoài đời sống Ba Ngôi là ân sủng. Thực vậy, chỉ trong lòng Ba
Ngôi, trong các tương quan giữa Ba Ngôi Thiên Chúa với nhau thì tình
yêu của Thiên Chúa mới là một tương quan thuộc bản tính, nghĩa là
một sự tất yếu. Còn bên ngoài và trong mọi trường hợp khác thì tình
yêu đó là ân sủng, nghĩa là ân ban (don). Cha yêu con, đó không phải
là một ân sủng hay ân ban, mà là một đòi hỏi của tình phụ tử, và
theo một nghĩa nào đó, thì đó là bổn phận. Còn việc Người yêu thương
chúng ta thì hoàn toàn là ân sủng, là ân huệ mà Thiên Chúa tự do
ban phát, còn chúng ta thì không xứng với ân huệ đó.
Thiên
Chúa của Kinh Thánh không chỉ "ban" ơn, Người còn "là" ân sủng. Người
ta đã nhận thấy câu 33, 19 trong sách Xuất Hành : "Ta ban ơn cho kẻ Ta
ban ơn" có cùng một cấu tạo như câu Xuất Hành 3, 14 : "Ta là kẻ Ta
là", rồi lời giải thích cũng tương tự như vậy. Trong Xuất Hành 34, 6
cũng thế : "Yavê đi qua trước mặt ông và hô : Yavê, Yavê, Thiên
Chúa chạnh thương, huệ ái, bao dung và giàu ân sủng". Thiên Chúa của
Kinh Thánh không chỉ là Ðấng "hiện hữu vì mình", Người còn là Ðấng
"hiện hữu vì chúng ta", nói khác đi, Người là ân sủng.
Maria như
một icône sống động về ân sủng nhiệm mầu đó của Thiên Chúa. Khi
nói về nhân tính Ðức Giêsu, thánh Augustino viết : "Con người đó, làm
thế nào để xứng đáng được là con độc nhất của Thiên Chúa, được
Ngôi Lời đồng vĩnh cửu với Chúa Cha đảm nhận trong sự duy nhất của
một Ngôi Vị Thiên Chúa ? Phần Ngài, Ngài đã làm được điều gì tốt
lành trước khi xảy ra sự kết hợp đó ? Trước đó, Ngài đã làm gì, đã
tin gì, đã khẩn xin gì để đạt tới phẩm vị cao vời khôn tả như thế ?".
bạn hãy tìm công phúc, tìm sự công chính và hãy suy nghĩ xem hoặc bạn
có tìm thấy điều gì khác hơn là ân sủng 1".
Những
lời này dọi một tia sáng đặc biệt lên tất cả con người Ðức Maria.
Về Ðức Maria, chúng ta càng phải nói mạnh hơn nữa : Maria đã làm gì
để xứng đáng được đặc ân để xem lại nhân tính cho Ngôi Lời ? Người
đã tin, đã cầu xin, cậy trông hay chịu đau khổ như thế nào để được
sinh ra thánh thiện và vô nhiễm ? Ở đây cũng thế, bạn hãy tìm xem
có công phúc, có sự công chính nào, tìm bất cứ điều gì bạn muốn,
xem bạn có thấy nơi Người điều gì khác ngoài ân sủng ngay từ giây
phút đầu. Ðức Maria có thể lấy lời của thánh Phaolô áp dụng cho
mình cách hết sức đúng nghĩa : "Hiện tôi có gì là bởi Ơn Thiên Chúa"
(1C 15, 10). Ân sủng, đó là lời giải thích trọn vẹn về Ðức Maria, về
sự cao trọng và vẻ đẹp của Người. Một thi sĩ (Cl. Péguy) viết : Sẽ
đến lúc người ta không còn có thể bằng lòng với vị thánh quan thầy
của mình, của thành phố mình, ngay cả đến những vị thánh quan thầy vĩ
đại nhất, mà cần phải lên đến người đẹp lòng Thiên Chúa nhất, gần
Chúa nhất. "Lên đến Ðức Maria, bởi Người đầy ân sủng 2".
Những lời thật đơn sơ mà cũng thật sâu thẳm. Ðúng thế, Maria là
Maria, bởi lẽ Người đầy ân sủng. Nói Maria đầy ân sủng đã là diễn
tả trọn vẹn về Người.
Ân sủng là gì ?
Vậy ân
sủng là gì ? Ðể khám phá ý nghĩa của ân sủng, chúng ta khởi sự từ
ngôn ngữ thông thường mọi người đều hiểu được. Nghĩa thông thường
nhất của ân sủng (grâce) là vẻ đẹp, vẻ duyên dáng đáng yêu (từ
duyên dáng dễ thương, charme, trong tiếng Pháp phát xuất từ
cùng một gốc với chữ charis, ân sủng). Nhưng đây không
phải là nghĩa duy nhất của từ. Khi chúng ta nói về một người bị kết
án tử hình rằng anh ta được ân xá (gracié) và được ân huệ, phải
chăng chúng ta muốn nói anh ta nhận được vẻ đẹp, vẻ duyên dáng hay sao
? Chắc chắn là không. Tuyên bố anh ta được ân xá (gracié) là chúng
ta muốn hiểu rằng anh ta được tha khỏi án phạt. Ðây thậm chí là nghĩa
đầu tiên của từ.
Trong
ngôn ngữ Kinh Thánh người ta thường nhận thấy cùng một ý nghĩa như
thế. Thiên Chúa phán : "Ta ban ơn cho kẻ Ta ban ơn, Ta thương xot kẻ Ta
thương xót". Ở đây ý nghĩa của ân sủng rõ ràng là ân huệ hoàn
toàn nhưng không, tự do, không vì lý do gì cả, cũng như trong Xuất
Hành 34, 6, Thiên Chúa được định nghĩa như là Ðấng "giàu ân sủng và
tín thành, giữ nghĩa cho đến ngàn đời". Thiên Chúa còn nói với Môsê
: "Ngươi đã được nghĩa (đặc sủng) với Ta" (Xh 33, 12), và đó cũng chính
là điều mà thiên thần nói với Ðức Maria : Người đã đắc sủng nơi
Thiên Chúa. Ở đây, một lần nữa ân sủng có nghĩa là ân huệ, là sự
đẹp lòng, vừa ý.
Trong
Kinh Thánh, ân sủng còn có một nghĩa khác gần với nghĩa chính nói
trên, ân sủng chỉ một phẩm chất gắn liền với tạo vật, đôi khi được
xem như hậu quả của Ơn Chúa làm cho tạo vật nên xinh đẹp, hấp dẫn,
đáng yêu. Chính theo nghĩa này mà người ta nói đến ân sủng (=diễm
lệ) "ứa tràn nơi đôi môi" của vị quân vương, vô song tuyệt mỹ giữa
thế nhân (x. Tv 45, 3). Cũng thế, người vợ đoan chính được xem như "Nai
tình yêu, nai tơ mỹ miều" (gracieuse, tính từ của grâce [Con
người 5, 19]).
Giữa hai
nghĩa trên ta có thể đặt mối liên hệ, nếu không phải trong chính các
từ ngữ thì ít là nơi thực tại được diễn đạt. Thiếu nữ tượng trưng
cho Israel, sở dĩ "ngày càng thêm xinh đẹp" đến mức có một sắc đẹp
tuyệt trần (x. Ez 16, 8tt), đó là do Thiên Chúa đến bên, đem lòng yêu
thương và kết ước với nàng, nghĩa là, nhờ bởi ân sủng Thiên Chúa.
Dù thế nào đi nữa, Kinh Thánh đã không hề nói điều ngược lại, nghĩa
là không bao giờ nói rằng chính vẻ đẹp hay sự tốt lành của tạo vật
đã khiến cho Thiên Chúa đem lòng sủng ái. Vẻ duyên dáng (grâce) của
tạo vật tùy thuộc sự sủng ái (grâce) của Thiên Chúa chứ không
phải ngược lại.
Trở lại
với Ðức Maria, lời chào của thiên thần hàm chứa hai nghĩa của ân
sủng mà chúng ta vừa làm sáng tỏ. Maria đã đắc sủng nơi Thiên Chúa
: Các dòng suối đổ đầy biển khơi như thế nào thì ân sủng cũng đổ
đầy tâm hồn của Maria như vậy. Sự đắc sủng của Môsê, của các tổ
phụ hay các tiên tri nơi Thiên Chúa sánh sao được với sự đắc sủng
của Ðức Maria ? Có ai được Chúa "ở cùng" đến mức như Ðức Maria ?
Thiên Chúa ở nơi Người không chỉ bằng quyền năng, bằng sự quan phòng
mà còn là sự hiện diện đích thân.
Thiên
Chúa không chỉ đem lòng sủng ái đối với Ðức Maria mà còn tự trao ban
trọn vẹn trong Con của Người. "Chúa ở cùng Người". Lời nói với Ðức
Maria ở đây có một ý nghĩa độc nhất vô nhị. Có sự tuyển chọn nào
nhắm mục đích cao hơn sự tuyển chọn Ðức Maria, bởi lẽ nó liên hệ
đến chính việc nhập thể của Thiên Chúa ?
Bởi
thế, Maria còn đầy ân sủng theo nghĩa thứ hai. Người rất đẹp, một vẻ
mà ta gọi là sự thánh thiện. Mẹ "tuyệt mỹ" (Tota pulchra), đó là lời
ca ngợi của Giáo Hội, mượn lời sách Diệu Ca (x. Dc 4, 1). Bởi được
sủng ái (gracié) nên Maria cũng thật yêu kiều (gracieuse). Trong bản
văn được trích dẫn ở trên, thi sĩ (Péguy) đã nối kết hai nghĩa của
từ ngữ đến mức thật tuyệt vời khi gọi Ðức Maria là "Người đầy
duyên bởi Người đầy ơn" (Celle qui est pleine de grâce parce qu’elle est
pleine de grâce). Nói khác đi, Người đầy duyên dáng, mỹ miều bởi
Người được đầy tràn sự sủng ái, tuyển chọn của Thiên Chúa. Maria
đẹp bởi Người được yêu.
Ân sủng
theo nghĩa này, cũng chính là sự thánh thiện của Ðức Maria, và nó
hàm chứa một nét đặc trưng, khiến Người trỗi vượt hơn bất cứ ai
khác dù trong Cựu Ước hay Tân Ước, về khía cạnh này. Ðây là một ân
sủng hoàn toàn thuần khiết mà Giáo Hội Latinh diễn tả bằng tước
hiệu "Vô Nhiễm" (Immaculée), còn Giáo Hội Chính Thống diễn tả bằng
tước hiệu "Toàn Thánh" (panaghia). Một bên làm nổi bật yếu tố phủ
định của ân sủng nơi Ðức Maria : Không hề vương tội lỗi, ngay cả
nguyên tội ; bên kia nhấn mạnh yếu tố khẳng định, nơi Người có mọi
nhân đức và tất cả vẻ đẹp lộng lẫy phát xuất từ ân sủng.
Giáo
Hội cũng được kêu gọi trở nên "quang vinh, không vết nhơ, không nếp
nhăn, trái lại, thánh thiện và vô tỳ tích" (x. Ep 5, 27). Nhưng, như
thi sĩ (Péguy) còn nói : "Ðiều dành lại được, được bảo vệ từng
bước, được khôi phục lại, lấy lại, thì không còn y như điều đã
không hề bị hư mất. Một tờ giấy được tẩy trắng không phải là một
tờ giấy trắng, và một miếng vải được trắng không phải là một
muếng vải trắng 3". Giáo Hội được thanh tẩy khỏi mọi vết
nhơ, còn Ðức Maria thì được gìn giữ khỏi mọi vết nhơ. Một bên có
những nếp nhăn mà một ngày kia sẽ được xóa sạch, còn bên kia, nhờ
ân sủng của Thiên Chúa, không có gì để tẩy xóa.
Tôi
không muốn dừng lại quá lâu ở nghĩa tùy phụ này của từ ân sủng.
Ðiều mà người ta gọi là "chùm ân sủng" của Ðức Maria là do nghĩa
này tạo nên. Quả thực, ngay cả việc rao giảng về ân sủng cũng cần
được canh tân trong Thần Khí, và sự canh tân này nằm ở chỗ luôn
biết đặt nghĩa gốc lên hàng đầu, mà nghĩa gốc của từ ân sủng liên
hệ đến Ðấng ban ơn trước khi liên quan đến người nhận ơn. Canh tân ở
tại việc "trả lại cho Thiên Chúa quyền của Người". Khi nói đến tước
hiệu "đầy ân sủng" mà thiên thần đã dành cho Ðức Maria, người ta
rất dễ bị mập mờ trong việc nhấn mạnh đến ân sủng nơi Ðức Maria
nhiều hơn là ân sủng Thiên Chúa. Ðầy ân sủng đã từng là khởi điểm
được ưu tiên dùng làm nền tảng để xây dựng các tín điều. Vô Nhiễm
Nguyên Tội, Hồn Xác Lên Trời và hầu hết các đặc ân khác của Ðức
Maria. Ðó là một tiến bộ đối với đức tin. Thế nhưng, một khi những
điều đó đã được khẳng định vững chắc thì cần phải trở về ngay với
nghĩa đầu tiên của ân sủng, nghĩa đó nói về Thiên Chúa nhiều hơn là
Ðức Maria, nói đến Ðấng ban ân sủng hơn là người nhận ân sủng, bởi
đây cũng là ước muốn của Ðức Maria. Nếu không nhắc nhớ điều này,
thì ân sủng có thể dần dần đi đến chỗ chỉ điều ngược lại với nó,
nghĩa là công phúc.
Ơn Thiên
Chúa mà Ðức Maria được đổ đầy là "ân sủng Ðức Kitô" (gratia
Christi), "ơn Thiên Chúa đã ban cho anh em trong Ðức Kitô
Giêsu" (x. 1C 1, 4), là lòng nhân từ và Ơn Cứu Ðộ mà từ nay Thiên
Chúa ban cho con người từ cái chết cứu chuộc của Ðức Kitô. Ðức Maria
ở bên này chứ không ở bên kia chí tuyến. Dòng nước mà Người được
nhuần thấm không chảy từ Moriah hay Sinai, nhưng là giòng nuớc chảy
xuống từ đồi Golgotha. Ân sủng mà Người lãnh nhận là ân sủng của
Giao Ước Mới. Ðức Maria được gìn giữ khỏi tội như Giáo Hội đã công
bố trong định tín về tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội, là "do dự kiến
những công phúc của Ðức Giêsu Kitô Cứu Thế sẽ lập". Theo nghĩa này,
Người quả thực là "con của Con mình" như Dante đã gọi.
Nơi Ðức
Maria, chúng ta chiêm ngắm sự mới mẻ của ân sủng Tân Ước so với
Cựu Ước. Nơi Người, tất cả sự mới mẻ, xét về chất lượng, đã được
thực hiện. Thánh Irênê nêu câu hỏi : "Ðâu là sự mới mẻ mà Chúa
mang tới qua việc Ngài đến trong thế gian ?" Và thánh nhân trả lời :
"Ngài đã đem đến tất cả sự mới mẻ khi mang đến chính mình Ngài 5".
Ân sủng của Thiên Chúa không còn là ơn nào đó của Người, nhưng là
chính hiện diện của Người. Ðây là sự mới mẻ đến mức có thể nói,
nay "đã hiển linh rồi ân sủng của Thiên Chúa, nguồn Cứu Ðộ" (Tt 2,
11), nhờ thế, sánh với ân sủng bây giờ, ân sủng trước kia không
đáng được coi là ân sủng mà chỉ như một sự chuẩn bị.
Ðể đáp
lại ân sủng Thiên Chúa, điều trước tiên tạo vật phải làm đó là
dâng lên lời cảm tạ như thánh Phaolô, kẻ ngợi ca ân sủng, đã dạy :
"Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa cho anh em, vì ơn Thiên Chúa đã ban cho
anh em" (1C 1, 4). Con người phải tạ ơn để đáp ứng lại Ơn Thiên Chúa.
Tạ ơn không phải là hoàn lại ân huệ đã nhận hay dâng một điều gì
đó để đền đáp. Ai có thể đền bù lại cho Thiên Chúa ? Tạ ơn, đúng
hơn, là nhìn nhận ơn Chúa ban và đón nhận nhưng không ân sủng của
Ngài, không dám mong "tự chuộc mình hay trả giá phục hồi cho Thiên
Chúa" (Tv 49, 8). Tạ ơn là một trong những thái độ tôn giáo căn bản
nhất. Tạ ơn có nghĩa nhìn nhận mình là người chịu ơn, là kẻ tùy thuộc
và để cho Thiên Chúa là Thiên Chúa.
Ðây chính
là điều Ðức Maria đã làm trong kinh Magnificat : "Hồn tôi tôn dương Chúa .
vì Ðấng quyền năng đã làm cho tôi những điều cao cả". Tiếng Hipri
không có từ ngữ riêng để chỉ việc "cảm tạ" hay tạ ơn. Trong Kinh
Thánh, khi một người muốn tạ ơn Thiên Chúa thì người đó cất lời tán
tụng, tôn dương và công bố các kỳ công của Người với tất cả niềm
phấn khởi hân hoan. Ðó hẳn là lý do tại sao chúng ta không tìm thấy
từ tạ ơn trong kinh Magnificat mà chỉ thấy tôn dương, nhảy mừng. Tuy
không có từ ngữ diễn tả nhưng tình cảm tương ứng thì đã được bộc
lộ. Ðức Maria đã thực sự trả lại cho Thiên Chúa quyền của Người,
và giữ lại cho ân sủng tất cả tính nhưng không của nó. Kỳ công
thực hiện nơi Người, Người quy cho Thiên Chúa, cho ân sủng Thiên
Chúa, không giữ lại cho mình bất cứ công trạng nào. Bức "Panaghia"
hay "Toàn Thánh" (Rất Thánh), được tôn kính cách đặc biệt ở Nga, là
bức ảnh diễn tả tất cả những điều nói trên cách tuyệt vời nhất.
Mẹ Thiên Chúa đứng thẳng, đôi tay giơ cao, trong tư thế vừa đón nhận,
vừa khai mở trọn vẹn. Chúa ở cùng Người dưới hình hài một vị vua
nhỏ bé, nhìn thấy được, do sự trong suốt, ngay trước ngực Ðức Maria.
Khuôn mặt đầy vẻ ngạc nhiên, trầm sâu trong thinh lặng và khiêm hạ,
như thể Người muốn nói : "Hãy xem điều Chúa làm cho tôi, ngày Người
đoái nhìn phận hèn tớ nữ của Người".
"Chính bởi ân sủng mà anh em đã được cứu"
Lúc này
chúng ta cần nhớ lại nguyên lý hướng dẫn đã được trình bày trong
phần dẫn nhập, nguyên lý đó là : Ðức Maria là hình bóngvà là tấm
gương của Giáo Hội. Cuộc đời Ðức Maria khởi đầu bằng từ "ân sủng",
điều đó có nghĩa gì đối với Giáo Hội và đối với mỗi người chúng ta
? Ðiều đó có nghĩa là, đối với cả chúng ta, ngay từ đầu đã có ân
sủng, đã có sự tuyển chọn tự do và nhưng không của Thiên Chúa, có
lòng nhân hậu khôn tả của Người, Người đi đến với chúng ta và ban
chính mình Người cho chúng ta hoàn toàn chỉ vì yêu thương. Ðiều đó có
nghĩa là : ân sủng "là nguyên lý hàng đầu" của Kitô giáo.
Giáo
Hội trinh mẫu (vierge mère) cũng được turyền tin, vậy Thiên Sứ đã
chào thế nào khi bước vào nhà Giáo Hội : "Ân sủng và bình an của
Thiên Chúa Cha chúng ta, và của Chúa Giêsu Kitô". Ðây là lời khởi
đầu thư của các tông đồ, hầu như không đổi, thư của Phaolô cũng như
thư của Yoan (x. 2Yn 1, 3). Chúng ta hãy nghe một trong những lời chào
thật tự nhiên này để có thể cảm nếm được tất cả sức mạnh và sự
dịu ngọt của nó : "Phaolô, bởi ý định của Thiên Chúa đã kêu gọi
làm Tông Ðồ của Ðức Kitô Giêsu, cùng với người anh em là Sosthênê,
kính gửi Hội thánh của Thiên Chúa tại
Corinthô : ân sủng và bình an cho anh em do tự Thiên Chúa, Cha
chúng ta và Chúa Giêsu Kitô. Tôi hằng cảm tạ Thiên Chúa cho anh em
vì ơn Thiên Chúa đã ban cho anh em trong Ðức Kitô" (1C 1, 1 - 6).
Ân sủng
và bình an không chỉ diễn tả một mong ước : những từ này còn nói
lên một thực tại. Ðộng từ hiểu ngầm không phải chỉ là "chớ gì có"
nhưng là "có". Chúng tôi loan báo cho anh em biết rằng, anh em đang ở
trong ân sủng, nghĩa là trong lòng nhân hậu của Thiên Chúa, rằng có
bình an và ân sủng Thiên Chúa ban cho anh em, nhờ bởi Ðức Kitô !
Phaolô loan báo không mệt mỏi ân sủng của Thiên Chúa cho các tín
hữu và khơi dậy nơi họ ý thức mãnh liệt về điều đó. Ngài xem việc
"đoan chứng giảng Tin Mừng về ân sủng của Thiên Chúa" (x. Cv 20, 24)
như một nhiệm vụ mà Ðức Kitô đã giao phó cho ngài. Ân sủng là từ
ngữ thâu tóm lại nơi một mình nó tất cả lời loan báo của Kitô
giáo, tất cả Tin Mừng, vì Tin Mừng
cũng đã được định nghĩa như là "Tin Mừng hay lời công bố về ân sủng
của Thiên Chúa" (x. Cv 14, 4 ; 20, 32).
Ðể có
thể tìm lại sự mới mẻ cũng như niềm an ủi trong tất cả sự phong phú
súc tích của nó hàm chứa trong lời loan báo đó, chúng ta cần phải
tái tạo cho mình một đôi tai hoàn toàn mới, như những người đầu tiên
được đón nhận Tin Mừng. Thời đại của họ được coi là một "thời đại
khắc khoải". Người ngoại giáo tìm kiếm cách vô vọng một lối thoát
cho cảm thức về thân phận bị kết án, bị đầy xa khỏi Thiên Chúa, một
thân phận mà con người đang phải vật lộn, đang phải sống trong một
thế giới bị xem như "tù ngục". Họ tìm kiếm lối thoát nơi bao nhiêu tín
ngưỡng, triết thuyết hết sức khác biệt nhau. Ðể có một ý niệm về
điều này, chúng ta cứ nghĩ đến một kẻ tử tội, từ bao nhiêu năm
tháng sống trong khắc khoải lo âu và mỗi tiếng chân vang bên ngoài
xà lim là giật thót lên vì sợ. Tâm hồn anh ta sẽ cảm thấy như thế
nào, khi một người bạn bất ngờ đến, vẫy tờ giấy kêu lên : "Ân xá,
ân xá, anh được ân xá (grâce) rồi !". ngay lập tức, một tâm trạng
mới nảy sinh nơi anh, cả trời đất cũng thay hình đổi dạng, anh cảm
thấy mình được tái sinh. "Vậy bây giờ, án phạt không còn nữa cho
những ai ở trong Ðức Kitô Giêsu" (Rm 8, 1), những lời hứa của thánh
Tông Ðồ hẳn phải tạo một hiệu quả tương tự nơi người nghe. Thánh
Phaolô nói đến ân sủng như một người thoát khỏi bão táp kinh hoàng,
cuối cùng đã tìm được một hải cảng náu thân : "Nhờ Ngài (nghĩa là
nhờ Ðức Kitô), bởi tin, ta được gia nhập ân sủng này, trong đó ta đã
được thiết lập" (Rm 5, 2).
Cũng như
đối với Ðức Maria, ân sủng là cốt lõi sâu xa của thực tại Giáo
Hội và là căn nguyên hiện hữu của Giáo Hội. Giáo Hội có là gì thì
đó là bởi ân sủng. Giáo Hội cần phải chân nhận : thân tôi có là
gì là bởi ơn Thiên Chúa. Theo siêu hình học Kitô giáo đặt nền trên ý
nhiệm ân sủng, thì "hiện hữu, đó là được yêu" (G. Marcel). Thụ tạo
không có lời giải thích nào khác về hiện hữu của mình ngoài tình
yêu mà Thiên Chúa dành cho mình và bởi yêu mà Ngài đã tạo dựng.
Ðiều này cũng có giá trị cho dù nhiều người trước tôi đã khám phá,
đã sống chân lý đó, hoặc tôi đã đọc những điều họ viết nó, chừng
đó vẫn không đủ. Nếu tôi chưa hề cảm nghiệm nó nơi chính bản thân
mình, nếu tôi chưa từng bị chói loà, choáng váng bởi ánh sáng của
chân lý đó, ít là một vài khắc khoải, thì chân lý đó vẫn như thể
không có đối với tôi.
Tất cả
là ân sủng, đó là điều mà Ðức Maria nhắc nhớ và công bố trước
tiên là cho Giáo Hội. Ân sủng là yếu tố đặc trưng của Kitô giáo,
nó khác biệt với mọi tôn giáo khác là bởi ân sủng. Trên bình diện
học thuyết luân lý, tín lý hay việc làm của các tín hữu, thì người
ta có thể tìm thấy những điểm tương tự, tương đồng, ít là một phần,
với các tôn giáo khác. Những việc mà thành viên này hay thành viên
nọ của các tôn giáo khác thực hiện có thể tốt hơn việc làm của
rất nhiều Kitô hữu. Chính ân sủng mới tạo ra sự khác biệt, vì ân
sủng không phải là một giáo thuyết hay một ý niệm, mà trước tiên
nó là một thực tại, do đó, hoặc là có ân sủng hoặc là thiếu vắng
ân sủng. Ân sủng quyết định phẩm chất của việc làm cũng như đời
sống của một con người : nó xác định những việc làm đó là của con
người hay của Thiên Chúa, thuộc thời gian hay thuộc vĩnh cửu.
Trong
Kitô giáo, ân sủng hiện diện bởi lẽ có một nguồn mạch, một trung
tâm tạo phát ân sủng : cái chết cứu chuộc của Ðức Kitô và sự giao
hòa mà Người đã thực hiện. Các vị sáng lập tôn giáo dừng lại ở
việc đưa ra một mẫu gương, còn Ðức Kitô không chỉ nêu gương, Ngài ban
ân sủng. Nhìn bên ngoài, mọi sợi dây đồng đều giống nhau. Nhưng nếu
bên trong những dây đó có dòng điện lưu chuyển thì bấy giờ nó sẽ
khác với các dây khác như thế nào ! Chạm đến nó là bị giựt, đó là
điều mà các dây khác không tạo được dù bề ngoài giống y như vậy.
Lạc
giáo lớn nhất mà cũng là sự điên rồ của con người vô tín hiện đại
đó là quan niệm cho rằng mình không cần đến ân sủng. Trong nền văn
hóa kỹ thuật mà chúng ta đang sống, chúng ta chứng kiến một sự loại
bỏ chính ý niệm về ân sủng Thiên Chúa trong đời sống con người. Ðây
là thứ chủ thuyết Pélage triệt để của não trạng hiện đại. Một
trường hợp tiêu biểu đó là khoa phân tâm. Người ta nghĩ rằng chỉ cần
giúp bịnh nhân nhận thức và đưa ra ánh sáng các chứng tâm bịnh hay
mặc cảm tội lỗi của họ ra ánh sáng của lý trí là đủ để chữa
lành, không cần đến ân sủng từ trên thuyên chữa và đổi mới. Phân
tâm học, đó là phép hòa giải (giải tội) mà không có ân sủng. Nếu
ân sủng là điều làm nên giá trị con người, và nhờ ân sủng mà con
người vươn lên trên thời gian và sự hư hoại, thì một con người không
có ân sủng và từ chối ân sủng sẽ là như thế nào ? Ðó là một con
người "trống rỗng".
Con
người hiện tại nhạy cảm trước những chênh lệch, khác biệt giữa kẻ
giàu người nghèo, kẻ phủ phê người đói khổ ; . đó là điều phải
lẽ, nhưng lại không quan tâm bao nhiêu đến sự khác biệt còn bi đát
hơn bội phần ; khác biệt giữa người sống trong ân sủng Thiên Chúa
với những người sống không ân sủng Thiên Chúa. Pascal đã đề ra
nguyên lý về ba bình diện hay ba cấp độ mà chúng ta thấy được trong
thế giới : bình diện thể xác ; bình diện trí tuệ hay tài năng ; và
bình diện của thánh thiện và của ân sủng. Giữa bình diện hay cấp độ
của thể xác như sự giàu có, sắc đẹp, sức mạnh thể lý, với cấp độ
của trí tuệ và của tài năng là cấp độ cao hơn, thì sự khác biệt là
vô cùng. Cấp độ dưới không thể thêm vào hay làm mất điều gì của
cấp độ trên nhưng, theo lời Pascal, sự khác biệt giữa cấp độ của trí
tuệ với cấp độ của ân sủng lại là "vô cùng vô hạn", trời cao hơn
đất bao nhiêu thì cấp độ thứ ba này cũng vượt trên tất cả các cấp
độ khác bấy nhiêu. Ðây là sự cao cả mà Ðức Maria, sau Ðức Kitô,
vượt trên mọi thụ tạo khác. Theo nghĩa khách quan này, dựa trên sự cao
vượt tuyệt đối của ân sủng trên tự nhiên, thì Ðức Maria là thụ tạo
cao cả nhất trong các thụ tạo, sau Ðức Kitô.
Vì thế,
khinh thường ân sủng hoặc nghĩ một cách ngu xuẩn rằng mình không cần
đến ân sủng thì đó là tự khép mình trong sự bất toàn, là dừng lại
ở cấp độ thứ nhất hoặc thứ hai của phàm nhân, còn cấp độ thứ ba
cao vượt hơn nghìn trùng thì ngay cả sự hiện hữu của nó cũng không
ngờ tới.
Ta cần toàn thể
Ðể ân
sủng lại trở nên mặt trời chiếu sáng tất cả lời rao giảng của
Kitô giáo, như đã từng như thế vào buổi đầu của Giáo Hội, thì ân
sủng cần phải được khôi phục, trả lại cho chính nó, và điều này
đòi hỏi một sự hoán cải sâu xa, như chúng ta sẽ thấy.
Trong
một cuốn sách về linh đạo nổi tiếng thời Trung Cổ, người ta như nghe
thấy một tiếng kêu vùng dậy. Ngỏ lời với tâm hồn đang tìm kiếm
Thiên Chúa nhưng lại bị bó rọ trong chiếc lưới đan bởi trăm ngàn phân
biệt, định nghĩa về Thiên Chúa, một tác giả vô danh khuyên tâm hồn
đó hãy thét lên trong chính lòng mình : "Tôi không muốn biết gì về
khía cạnh này hay khía cạnh khác của Thiên Chúa. Tôi cần toàn thể !"
Ðây chính là tiếng kêu mà chúng ta cần phải thốt lên về ân sủng.
Trong
dòng lịch sử Giáo Hội, ân sủng đã từng là đối tượng của những
cuộc tranh cãi và phân rẽ bất tận, khiến cho nó nhưbị hao kiệt và
chỉ còn là những mãnh vụn. Người ta nói đến hiện sủng và thường
sủng, thánh sủng và túc sủng, đến ơn chức phận (grâce l’état) và
"tình trạng ân sủng" (état de grâce), tình trạng của người không để
tội trọng nào đè nặng lương tâm vì không xưng tội.
Ân sủng
bắt đầu mất đi ý nghĩa phong phú lạ lùng của nó trong Tân Ước, ngày
mà người ta, do sai lầm Pélage, nói đến ân sủng chỉ như một trợ lực
cần thiết cho ý chí hèn yếu của con người. Con người cần ân sủng để
thực thi lề luật và để đừng phạm tội ("Ơn trợ giúp" - grâce
adjuvante). Về sau, người ta có thói quen nói về ân sủng hầu như chỉ
trong văn mạch một số những cặp đối lập, như ân sủng và tự do, tự
nhiên và ân sủng, ân sủng và lề luật, ân sủng và công phúc. Ánh
sáng tự phân tách thành đủ mọi màu sắc, và cũng vì thế, càng phân
tách càng yếu dần.
Ðấy là
kết quả của một sự phát triển tự nó là đúng đắn và một cách nào
đó không thể tránh được : nó hữu ích trong việc đưa ra ánh sáng
những sự phong phú, những kho tàng vô tận của ân sủng Ðức Kitô, vì
trí óc con người chỉ có thể hiểu được ân sủng theo từng phần khác
nhau nhờ những phân biệt. Quả vậy, đối với con người, việc phân
biệt, phân tích cũng là điều tự nhiên, tương tự như một lăng kính
phân tích ánh sáng và làm cho nó khúc xạ thành nhiều màu khác nhau.
Thế nhưng, khi nhu cầu chiêm niệm lại nảy sinh, thì người ta cảm thấy
cần thiết phải vượt qua sự chia cách, phân mảnh và tìm lại toàn
thể, vì chiêm niệm chỉ có thể được khi đối diện với một toàn thể.
Việc giải thích có khuynh hướng phân biệt các thành phần, trong khi
chiêm niệm lại có khuynh hướng bao trùm lấy đối tượng trong một cái
nhìn tổng thể. Ðiều có giá trị đối với chiêm niệm thì cũng có giá
trị đối với việc rao giảng Tin Mừng, theo một cách khác. Chúng ta rao
giảng Tin Mừng không phải bằng cách loan báo những phân biệt tế vi
về ân sủng. "Tin Mừng về ân sủng" là điều hết sức khác với việc
trình bày một loạt những ý kiến và những học thuyết về ân sủng !
Dấu nói
lên tính duy nhất của ân sủng chính là từ ngữ "ân sủng", nhưng cần
phải hiểu theo nghĩa rộng lớn nhất, bao trùm nhất của nó, nghĩa Kinh
Thánh. Cũng như dấu tuyệt vời nhất nói lên thực tại sống của Thiên
Chúa đối với chúng ta là tiếng "Chúa" đơn sơ, khi nó được thốt lên
trong kinh nghiệm với tất cả niềm yêu mến.
Nơi các
Kitô hữu, có hai hướng chính giải thích về ân sủng, đã được hình
thành và vẫn luôn tồn tại, chúng ta cần biết đến hai hướng này để
vượt qua. Ðặc điểm của hướng thứ nhất là phân biệt giữa ân sủng
nội tại và ân sủng ngoại tại. Các Giáo Hội truyền thống, Công
Giáo và Chính Thống, quan niệm ân sủng là một tham dự thực sự vào
bản tính và sự sống của Thiên Chúa. Các Giáo Hội cải cách thì
ngược lại, quan niệm, ít hay nhiều cứng nhắc tùy mức độ, ân sủng là
sự qui gán công chính, làm cho con người nên công chính dưới mắt
Thiên Chúa chứ không phải nơi chính mình, con người vẫn ở nguyên
trạng, vẫn là tội nhân (simul justus et peccator). Cách nhìn của
anh em Tin Lành về ân sủng hầu như chỉ dừng lại ở nghĩa đầu tiên,
nghĩa là một ân huệ nhưng không, một hành vi tối thượng và đơn phương
của Thiên Chúa, trong khi người Công Giáo và Chính Thống lại quan
niệm về ân sủng cả theo nghĩa thứ hai (và đôi lúc hầu như chỉ theo
nghĩa này !) : ân sủng theo nghĩa vẻ đẹp và là ơn thánh hóa tạo nên
tình trạng ân sủng nơi con người.
Bất
đồng thứ hai phát xuất từ sự phân biệt giữa ân sủng bất thụ tạo
(grâce incrée) và ân sủng thụ tạo (grâce crée), và đây là điều
khiến cho người Công Giáo và Chính Thống đối lập với nhau, bên trong
cách nhìn chung mà chúng ta vừa phác họa. Ðối với thần học Ðông
Phương, ân sủng thực tế là chính hiện diện của Thiên Chúa trong linh
hồn, nhờ Chúa Thánh Thần, Ðấng biến đổi và thần hóa con người,
trong khi đối với thần học Công Giáo, nhất là sau Công Ðồng Trentô,
ân sủng trước tiên là một phẩm tính thụ tạo - ơn thánh hóa, và
chính ơn này mới là điều kiện cho chính Chúa Thánh Thần và cả Ba
Ngôi có thể hiện diện nơi linh hồn. Tuy nhiên, khác biệt này chỉ
liên quan đến cách nhấn mạnh, cách nhìn, chứ không đụng chạm tới
nền tảng giáo lý chung của hai Giáo Hội về ân sủng, nhất là nếu
chúng ta dựa vào những bậc thầy vĩ đại như thánh Thomas Aquinô.
Ngày
nay, chúng ta cần phải tìm lại sự duy nhất nền tảng mà mọi phân
biệt chỉ làm sáng tỏ một khía cạnh của ân sủng, và nó cần tới sự
đóng góp của những khía cạnh khác để tránh khỏi những thiên vị,
tránh khỏi những cái nhìn bất túc .
Ngày
nay, chúng ta bắt đầu nhận ra rằng, sự khác biệt trong cách giải
thích, do các truyền thống Kitô giáo khác, về một số mầu nhiệm như
mầu nhiệm Ba Ngôi, sự hiện diện thực trong Bí Tích Thánh Thể, không
phải là một mối đe dọa đối với chúng ta, mà thường khi lại bổ túc,
làm cho thêm phong phú, như có sự quan phòng của Thiên Chúa, miễn là
người ta biết từ bỏ thái độ muốn giải thích cái "nguyên nhân mô
thức" (raison formelle) cũng như cách thức chính xác theo đó các mầu
nhiệm Kitô giáo được thực hiện. Trong khoảng thời gian một vài thập
niên, sự thay đổi thái độ và cuộc đối thoại giữa các Kitô hữu đã
phá bỏ rất nhiều hàng rào ngăn cách về vấn đề ân sủng. Ngày mà
chúng ta không còn chia rẽ nhau về vấn đề ân sủng, nhưng nhờ ân
sủng mà hợp nhất với nhau bằng một mối dây bền chắc hơn, ngày ấy
dường như không còn xa lắm. Nguyên lý của chính Luther "vừa là công
chính vừa là tội nhân" (simul justus et peccator) có thể dung hợp với truyền thống Công
Giáo và Chính Thống, miễn là người ta hiểu chữ "simul" theo nghĩa
"đồng thời" chứ không theo nghĩa "dưới cùng một khía cạnh" hay "cùng
một cách". Khi hiểu như thế, nguyên lý đó sẽ hữu ích trong việc làm
sáng tỏ một dữ kiện hiển nhiên trong kinh nghiệm người Kitô hữu, đó
là sự tồn tại thường xuyên của cái tôi ích kỷ, tội lỗi như một
nền đen trong tâm hồn, ngay cả nơi người đã được công chính hóa.
Nguyên lý này không muốn nói lên điều gì khác hơn là : "con người
cũ" và "con người mới" trên thực tế sống chung với nhau, ở mức độ
khác nhau, nơi người đã chịu Phép Rửa. Ðó là một sự thực.
Như đã
nói, ánh sáng ân sủng phát tán thành các màu khác nhau, nhưng ánh
sáng vẫn đẹp ngay cả khi nó bị phát tán như thế, miễn là các màu
của nó vẫn liên kết với nhau, như nơi quang phổ hay cầu vồng. Ánh
sáng của ân sủng vẫn có thể rực rỡ trong toàn thể cho dù mỗi một
Giáo Hội Kitô nhấn mạnh tới một khía cạnh đặc thù. Miễn là Giáo
Hội đó không coi thường và bác bỏ những khía cạnh mà các Giáo Hội
Kitô khác quí chuộng.
Việc
chiêm ngắm Ðức Maria giúp chúng ta hôm nay tìm lại được đức tin trong
tính duy nhất và tổng hợp của nó. Người là bức tranh về ân sủng
còn nguyên vẹn, chưa bị chia cắt. Như chúng ta đã thấy, nơi Ðức Maria
ân sủng có nghĩa là sự tràn đầy ân huệ của Thiên Chúa đồng thời
là sự đầy tràn thánh thiện của bản thân ; ân sủng là chính hiện
diện của Thiên Chúa cách hết sức mạnh mẽ, một hiện diện vừa thể
lý vừa tâm linh, và cuối cùng ân sủng là hiệu quả của hiện diện
đó, nhờ nó mà Maria là Maria, xét về hiệu quả do hiện diện của
Thiên Chúa tạo ra. Không một ai khác được như Ðức Maria, dù người đó
có cùng một Thần Khí thánh hóa linh hồn mình.
Vẻ đẹp của nàng công chúa.
Việc tái
khám phá vị trí ưu tiên của ân sủng vượt trên tất cả giúp chúng ta
tìm ra thái độ đúng đắn đối với Giáo Hội. Nhiều người ngộ nhận
hoặc bác bỏ Giáo Hội, vì dưới mắt họ, Giáo Hội hầu như chỉ là một
tổ chức nhân loại, với những lề luật, nghi thức và những khiếm
khuyết, bất nhất của các thừa tác viên. Tuy nhiên, khi cố gắng sửa
đổi lại quan niệm sai lầm như vậy, thường chúng ta không làm gì khác
hơn là tạo lại chính sai lầm đó, bởi lẽ chúng ta tự đặt mình trên
cùng một bình diện với các đối thủ, vốn không phải là bình diện
của ân sủng, mà chỉ là và luôn luôn là bình diện của việc làm.
Tôi tin chắc rằng Giáo Hội đau khổ hết sức và hiện đang mất đi rất
nhiều con cái, mất đi rất nhiều mối thiện cảm vì đã không được nhìn
như Người Mẹ đầy ân sủng và mang trách nhiệm đưa ân sủng đến
cho con người, nhưng bị xem như một tổ chức nhân loại bao gồm những
nghi thức, luật lệ, các thừa tác viên vốn chỉ là những con người,
và để lôi ra ánh sáng các lỗi lầm, khiếm khuyết của họ thì có lẽ
phải dành ra cả đời người. Khi nhìn Giáo Hội như thế, người ta có ảo
tưởng là đã biết được Giáo Hội, trong khi điều họ biết thực ra chỉ
là lớp vỏ bên ngoài. Sự mập mờ đó tiếp tục tồn tại đôi khi lại
do chính những người con Giáo Hội. Trọng tâm các tranh luận của chúng
ta trong Giáo Hội thực tế là gì
? Phải chăng là ân sủng Thiên Chúa ? Không phải ! Rất nhiều khi
trọng tâm của các tranh luận là những điểm tựa, những sắp xếp,
liên kết bên ngoài. Khi suy nghĩ, nhận định về các biến cố, mỗi
người cố tìm cách làm sao để một cách nào đó, luôn luôn rút ra
được mấu cớ, một điểm tựa cho mình, cho hệ thống tư tưởng của mình,
bấy giờ người ta quên hẳn đi ân sủng Thiên Chúa, và Giáo Hội trở
thành mục tiêu cho bao nhiêu phê phán, chỉ trích tầm thường.
Có hai
cách căn bản để trình bày Giáo Hội cũng như toàn thể đời sống Kitô
giáo. Cách thứ nhất là "cách hộ giáo và luận chiến" (manière
apologétique et polémique), bảo vệ Giáo Hội bằng cách đối
đáp lại bất cứ lời kết án nào của các địch thủ. Cách thứ hai là
"cách rao giảng" (manière kerygmatique). Cách loan báo
này hệ tại ở việc loan báo Tin Mừng ân sủng cách thanh thản, với
niềm tin chắc chắn rằng có một sức mạnh nội tại ở nơi chúng ta,
một sức mạnh vượt trên chính con người chúng ta. Chỉ có sức mạnh đó
mới có thể "triệt hạ các đồn lũy, các lý luận và mọi kiểu dương
dương tự cao tự đại chống lại sự biết Thiên Chúa" (x. 2Cr 10, 4tt).
Một
ngôi Vương Cung thánh đường cổ có thể được chiếu sáng bằng hai cách,
cũng thế, có hai cách làm sáng tỏ đời sống Kitô giáo. Chẳng hạn
như đối với những kiến trúc lịch sử trong các thành phố, người ta có
thể chiếu sáng từ bên ngoài bằng những đèn chiếu từ những góc độ
thuận lợi nhất ; người ta cũng có thể dọi sáng từ bên trong, bằng
cách mở ra các cánh cửa chính, cửa sổ để cho ánh sáng bên trong
xuyên ra ngoài. Cả hai cách đều hữu ích, nhưng nếu trong cách thứ
nhất, người ta chỉ làm sáng tỏ yếu tố lịch sử và nhân loại của
Giáo Hội - các bức tường của tòa nhà - thì theo cách thứ hai, người
ta làm sáng tỏ thực tại thần linh, thâm sâu của Giáo Hội, đó là
ân sủng. Không phải chỉ soi sáng cơ chế mà còn làm rạng nên huyền
nhiệm của Giáo Hội. Hộ giáo là cần thiết và có cả những vị thánh
hộ giáo. Không nên gạt bỏ khía cạnh đó, nhưng cần nhớ rằng, nếu chỉ
có khía cạnh đó thôi thì không đủ.
Cách
chiếu sáng thứ hai, là để cho ân sủng bên trong Giáo Hội, khả năng
tha thứ cũng như sức mạnh thần linh của nó tỏ lộ ra bên ngoài, và
điều này được thực hiện qua những phương thế đặc biệt : loan báo,
cầu nguyện, tha thứ, tình yêu, sự hiền dịu. Cách thức này đòi hỏi
phải có đức tin, vì cần phải tin Ơn Chúa đang hiện diện và tác động,
ngõ hầu chúng ta biết dựa vào ân sủng chứ không cậy dựa vào chứng
minh của riêng mình. Khi làm như thế, người ta thường có thể thấy
được các hiệu quả của nó. Lời Chúa như lưỡi gươm xuyên thấu tâm
hồn con người, khiến người đó phải quỳ gối thần phục, trong khi nói
suốt cả ngày để chứng minh, thuyết phục về một chân lý nào đó
nhiều khi chẳng đem lại kết quả nào.
Sự khác
biệt giữa hai cách nhìn Giáo Hội cũng y như sự khác biệt giữa hai
cách nhìn tấm kính ghép màu của một ngôi thánh đường thời Trung Cổ,
nhìn từ bên ngoài, từ đường lộ, và nhìn từ bên trong, đối diện với
ánh sáng. Trong trường hợp thứ nhất, người ta nhìn thấy những miếng
kính sẫm đen ghép lại với nhau nhờ các khung bằng chì, cũng đen sậm
như thế. Trong trường hợp thứ hai, cũng chính tấm kính ghép màu đó khi
được nhìn từ bên trong, thì là cả một bức lung linh những màu sắc,
hình thể và những nét hài hòa, khiến ta phải thốt lên ngạc nhiên
thán phục : Ồ ! Tôi đã từng một lần kinh nghiệm điều đó khi viếng
nhà thờ Chartes.
Ngay từ
ban đầu, các Giáo Hội đã áp dụng cho Ðức Maria và Giáo Hội câu
Thánh Vịnh "Tất cả vẻ đẹp của nàng công chúa đều toát ra từ bên
trong" (ab
intus) (Tv 45, 14) theo bản văn mà các ngài biết đến lúc
bấy giờ. Giáo Hội được đầy ân sủng và là thừa tác viện của ân
sủng, thế nên vẻ đẹp và sức mạnh của Giáo Hội cũng vậy, đều phát
xuất từ bên trong, từ ân sủng đầy tràn nơi mình. Ân sủng Giáo Hội như
hạt ngọc trong con ngọc trai. Tuy nhiên có một sự khác biệt : ở đây
không phải con trai tạo nên ngọc trai nhưng là viên ngọc tạo nên
ngọc trai. Không phải Giáo Hội sinh ra ân sủng mà là ân sủng sinh ra
Giáo Hội.
Vào đầu
thế kỷ, người ta tìm thấy bia ký của một Kitô hữu sống vào thế kỷ
II, tên là Aberens. Bia ký này được xem là "nữ hoàng các bia ký Kitô
giáo", trên đó Aberens ghi khắc lại những kinh nghiệm đẹp nhất trong
cuộc đời mình bằng những ẩn ngữ, vì đang là thời bách hại. Trong một
chuyến đi, trong số rất nhiều chuyến du hành của ông, ông được Yêsu,
Vị "Mục Tử vĩ đại" đưa tới Roma. Vậy ông đã nhìn thấy gì tại Roma
khiến nơi tâm hồn ông, cho đến lúc qua đời, vẫn đọng mãi nỗi
cảm xúc ? Ông đã nhìn thấy
"hoàng cung và hoàng hậu phục sức bằng vàng". Ông đã thấy "một dân
tộc mang ấn rực rỡ" là Phép Rửa. Ông đã nhìn ngắm mầu nhiệm Giáo
Hội, nét duyên kín đáo của Giáo Hội một cách mặc nhiên, ông cũng
đã áp dụng cho Giáo Hội Thánh Vịnh 45, là Thánh Vịnh nói về hoàng
hậu vận xiêm y "dệt gấm thêu vàng" cùng với các trinh nữ hầu cận
tiến vào "tận hoàng cung", và vẻ đẹp của nàng toát ra từ bên trong.
Chắc chắn trong Giáo Hội Roma lúc bấy giờ cũng có những điều tệ
hại, khiếm khuyết của con người, nhưng Aberens đã không dừng lại ở
đó.
Ân sủng là khởi đầu của vinh quang.
Ðức
Maria dẫn đưa chúng ta đến việc tái khám phá ân sủng, và điều này
không những làm thay đổi cách nhìn của chúng ta về Giáo Hội nói
chung, mà còn thay đổi cả cách nhìn về đời sống của chúng ta. Nó bao
hàm một lời kêu gọi hoán cải hết sức khẩn thiết và trực tiếp với
mọi người. Ðối với rất nhiều người, vấn đề tôn giáo chỉ còn là
vấn đề biết có hay không có đời sau, có hay không có điều gì đó
đằng sau cái chết. Ðiểm duy nhất khiến họ cắt đứt hoàn toàn mối
liên hệ với Giáo Hội, với đức tin, đó là mối nghi ngờ : "Nếu quả
thực có điều gì đó sau cái chết ?" Từ đó họ nghĩ rằng, mục đích
chính yếu của Giáo Hội là dẫn đưa người ta về trời để gặp Thiên
Chúa, nhưng chỉ sau khi chết mà thôi. Ðối với niềm tin kiểu như thế
thì lời phê phán của những người xem chuyện đời sau chỉ là một thứ
chạy trốn, một sự phóng chiếu ảo tưởng những khát vọng không được
thoả mãn của con người chúng ta, sẽ đắc thắng dễ dàng. Nhưng, những
lời phê phán như vậy khó có thể chống lại lời rao giảng đích thực,
trình bày ân sủng không phải như một sự chờ đợi hạnh phúc mai sau
nhưng như một hiện diện và một kinh nghiệm về Thiên Chúa. Giáo lý
về ân sủng vì thế vẫn là điều duy nhất có thể làm thay đổi tình
trạng đáng buồn này.
Chúng ta
đã biết đến một nguyên lý thần học : "Ân sủng là khởi đầu của
vinh quang 10". Theo nghĩa nào ? Ân sủng làm cho đời sống vĩnh
cửu, một cách nào đó, khởi sự ngay trong hiện tại ; ân sủng cho
chúng ta nhìn thấy và cảm nếm Thiên Chúa ngay từ cuộc đời này. Tất
nhiên "chúng ta đã được cứu thoát nhưng là cũng còn trong hy vọng"
(Rm 8, 24), nhưng "trong hy vọng" trước tiên không có nghĩa là "trong
chờ đợi", "trong dự kiến", mà còn là và nhất là, như những khai ân,
những hoa quả đầu tiên (prémices). Hy vọng Kitô giáo không phải là
cái nhìn của linh hồn về điều gì đó rất có thể xảy ra hoặc linh hồn
khát mong điều đó xảy đến ; mà là một hình thức chiếm hữu, tuy còn
tạm thời và bất toàn. "Người có được bảo chứng của Thần Khí và
niềm hy vọng phục sinh thì xem mình đã chiếm hữu được điều mình trông
đợi 11".
Ân
sủng, đó là hiện diện của Thiên Chúa. Hai kiểu nói "đầy ân sủng"
và "Chúa ở cùng Người" diễn tả hầu như một thực tại. Sự hiện diện
của Thiên Chúa nơi con người từ nay được biểu lộ trong Ðức Kitô và
nhờ Ðức Kitô : Quả thực chính Ngài là Ðấng Emmanuel, Vị
Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta. Ân sủng của Tân Ước có thể định nghĩa
như thánh Phaolô : "Ðức Kitô ở giữa anh em, mối hy vọng vinh quang" (Co
1, 27). Khi hiểu ân sủng như thế thì đời sống Kitô hữu có thể tìm
thấy một hình ảnh tương tự, một biểu tượng nơi thời gian đính ước của
người Dothái, nơi tình trạng của Ðức Maria vào lúc truyền tin. Maria
lúc bấy giờ đã chính thức là hôn thê của Yuse, và không ai có thể
hủy bỏ hôn ước hay chia lìa Maria khỏi hôn phu của mình. Tuy nhiên
Maria vẫn chưa về chung sống. Mối quan hệ giữa thời ân sủng và thời
vinh quang, giữa thời của đức tin và thời hưởng kiến cũng như thế :
chúng ta đã thuộc về Thiên Chúa, thuộc về Ðức Kitô rồi, dù rằng
chúng ta vẫn chưa về ở bên Ngài.
Ân sủng
là khởi đầu của đời sống vĩnh cửu, đó là niềm thâm tín của cả
truyền thống, cần phải làm sống lại niềm thâm tín đó trong dân Kitô
giáo, để họ không chỉ bằng lòng sống trong niềm hy vọng hoặc trong
mối nghi ngờ, về một thế giới mai sau. Như lời của thánh Basile :
"Chúng ta đã có những hoa quả đầu tiên của đời sống đó (đời sống
mai hậu trong Ðức Kitô) - Chúng ta đã ở trong đời sống đó, bởi lẽ
chúng ta đang sống hoàn toàn bởi ân sủng mà Thiên Chúa trao ban cho
chúng ta 12". N.
Cabasilas viết : "Ngay từ bây giờ, các thánh được ân ban không những
chuẩn bị cho đời sống vĩnh cửu mà còn được sống và hoạt động trong
đời sống đó". Cũng chính tác giả này đã sánh ví đời sống ân sủng
với đời sống của một chiếc phôi đang thai nghén trong dạ mẹ. "Thế
giới này thai nghén con người nội tâm, con người mới, được tạo dựng
theo Thánh Ý Thiên Chúa, cho đến mức một khi đã được nắn đúc, hình
thành và nên thành toàn nơi trần gian này, con người đó sẽ được sinh
ra trong thế giới hoàn hảo, không bao giờ già cỗi. Như chiếc phôi,
tuy còn ở trong nơi lỏng bỏng, tối tăm, nhưng đã được thân nhân
chuẩn bị cho đời sống tương lai, đời sống ánh sáng . Ðời sống các
thánh là như thế". Trong tương quan với đời sống vĩnh cửu, người Kitô
hữu còn hơn là một bào thai. Trong dạ mẹ, bào thai không nhận được
một tia sáng nào từ thế giới bên ngoài, còn đối với chúng ta, đời
sống tương lai đã như tỏa ra và hòa quyện vào đời sống hiện tại.
Ðối với chúng ta, mặt trời công chính là Ðức Kitô đã mọc lên, dầu
Thần Linh là Chúa Thánh Thần đã
được đổ xuống trên tâm hồn chúng ta, hương thơm của nó đã tỏa ngát,
và Thánh Thể, bánh của các thiên thần đã được ban để nuôi dưỡng
con người. Ðó là những gì mà nguyên lý ân sủng, khởi đầu của vinh
quang nói lên.
Elisebeth
de la Trinité (Ba Ngôi), một tiếng nói gần với chúng ta hơn, đã làm
vọng lại tiếng nói của Ðông phương khi chị viết : "Tôi đã tìm thấy
trời cao trên trần thế này, vì trời cao đó là Thiên Chúa, và Thiên
Chúa đang ngự trong linh hồn tôi. Ngày mà tôi hiểu được điều đó,
tất cả đều sáng lên đối với tôi và tôi mong muốn nói ra bí ẩn này
cho những người tôi yêu mến 14". Như chúng ta thấy, đây là
một xác tín phổ quát, chung cho cả Giáo Hội Chính Thống lẫn Giáo Hội
Công Giáo. Nhờ sức mạnh của ân sủng, "thế giới bên kia" đối với
chúng ta là một "thế giới bên trong".
Người
vô tín nghĩ rằng tất cả những điều đó chỉ là ảo tưởng chứ không là
thực tại. Ðối với họ, thực tại là những gì người ta có thể chứng
nghiệm được. Họ không ngờ rằng Thiên Chúa lại có thể là thực, còn
thực hơn muôn ngàn lần tất cả những thực tại mà chúng ta nhìn thấy
được. Bạn hãy thử cầu nguyện, thử có lòng tin, thử đón nhận những
đau khổ của bạn, thử sống trong sự hiệp thông với các anh em khác
và có lấy một kinh nghiệm đức tin sống động. Sau đó, bạn nói cho
tôi xem liệu đối với bạn, tất cả những điều đó có còn là một ảo
tưởng nữa không, hay ngược lại, đấy là những gì còn thực hơn những
điều mà bạn gọi là thực tại.
Ðừng để ơn lãnh nhận từ Thiên Chúa ra vô ích.
Việc
tái khám phá ân sủng còn khơi lên lời kêu gọi hoán cải, đặt cho
chúng ta câu hỏi : tôi đã làm gì với Ơn Chúa, tôi đang dùng Ơn Chúa
để làm gì ? Ðiều này khiến tôi nhớ lại câu hỏi mà một thiếu nữ
Dothái bị mù, trong một vở kịch của Paul Claudel, vừa có ánh sáng đức
tin : "Các bạn là những người sáng mắt, thế các bạn đang dùng ánh
sáng để làm gì ? 15"
Thánh
Phaolô kêu mời các tín hữu : "Bởi được cộng tác với Người, chúng
tôi khuyên nhủ anh em : đừng để ơn nhận lãnh từ Thiên Chúa ra vô
hiệu" (2C 6, 7). Bởi chưng, người ta có thể để Ơn Chúa "không sinh
hiệu quả nào", để Ơn Chúa ra hư luống, đáng sợ thay, vì ân sủng kéo
theo trách nhiệm. Ðiều này xảy ra khi chúng ta sống không tương ứng
với ân sủng lãnh nhận ; khi chúng ta không vun xới ân sủng để nó
sinh hoa quả các hoa quả của Thần Khí, các nhân đức. Thánh Phaolô
nói, khi bạn khinh thường kho tàng phong phú là lòng nhân từ, kiên
nhẫn và quảng đại của Thiên Chúa và không nhận biết rằng : lòng
nhân từ của Thiên Chúa thúc giục bạn hối cải, thì bạn tích chứa cho
mình kho thịnh nộ trong ngày phán xét (x. Rm 2, 4 - 5).
Thời
thánh Tông Ðồ cũng đã có một số người tưởng có thể vừa sống trong
ân sủng vừa sống trong tội. Thánh Phaolô trả lời cho họ : "Vậy ta
sẽ nói sao ? Ta hãy ở lại trong tội để được ơn gia tăng ư ? Ðừng nói
gở !" Ngài còn nói : "Vậy thì sao ? Ta phạm tội đi ! Bởi ta không ở
dưới luật, song là dưới ân sủng ? Ðừng nói gở !" (Rm 6, 1 - 2. 15).
Không thể như thế được, vì như thế là đáp lại Ơn Chúa bằng sự vô
ơn, là muốn sự sống và sụ chết cùng đội trời chung, một điều quái
gở.
Mức độ
trầm trọng nhất của việc để Ơn Chúa ra vô hiệu, đó là để mất Ơn
Chúa do sống trong tội, trong tình trạng thất sủng với Thiên Chúa. Ðây
là hiệu báo khủng khiếp về cái chết đời đời. Nếu quả ân sủng
Thiên Chúa là khởi đầu của vinh quang, thì sự thất sủng, mất ân
nghĩa với Thiên Chúa đã là sống như kẻ bị sa phạt, đã là lãnh lấy
án phạt đời đời, cho dù ta chưa nhìn thấy và cảm nghiệm được rằng
một thiệt hại như thế sẽ không thể nào đền bù được. Ðừng sống
trong tình trạng mất ân nghĩa với Thiên Chúa dù chỉ một đêm thôi. Ðó là điều quá nguy hiểm. Kinh
Thánh nói : "Ðừng để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn" (2P 4, 26),
nhưng điều còn hệ trọng hơn nữa, đó là đừng để mặt trời lặn mà cơn
giận của Thiên Chúa vẫn chưa nguôi. Thánh Yoan Bosco đã làm cho một
cậu bé ăn năn hối lỗi bằng cách nhét dưới gối của cậu một tấm
giấy với dòng chữ : "Nếu đêm nay em chết ?"
Sống
trong tội lỗi, không có ân sủng Thiên Chúa, đó là chết cái chết
thứ hai và, than ôi ! Có biết bao nhiêu xác chết vẫn đi lại trên các
nẻo đường, các công trường của chúng ta. Ðôi khi, thậm chí họ như là
hình ảnh của sức sống, của tuổi thanh xuân, trong khi ngược lại họ
là những kẻ đã chết. Một người vô thần nổi danh, ngày kia khi được
hỏi, tân thâm tâm ông cảm thấy điều gì, có cảm giác như thế nào
lúc cuối đời, ông đáp : "Suốt cuộc đời, tôi sống với một cảm giác
lạ lùng của kẻ đi xe không vé". Tôi không rõ điều ông ta muốn nói
đích xác là thế nào, nhưng chắc chắn rằng câu trả lời của ông ta
là đúng. Sống không có Thiên Chúa, do từ khước ân sủng của Ngài,
đó là ra đi trong cuộc đời mà không có vé, giây phút nào cũng có
nguy cơ bị bắt, bị buộc phải xuống khỏi xe. Những lời của Ðức Kitô
về kẻ bị phát hiện không mặc y phục lễ cưới trong phòng tiệc, đã
phải câm miệng và bị tống ra ngoài
(x. Mt 22, 11tt) có cùng một ý nghĩa.
Chính vì
thế, chúng ta cần phải làm nảy nở trong tâm hồn mình ý thức kinh sợ
đúng mức, trước trách nhiệm của chúng ta đối với Ơn Chúa. Không
phải chỉ gìn giữ mà còn vun trồng, làm cho ân sủng lớn lên, vì chúng
ta có thể "tấn tới về ân sủng" như lời Kinh Thánh nói về Ðức
Giêsu. Sau khi nói : "Và ơn Người xuống cho tôi không ra hư luống" (1C
15, 10). Ngài đã làm cho ân sủng sinh hoa kết trái. Ngài không những
là người rao giảng vĩ đại về ân sủng mà còn là nhà vun trồng ân
sủng vĩ đại. Ngài chỉ cho tất cả các nhà giảng thuyết Kitô giáo
thấy rằng lời loan báo đầu tiên của Kitô giáo phải là lời loan báo
về ân sủng, nhưng để có thể loan báo ân sủng, cần phải có kinh
nghiệm về ân sủng, cần phải sống trong ân sủng. Một nhà giảng
thuyết mà lại sống trong tội lỗi, giả sử như thế, thì sẽ là kẻ "vô
nghĩa". Một Linh Mục muốn phân phát ân sủng cho người khác trong khi
chính mình lại lãnh nhận Ơn Chúa cách hư luống thì sẽ là một thảm
kịch cho Giáo Hội. Ðã đành là các Bí Tích tác động bằng chính sức
mạnh riêng của nó, dù thừa tác viên bất xứng, nhưng kinh nghiệm cho
thấy hiệu quả của các Bí Tích thường là rất hạn chế : thụ nhân
không hoán cải, không thay đổi đời sống. Kẻ sống trong tội lỗi thì
không thể giúp người khác thoát khỏi tội lỗi.
Thánh Maria ân sủng.
Lời loan
báo ân sủng còn mang lại sự can trường và niềm an ủi. Chúng ta sẽ
suy nghĩ về những điểm này để kết luận phần suy tư của chúng ta.
Maria được thiên thần mời gọi hãy vui lên vì ân sủng và đừng sợ
cũng vì chính ân sủng đó. Chúng ta cũng được mời gọi sống như thế.
Nếu Ðức Maria là hình bóng của Giáo Hội thì lời mời gọi "vui lên,
hỡi đầy ơn phúc" là lời nói với mỗi tâm hồn. Và cả lời này nữa :
"Ðừng sợ, vì người đã đắc sủng !"
Ân sủng
là lý do chính yếu niềm vui của chúng ta. Trong tiếng Hylạp, thứ
tiếng đã được dùng để biên soạn Tân Ước, hai từ "ân sủng" (charis)
và niềm vui (charà) hầu như lẫn lộn với nhau : ân sủng là điều
đem lại niềm vui. Vui mừng vì ân sủng là muốn nói rằng : "Ðặt niềm
vui của mình ở nơi Chúa" (x. Tv 37, 4) chứ không đặt ở nơi ai khác
ngoài Ngài hay không có ngài : không yêu quí điều gì hơn là lòng
nhân từ và trung thành của Thiên Chúa.
Ân sủng
cũng là lý do khiến chúng ta can đảm. Trước lời than vãn của Thánh
Phaolô vì một cái dằm đâm vào thân xác, Chúa trả lời : "Ơn Ta đủ
cho ngươi" (2C 12, 9). Ân sủng hay ân nghĩa của Thiên Chúa quả thực
không như ân nghĩa của con người, vì rất nhiều khi ân nghĩa con người
mất đi chính lúc người ta cần đến. Thiên Chúa vừa "ân nghĩa vừa tín
thành" (x. Xh 34, 6). Sự tín thành của ngài "được thiết lập trên
trời" (Tv 89, 3). Mọi người có thể từ bỏ chúng ta, ngay cả cha mẹ -
lời một Thánh Vịnh - nhưng Thiên Chúa thì luôn luôn tiếp đón chúng ta
(x. Tv 27, 10). Chính vì vậy mà chúng ta có thể nói : "Phúc ân cũng
nghĩa tín theo dõi tôi, suốt mọi ngày đời tôi" (Tv 23, 6).
Tiếp
xúc với Ơn Chúa trong chúng ta, đó là điều chúng ta cần phải hết
sức quan tâm mỗi ngày. Vấn đề không phải là tiếp xúc với một cái
gì đó hay là một ý tưởng, nhưng là với một ai đó, bởi lẽ ân sủng,
như chúng ta đã thấy, không gì khác hơn là "Ðức Kitô trong chúng ta,
niềm hy vọng vinh quang". Nhờ ân sủng mà ngay từ đời này, chúng ta
có thể có "một sự tiếp xúc thiêng liêng nào đó" với Thiên Chúa,
một sự tiếp xúc thực hơn nhiều so với sự tiếp cận mà chúng ta có
thể thực hiện qua suy luận thuần lý về Thiên Chúa. Mỗi người có
giờ phút riêng, có cách thức riêng mà mình yêu thích để sống tiếp
xúc với Ơn Chúa, như một con đường sâu kín chỉ riêng mình biết : đó
có thể là một tư tưởng, một kỷ niệm, một hình ảnh trong tâm hồn,
một lời Chúa, một mẫu gương nhận được . Và mỗi lần là như về lại
với nguồn suối, với trọng tâm và cảm thấy ân sủng lại bùng lên
ngọn lửa. Chính trong ý nghĩa này mà Thánh Phaolô đã mời gọi môn đệ
của ngài là Timôthê "khêu lên lại ân sủng Thiên Chúa" nơi mình (x.
2Tm 1, 6).
Trong
phần dẫn nhập dành cho hành trình hướng về sự thánh thiện, chúng
tôi đã có nói muốn nhìn ngắm "những bước" khác nhau mà chúng ta
nhận thấy trong cuộc đời Ðức Trinh Nữ Maria, để sau đó thực hiện và
noi theo những bước đi đó trong cuộc đời chúng ta, vì chúng ta muốn đi
vào "những thực hành thiêng liêng" chứ không đơn thuần là những bài
nói chuyện thiêng liêng. Vậy ở cuối bước thứ nhất này, tức là
cuối chương về đời sống Ðức Maria, đời sống ân sủng, chúng ta còn
phải thực hành điều gì ? Cần "thực hành" lòng tin, lòng biết ơn và
niềm thán phục. Chúng ta cần phải tin vào ân sủng, tin rằng Chúa
yêu thương chúng ta, rằng Ngài thực sự sẵn lòng với chúng ta, rằng
nhờ bởi ân sủng mà chúng ta được cứu, rằng Chúa "ở cùng chúng ta"
như đã ở cùng Ðức Maria. Chúng ta cần đón nhận Lời Chúa phán qua vị
tiên tri của Ngài như là những lời nói với mỗi người chúng ta :
"Còn ngươi, Israel hỡi, tôi tớ của Ta, Yacóp, kẻ Ta đã chọn . Ðừng
sợ vì có Ta ở với ngươi, chớ hãi, vì Ta là Thiên Chúa của ngươi" (Ys
41, 8 - 10). Ðừng sợ, vì ngươi đã đắc sủng !
Chúng ta
đã hiểu đâu là bổn phận trước tiên và thậm chí là điều cần thiết
đầu tiên nảy sinh nơi người đã lãnh lấy ân sủng : bổn phận tạ ơn,
điều mà trong Kinh Thánh được diễn tả bằng lời chúc tụng, tôn dương
Ðấng ban ơn, bộc lộ niềm cảm mến nồng nàn đối với Ngài. Hãy hát
lên bằng lời Thánh Vịnh : "Quý thay ơn huệ của Người, lạy Thiên
Chúa" (Tv 36, 8). "Ơn Người quý hơn mạng sống" (Tv 63, 4). Chúng ta sẽ
thực sự thực hiện được một khám phá lớn lao, thậm chí là một khám
phá về cuộc sống chúng ta, một "thực hành" có giá trị, nếu qua phần
suy niệm này, ít nhất chúng ta thấy được thế nào là ân sủng của
Thiên Chúa.
Có
nhiều, rất nhiều đền thờ, nhà thờ người ta dành tôn kính Ðức Maria
dưới tước hiệu "Thánh Maria ban ơn" (Sainte Marie des grâces). Ðây là
một trong những tước hiệu được dân Kitô giáo yêu mến nhất, trong
một số dịp, họ lần lượt kéo đến trước một bức tranh hay một bức
tượng Trinh Nữ "các ơn". Tại sao trước khi cầu xin Ðức Trinh Nữ Maria,
rồi đốt nến, khấn hứa, hay làm tuần cửu nhật để được các ơn đó,
thường chỉ là những ơn vật chất, cho đời sống trần thế này, đó là
những điều mà Thiên Chúa ban cho con người biết tìm Nước Thiên Chúa
trước đã, còn Nước Thiên Chúa mới là ân sủng. Chúng ta sẽ khiến
Ðức Maria trên trời vui mừng biết mấy, và việc tôn kính Ðức Maria
tiến bộ biết bao nhiêu nếu chúng ta, dù không coi thường tước hiệu
"Thánh Maria ban ơn", biết tôn kính và cầu khấn Người dưới tước hiệu
mà chính Lời Chúa đã mạc khải cho chúng ta : "Thánh Maria ân sủng"
(Sainte Marie de la grâce).
CHÚ
THÍCH
1. Saint
Augustin, La
prédestination des saints 15, 30 (Pl 44, 981) ; Sermons 185,
3 (Pl 38, 999).
2. Ch.
Péguy, Le
porche du mystère de la deuxième vertu, dans (Euvres poétiques complètes,
Paris, Gallimard, 1975, p. 573).
3. Ch.
Péguy, Le
mystère des Saints Innocents, dans (Euvres poétiques, op. Cit, p.
804.
4.
Denzinger Schonmetzer, Enchiridion Symbolorum, Herder, 1967. N.
2803.
5. Dante
Alighireri, Paradis,
XXXIII, 1.
6. Saint
Irénée, Contre
les hérésies IV, 34, 1 (Sch 100, p. 846).
7. P.
Pascal, Pensées,
n. 793. Brunschvicg.
8. Cf.
Anonyme, Le
nuage de l’inconnaissance, Paris, Seuil, 1977, p. 40.
9. St
Jérôme, Lettre
107, 7(Pl 22, 874) ; St Augustin, Sur les Psaumes 44, 29 (CC
38, p. 515).
10. St
Thomas d’Aquin, Somme théologique II - IIae, p. 24, a. 2.
11. St
Cyrille d’ Alexandrie, Commentaire sur la deuxième lettre aux Corinthiens 5,
5 (PG 74, 942).
12. St
Basile le Grand, Homélirs 20, 3 (PG 31. 531).
13. N.
Cabasilas, La
vie dans le Christ I, 1 - 2 (PG 150, 496).
14. Bse
Élisabeth de la Trinité, Lettre 107.
15. P.
Claudel, Le
Père humilié, acte I, SC. 3, dans Théâtre, II, Paris,
Gallimard, 1956, p. 506.
16. St
Augustin, Sermon
52, 6, 16 (PL 38, 360).