MARIA
Vào năm 429 sau công nguyên, tại
thành phố Constantinople, dân chúng được nghe một bài giảng. Vị giảng thuyết đã
nói: “Đừng ai gọi Ma-ri-a là mẹ Thiên Chúa.
Ma-ri-a chỉ là một phụ nữ, và đã là một phụ nữ thì không thể sinh ra
Thiên Chúa.” Những lời kỳ quặc này đã
tạo chấn động lớn nơi tín hữu Constantinople, nhất là khi đạo lý đó lại được
chủ trương do một người tên là Nestorius – vị giám mục của họ. Ông từ chối gọi Đức Ma-ri-a là mẹ Thiên Chúa
vì ông không tin rằng Thiên Chúa và Đức Giê-su Ki-tô là một và cũng là cùng một
ngôi vị. Ông chủ trương Thiên Chúa và
Đức Ki-tô là hai ngôi vị riêng biệt, được kết hợp với nhau một cách lạ lùng,
nhưng tách biệt nhau, do đó Đức Ki-tô con người chỉ bắt đầu hiện hữu khi được
sinh ra do Đức Maria, trong khi Đức Ki-tô Thiên Chúa thì đã có từ trước muôn
đời. Cho dù Nestorius có đề cao sự kết
hợp mật thiết giữa Đức Kitô con người và Đức Ki-tô Thiên Chúa đến thế nào đi
nữa, thì đối với ông, Đức Kitô và Thiên Chúa vẫn là hai ngôi vị khác nhau. Do đó Ma-ri-a chỉ là mẹ của một con người –
hoàn toàn một con người.
Tất cả điều này nghe thật chói tai
đối với người Công Giáo thời ấy cũng như với chúng ta ngày nay. Nó đã gây nên rối loạn cho đức tin Kitô giáo
nơi dân chúng. Bởi đó, để đối phó kịp
thời, hai năm sau, các giám mục trong Hội Thánh Công Giáo nhóm họp công đồng
tại Ê-phê-xô, đã làm sáng tỏ tất cả những gì thuộc đức tin Ki-tô giáo trước đó,
và những gì thuộc đức tin Kitô giáo từ đó trở đi. Các ngài đã khẳng định: “Đức Kitô là Thiên Chúa thật và do đó,
Thánh Nữ Đồng Trinh cũng là mẹ Thiên Chúa – bởi vì Mẹ đã sinh ra thân xác của
Ngôi Lời làm người, như Kinh Thánh đã viết rằng: ‘Ngôi Lời đã trở nên người
phàm’.” Kitô hữu không còn phải bận tâm, vì không còn gì để nghi ngờ nữa.
Thời đó cũng như ngày nay, hiển
nhiên cái lý do cạm bẫy để những ai từ chối không gọi Đức Ma-ri-a là mẹ Thiên
Chúa chính là sự tách biệt Đức Ki-tô ra – tách biệt Đức Kitô thành “Đức Giê-su
con người” và “Đức Giê-su Thiên Chúa – “Đức Gie-âsu trên trời” và “Đức Giê-su
dưới thế”. Nhưng theo thánh Gioan Tông đồ: “Thần khí nào không tuyên xưng Đức
Giê-su, thì không bởi Thiên Chúa” (1 Ga 4:3).
Cho nên hữu ý hay vô tình, họ đã biến Đức Ki-tô thành một con người hoàn
toàn phàm tục nếu họ cho rằng Maria chỉ là mẹ của một con người mà thôi.
Trả lời cho câu hỏi: “Có phải Đức Ma-ri-a là mẹ Thiên Chúa
không?” cũng chính là trả lời cho câu hỏi:
“Đức Giê-su là ai và làm gì?”
Hai câu hỏi không thể tách biệt, cũng như Đức Ma-ri-a và Con của ngài
không thể tách biệt. Câu trả lời của
Công Giáo luôn luôn rõ rệt và nhất quán – nhất quán theo những đòi hỏi của lẽ
phải và theo những dữ kiện gặp thấy trong Tân Ước.
Những dữ kiện này là gì? Chúng ta có thể trình bày những dữ kiện ấy
cách ngắn gọn như sau: trong Tân Ước,
Đức Giê-su Ki-tô được nói đến như là Thiên Chúa và Ngài rõ ràng được gọi là
Thiên Chúa. Ngài được mô tả như một con người đích thực cũng như Ngài được gọi
là một người đàn ông. Điều ấy rõ ràng
có nghĩa Ngài là một ngôi vị Thiên Chúa nhưng lại có bản tính Thiên Chúa và bản
tính loài người. Không phải bản tính Thiên Chúa trở thành loài người hoặc bản
tính loài người trở thành Thiên Chúa.
Hai bản tính vẫn riêng biệt, nhưng kết hợp lại nơi Ngài vì chúng thuộc
về cùng một ngôi vị là Đức Giê-su Ki-tô.
Xác nhận những dữ kiện này trong
Kinh Thánh không có gì là khó hoặc không thích đáng. Đức Giê-su Ki-tô rõ ràng được gọi là “Thiên Chúa” trong một số
đoạn Kinh Thánh. Sau khi sống lại, lúc
Ngài hiện ra với các Tông đồ và trách Tô-ma thiếu lòng tin, thì “Ông Tô-ma thưa
Ngài: ‘Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con’” (Ga 20:28). Đơn thuần là Tô-ma muốn tuyên xưng đức tin
của ông, không hẳn về việc Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết, nhưng còn về thần
tính trong ngôi vị của Ngài, điều được minh chứng do sự phục sinh là chứng lý
hiển nhiên cuối cùng. Trong ý nghĩa ấy,
Đức Giê-su đã trả lời ông: “Tô-ma, vì anh đã thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay
những người không thấy mà tin.”
Viết cho Ti-tô (2:12), thánh
Phao-lô đã đơn giản gọi Đức Ki-tô là Thiên Chúa khi ngài khích lệ Ki-tô hữu hãy
“sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. Sở dĩ như vậy, là vì
chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Giê-su Ki-tô là
Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng Cứu Độ chúng ta, xuất hiện vinh quang.” Điểm đáng
chú ý là thánh Phao-lô không nói về hai người khác nhau nhưng ngài muốn nói chỉ
duy Đức Ki-tô mới vừa là “Thiên Chúa vĩ đại”, vừa là “Đấng Cứu Độ” chúng ta.
Thánh Gio-an Tông đồ đã hết sức rõ
ràng khi ngài viết: “Chúng ta biết rằng Con Thiên Chúa đã đến và ban cho chúng
ta trí khôn để biết Thiên Chúa thật và chúng ta ở trong Thiên Chúa thật, ở
trong Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô.
Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa thật và là sự sống đời đời.” (1 Ga 5:20).
Không còn khẳng định nào rõ ràng
hơn những lời thánh Phao-lô nói về Đức Ki-tô “là Thiên Chúa, Đấng vượt trên mọi
sự. Chúc tụng Ngài đến muôn thuở muôn
đời” (Rm 9:5).
Trong Kinh Thánh Đức Giê-su Ki-tô
không chỉ được gọi là Thiên Chúa mà thôi, nhưng Ngài còn được gán cho những đặc
tính mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể có và được thuật lại như những hành
động thực hiện mà chỉ một mình Thiên Chúa mới làm được. Những đoạn như thế thật
nhiều, nhưng chúng ta chỉ nhắc đến một số thật hiển nhiên. Chỉ duy Thiên Chúa mới có quyền phép lớn lao
và chỉ có Ngài mới có thể tạo dựng do quyền phép vô cùng của Ngài. Khi nói về
Đức Ki-tô, thánh Phao-lô đã viết: “Vì trong Người muôn vật được tạo thành” (Cl
1:16). Và “chỉ có một Chúa là Đức Giê-su Ki-tô, nhờ Người mà vạn vật được tạo
thành” (1 Cr 8:6). Và thánh Gio-an đã viết: “Không có Người thì chẳng có gì
được tạo thành” (Ga 1:3).
Chỉ có Thiên Chúa mới là vĩnh cửu,
nhưng chính Đức Ki-tô lại nói Ngài có trước Áp-ra-ham là người đã sống và đã
chết cả hàng trăm năm trước khi Đấng Cứu Thế ra đời (Ga 8:58). Ngài còn nói
Ngài có trước khi thế gian được tạo thành (Ga 17:5).
Do đó, không ngạc nhiên khi thấy
Đức Ki-tô đòi hỏi người ta phải tôn kính Ngài với sự tôn kính dành cho Thiên
Chúa mà thôi (Ga 5:23), và Ngài đã đưa ra những lời hứa mà chỉ một mình Thiên
Chúa mới có thể thực hiện được: “Nếu anh em nhân danh Thầy mà xin Thầy điều gì,
thì chính Thầy sẽ làm điều đó” (Ga 14:14).
Ở đây chúng tôi không có ý trích
dẫn thật nhiều đoạn Tân Ước để trình bày và xác nhận việc Đức Giê-su Ki-tô là
Thiên Chúa thật.
Tân Ước cũng rõ ràng khi bàn về
một sự kiện khác. Đó là Đức Giê-su
Ki-tô đã sống như một người phàm thật sự.
Lịch sử cuộc đời Ngài và cách cư xử của Ngài với người khác đã được ghi
lại chi tiết. Sau phục sinh, khi gặp
lại các tông đồ, Ngài đã phản đối họ: “ ‘Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây
mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt
như anh em thấy Thầy có đây?’ Nói xong, Ngài đưa tay chân ra cho các ông xem...
và Ngài ăn trước mặt các ông” (Lc 24:38-43).
Đó là những lời nói của một người đã bị đóng đinh, là người đã cùng
sống, cùng ăn uống và cùng ngủ nghỉ với các tông đồ, là người đã làm việc tại
Na-da-rét, và là người như một hài nhi được đặt nằm trong máng cỏ. Ngài đã sử dụng cách lý luận thật đơn giản và
chắc chắn. “Trong quá khứ anh em đã không nghi ngờ rằng Thầy là người thật sự
đã sống trong những năm chúng ta cùng sống với nhau. Vậy thì giờ đây đừng nghi
ngờ gì nữa, vì anh em đã nhìn thấy và rờ thấy nên hãy tin.”
Chỉ có những ai muốn coi nhẹ mọi
lịch sử chính đáng, thì mới chối nhận con người lịch sử Đức Giê-su Ki-tô không
phải là một con người thật sự. Nhưng
cùng những sử liệu minh chứng việc thừa nhận Đức Giê-su là con người lịch sử
thật sự, thì chính những sử liệu đó cũng minh chứng việc thừa nhận Ngài là một
ngôi Thiên Chúa với tất cả những đặc tính của Thiên Chúa.
Từ Kinh Thánh chúng ta biết được
rằng: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta... Ngôi Lời là
Thiên Chúa” và Ngôi Lời là Đức Giê-su Ki-tô; “Từ nguồn sung mãn của Người, tất
cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác... còn ân sủng và sự thật thì
nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có” (Ga 1:1-18).
Trình bày về Đức Giê-su Ki-tô,
thánh Phao-lô đã nói về Ngài như “Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải
nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ
vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người
trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng
lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:6-8). Đúng như vậy! Đấng là Thiên Chúa do bản tính Thiên Chúa của Ngài đã trở nên
người phàm bằng cách mặc lấy bản tính loài người.
Có chỗ nào trong sách Tân Ước cho
thấy sự khác biệt giữa Đức Giê-su Thiên Chúa và Đức Giê-su con người
không? Hay có chỗ nào nói lên rằng
Ma-ri-a là mẹ của một Giê-su và chúng ta được cứu chuộc nhờ một Giê-su khác
không?
Khi chúng ta
trả lời câu hỏi “Con của Ma-ri-a là ai?” và trả lời dựa trên những gì Kinh
Thánh nói với chúng ta, thì chỉ có thể có một câu trả lời: Ngài là một ngôi vị Thiên Chúa nhưng có cả
bản tính Thiên Chúa lẫn bản tính loài người.
Hai bản tính của Ngài với hai quyền lực khác biệt không làm cho Ngài trở
nên hai người riêng biệt. Ngài là Đức
Giê-su Ki-tô, người Con Vĩnh Cửu của Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và là người
thật. Đây là sự thật của Mầu Nhiệm Nhập Thể.
Đó là tâm điểm chân lý Ki-tô giáo.
Đó là chân lý căn bản, là trọng tâm của Kinh Tin kính Ki-tô giáo. Kitô hữu đã nói đến mầu nhiệm này qua nhiều
thế kỷ và người ta đã sớm nhận thức được rằng nếu dùng ngôn ngữ loài người để
nói về Đức Giê-su Ki-tô, thì chúng ta phải sử dụng thận trọng cũng như phải
nghiêm túc giải thích mầu nhiệm ấy.
Thiên Chúa – một ngôi vị Thiên
Chúa – đã mặc lấy thân xác phàm nhân với cơ cấu và những chức năng giống như
thân xác mà mỗi người chúng ta đều biết rất rõ. Người đã tự mặc lấy một linh hồn của con người, một trí khôn của
con người, những cảm nghĩ và cảm xúc của con người, giống y như chúng ta khi
sinh ra đều có những đặc tính chung của một con người. Nhưng không vì thế mà Ngài không còn là
Thiên Chúa, Đấng có bản tính hoàn toàn là thiêng liêng, không cần một hình thể
cấu thành nào, quyền lực ý chí của Người là toàn năng, trí tuệ của Người là
thông biết mọi sự, và sự sống của Người đã có từ trước muôn đời và sẽ tồn tại
cho đến mãi mãi thiên thu vạn đại. Thánh
Kinh diễn tả Ngài một cách đơn giản là “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư
ngụ giữa chúng ta” (Ga 1:14).
Ý nghĩa trọng đại của sự thật này
bắt đầu soi sáng chúng ta khi chúng ta suy nghĩ rằng: Tất cả điều ấy là thực
đối với Thiên Chúa và tất cả điều ấy là thực đối với con người này, tức là với
Đức Giêsu Kitô. Những gì là thực đối
với bản tính Thiên Chúa và những gì là thực đối với bản tính loài người đều
phải được khẳng định về chính Ngài, tức là về Đức Giêsu Kitô. Ngài là vô biên, quyền phép vô cùng, thông
biết mọi sự và vĩnh cửu. Và cũng là thực khi Ngài là con người nên cũng phải
chết, cũng bị giới hạn về sức lực, có thể cảm thấy mệt nhọc và đau đớn, lệ
thuộc vào sự tăng trưởng của hình dáng cơ thể và sự hiểu biết loài người.
Điều đó không có nghĩa là bản tính
Thiên Chúa trở thành loài người hay trí khôn không sai lầm của Thiên Chúa trở
nên sai lầm, hay bản tính bất tử của Thiên Chúa trở thành phải chết. Thần tính
đã không hề biến thành nhân tính. Nhưng có nghĩa là một ngôi Thiên Chúa đã mang
lấy bản tính loài người, và nếu ngôn ngữ loài người diễn tả được sự thật, thì
những gì Ngài có trong bản tính nhân loại cũng phải là của chính Ngài.
Với ý nghĩ này, chúng ta có thể
bắt đầu thấy rằng những gì coi có vẻ là mâu thuẫn trong một số đoạn Tân ước thì
lại thật là hợp lý. Thực sự một lần Đức
Ki-tô đã có thể nói về chính Ngài: “Chúa Cha cao trọng hơn Thầy” (Ga 14:28), và
lần khác Ngài lại nói: “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10:30). Vì bản tính loài người của Ngài, Ngài thực
sự lêï thuộc vào Thiên Chúa và có thể cầu nguyện cùng với Chúa Cha trên trời,
cũng là Cha của mọi người. Rồi vì cùng
một bản tính Thiên Chúa với Chúa Cha, nên Ngài ngang hàng và là một với Chúa
Cha.
Do bản chất yếu đuối của con
người, Ngài có thể đổ mồ hôi máu trước cái chết của Ngài, nhưng do quyền phép
vô cùng của bản tính Thiên Chúa, Ngài có thể chỉ phán một lời làm cho người
chết sống lại.
Bởi vậy, thánh Phê-rô Tông Đồ đã
không vô lý khi ngài tố cáo dân chúng: “Anh em đã giết Đấng khơi nguồn sự sống”
(Cv 3:15). Hay thánh Phao-lô cũng không
vô lý khi ngài viết về những kẻ đã “đóng đinh Đức Chúa vinh hiển vào thập giá”
(1 Cr 2:8). Họ đóng đinh và giết Đức
Giê-su Ki-tô là Đấng khơi nguồn sự sống, là Đấng Tạo Hóa bất diệt theo như bản
tính Thiên Chúa của Ngài, nhưng cũng là Đấng phải chết theo bản tính loài người
hay chết của Ngài.
Vậy rõ ràng là nếu không phải là
phi lý khi Phê-rô đã nói Đức Giê-su Ki-tô là Thiên Chúa lúc ngài nói về những
những kẻ giết Đấng khơi nguồn sự sống, thì cũng không phi lý khi chúng ta nói
về Đức Giê-su Ki-tô là “Thiên Chúa đã chịu cắt bì – Thiên Chúa đã lạc mất cha
mẹ Ngài – Thiên Chúa lớn lên trong sự khôn ngoan và khỏe mạnh – Thiên Chúa đã
mệt nhọc và nằm ngủ.”
Thánh Phao-lô cũng không đến nỗi
phi lý mấy khi ngài nói về việc xuất hiện của Đức Ki-tô, Đấng Cứu Độ, trong
những lời sau đây: “Khi thời gian tới
hồi viên mãn, Thiên Chúa đã sai Con mình tới, sinh làm con một người đàn bà, và
sống dưới Lề Luật, để chuộc những ai sống dưới Lề Luật” (Gl 4:4). Con Thiên Chúa đã sinh ra bởi một người đàn
bà. Ngôi Lời, Đấng là Thiên Chúa, đã
trở thành người phàm và cư ngụ giữa chúng ta bằng cách sinh ra bởi một người
đàn bà. Đức Chúa là Thiên Chúa và cứu
chuộc chúng ta bằng cái chết trên thập giá, đã sinh ra bởi một người đàn
bà. Người đàn bà đó là Ma-ri-a, mẹ Ngôi
Lời, mẹ Thiên Chúa.
Dẫu vậy, có nhiều người tuy nói
một cách thuộc lòng về Ma-ri-a là mẹ Đức Giê-su, lại ngần ngại không muốn gọi
Ma-ri-a là mẹ Thiên Chúa. Họ không hiểu
hết ý nghĩa của mầu nhiệm Nhập Thể.
Không có lý do thích đáng giải thích tại sao một ngôi Thiên Chúa, Đức
Giê-su Ki-tô, Đấng thật sự là người, không thể được thụ thai và sinh ra theo
như bản tính loài người này. Điều này không có nghĩa là mẹ Ngài, giống như một
thứ nữ thần, sẽ làm cho bản tính Thiên Chúa của Ngài trở nên hiện hữu. Cũng không có nghĩa là với tính cách là mẹ
của một ngôi Thiên Chúa, Ma-ri-a phải hiện hữu trước Ngài. Đức Ki-tô đã khẳng định rằng Ngài có trước
khi Áp-ra-ham sinh ra. Là Thiên Chúa,
nên Ngài là vĩnh cửu. Và là con người,
nên Ngài bắt đầu sống một cuộc sống loài người khi Ma-ri-a mang thai Ngài.
Ma-ri-a đã không có trước Thiên Chúa, nhưng Ma-ri-a có trước khi Thiên Chúa mặc
lấy bản tính loài người trong cung lòng của bà.
Nếu không phải là phi lý khi nói Đức Giêsu Kitô, một ngôi Thiên Chúa, đã được mẹ Ngài là Ma-ri-a cho Ngài sự sống loài người, thì cũng không phải là phi lý khi nói cha của Ma-ri-a là ông ngoại của Ngài. Thiên Chúa có ông ngoại không? Nếu đặt câu hỏi này mà không liên hệ gì đến Đức Giê-su Ki-tô, thì câu hỏi này thật là ngớ ngẩn. Nhưng nếu có liên quan đến Đức Giê-su Ki-tô, thì câu trả lời khẳng định sẽ là chân lý phúc âm.
Nguyễn Việt
Hữu, chuyển ngữ