ĐÂY LÀ MẸ CỦA ANH
Bạn có nghĩ
Đức Ma-ri-a là người phụ nữ có tầm vóc quan trọng trong lịch sử nhân loại chỉ
vì ngài đã có cơ may trở nên mẹ Đức Giê-su Ki-tô, một nhân vật lịch sử vĩ đại
nhất trong mọi thời không? Ngài chỉ là
thế đối với thế giới hôm nay hay sao?
Hay vai trò làm Mẹ Đức Ki-tô còn có một quan hệ thực tế đối với chúng
ta?
Khi đặt câu
hỏi này, chúng ta không thể bỏ qua vấn đề Đức Kitô là ai (tức là Con Thiên Chúa làm người), nhưng còn một vấn đề nữa cũng có tầm quan
trọng như vậy, đó là tại sao Ngài đã làm người
(tức là Ngài thể hiện lời hứa của Thiên Chúa sẽ cứu con người khỏi tội
lỗi). Điều đó có ý nghĩa đối với chúng
ta. Đúng vậy, chúng ta có thể xét những
câu hỏi và những câu trả lời này biệt lập nhau; nhưng trong thực tế tất cả chỉ là những giai đoạn khác nhau trong
một chương trình thống nhất để cứu độ chúng ta. Nếu Đức Ma-ri-a đã có liên hệ với Đức Ki-tô để cứu độ chúng ta
nhờ cái chết của Ngài trên thập giá, thì Đức Ma-ri-a cũng có một liên hệ quan
trọng đối với bạn và tôi trong thế giới hôm nay.
Người Ki-tô
hữu có đúng không khi họ tin và sùng kính Đức Ma-ri-a – một phụ nữ khiêm tốn và
đạo đức Do Thái – là mẹ của Đức Giê-su
và chỉ có thế thôi? Tân Ước ghi lại
việc ngài đi viếng bà Elizabeth, việc sinh hạ Đức Giêsu trong thành Bethlehem,
vai trò của ngài trong phép lạ nước hóa rượu trong tiệc cưới ở thành Ca-na, sự
hiện diện của ngài dưới chân Thánh giá khi Đức Ki-tô sinh thì, và với các môn
đệ trong phòng Tiệc ly hôm lễ Ngũ tuần.
Câu hỏi được đặt ra là tất cả những sự việc trên có liên quan gì đến
việc cứu rỗi chúng ta? Thánh Phao-lô đã
chẳng nói chính Đức Giê-su Ki-tô là Đấng Trung Gian giữa con người và Thiên
Chúa đó sao? Và Thánh Phê-rô đã chẳng
tuyên xưng rằng chính bởi tên một người – Giê-su Ki-tô – mà chúng ta được cứu
độ sao? Và trong vài trường hợp chẳng
phải chính Đức Ki-tô đã trách Mẹ Ma-ri-a xen vào công việc của Ngài khi Ngài
phải lo công việc của Cha Ngài sao? Bởi
thế chúng ta có nên để Đức Mẹ lui vào hậu trường không, kẻo khi tôn vinh Mẹ,
chúng ta sẽ làm giảm đi việc tôn vinh phải dành cho Đức Ki-tô?
Những câu hỏi
này có thể sẽ phản ảnh thái độ của một số độc giả và chúng tôi muốn nhắc đến ở
đây để chúng ta cẩn thận trước quan điểm của họ. Theo Công giáo thì quan điểm này sai lầm.
Thái độ này
không phải là thái độ có tính cách lịch sử của Ki-tô hữu trong Giáo Hội Công
giáo từ thuở sơ khai đến nay. Thái độ
ấy không dựa trên những điều Kinh Thánh nói chúng ta phải có thái độ như thế
nào đối với Đức Ma-ri-a, nhưng thái độ phải có này đã được giải thích bởi lời
sinh động của Giáo Hội từ thời các Tông đồ rồi.
Người Công
giáo học biết được những gì về Đức Ma-ri-a thì không phải là do những gì Giáo
Hội dạy biệt lập với căn bản Kinh Thánh, nhưng do những gì Giáo Hội dạy phải
hiểu theo ý nghĩa đầy đủ về những điều Kinh Thánh đã nói về Đức Ma-ri-a.
Khi chấp thuận
làm mẹ Con Thiên Chúa, Đức Ma-ri-a đã hoàn toàn tự do liên kết chính mình với
Con Thiên Chúa trong công cuộc cứu rỗi nhân loại – bao gồm cả những ai đang đọc
những dòng chữ này.
Đức Ki-tô phải
là Đấng Cứu độ nhân loại, Đấng Mê-xi-a đã được hứa ban cho chúng nhân và là Vua
của nhân loại được cứu chuộc. Do đó Đức
Ma-ri-a cũng đã được mời gọi liên kết chính mình với việc hoàn thành công cuộc
Con Thiên Chúa xuống thế làm người, tức là công cuộc cứu độ tội nhân, với sứ mệnh của Đấng Mê-xi-a, và với việc
tạo dựng vương quốc đã được Sứ thần Gáp-ri-en tiên báo.
Khi thiên sứ
truyền tin cho Đức Ma-ri-a, công cuộc cứu rỗi của Đức Ki-tô đã được sắp đặt và
điều này liên hệ đến toàn thể nhân loại.
Đừng nghĩ rằng việc Đức Ma-ri-a chấp thuận làm mẹ Đức Ki-tô chỉ có nghĩa
như là mẹ của một cá nhân riêng tư, hoặc Mẹ không có một liên hệ nào với Đức
Ki-tô trong tư cách là người của công chúng và là Đấng Cứu thế.
Bởi chính việc
Đức Ma-ri-a được tự do cộng tác với Thiên Chúa khi Người sai Con mình đến, sinh
hạ bởi người phụ nữ, thì Mẹ đã dự phần vào việc hoàn thành mục đích của Chúa
Con khi đến thế gian. Qua việc chấp
thuận trao tặng máu thịt mình cho Con Thiên Chúa và sinh ra Ngài nơi gian trần,
Mẹ đã chẳng trao tặng Đấng Cứu Thế cho nhân loại theo cách riêng của Mẹ hay
sao? Khi ban tặng cho chúng ta Con Một
Người làm Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa, Cha chúng ta, đã chẳng ban tặng qua Đức
Ma-ri-a hay sao?
Nhưng có thực
tất cả những điều này chỉ gặp thấy trong một đoạn ngắn ở chương thứ nhất Tin
Mừng Lu-ca và chẳng được nhắc đến ở đâu khác trong Kinh Thánh không? Không phải vậy! Chúng ta hãy bắt đầu với thánh Phaolô. Ngoài việc nói về Đức Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa sinh ra bởi
một phụ nữ, Phao-lô còn gọi Ngài là “A-đam thứ hai” (Cr 15:45-47), và cách gọi này bao hàm rất nhiều ý nghĩa,
không những về Đức Giê-su Ki-tô, nhưng còn về Đức Ma-ri-a nữa.
Khi nói về Đức
Giêsu như “A-đam thứ hai”, thánh Phao-lô đã khai mở cả một chân trời mới về
Đấng Cứu Thế và công việc của Người.
Ngài đã trình bày những điều được mặc khải cho ngài về chương trình cứu
độ của Thiên Chúa. Theo thánh Phao-lô,
Đức Ki-tô là A-đam thứ hai đã phục hồi cho nhân loại những gì nhân loại đã đánh
mất do A-đam thứ nhất là tổ tiên loài người.
“Như mọi người vì liên đới với A-đam mà phải chết, thì mọi người nhờ
liên đới với Đức Ki-tô, cũng được Thiên Chúa cho sống” (1 Cr 15:22) .
Điểm tương
đồng giữa A-đam và Đức Ki-tô, nói chung là ở mối liên hệ của cả hai đối với
nhân loại, là tổ phụ và là Đấng Cứu Thế của nhân loại. Sự khác biệt giữa hai vị là ở cách xử lý và
hậu quả gây nên. Việc bất phục tùng của
người thứ nhất làm mất đi tình bằng hữu với Thiên Chúa và đem lại sự chết cho
mọi người. Còn sự tuân phục của người
thứ hai phục hồi tình bằng hữu ấy và đem lại sự sống thiêng liêng làm đẹp lòng
Thiên Chúa.
So sánh của
thánh Phao-lô giữa Đức Ki-tô với A-đam, dựa trên câu truyện sách Sáng Thế nói
về việc nguyên tổ sa ngã, đòi phải có sự so sánh giữa người phụ nữ đã được tiền
định là kẻ thù của Xa-tan và là đấng sẽ sinh hạ Đấng Cứu Thế, với E-và là người
đã cùng liên kết với A-đam trong việc sa ngã.
Những sách chú
giải của Công giáo về Kinh Thánh, kể cả những tác phẩm được viết do những tác
giả thuộc vài ba thế hệ sau Đức Giê-su và các Thánh Tông đồ, đã nhắc chúng ta
hãy chú ý đến điểm tương đồng đáng kể giữa vai trò của E-và, người phụ nữ trong
câu truyện tổ tông sa ngã và mất tình bằng hữu với Thiên Chúa do ông A-đam, với
vai trò của Đức Ma-ri-a, người phụ nữ trong việc phục hồi tình bằng hữu cho
nhân loại.
Thánh
Giustinô, sống khoảng năm 110 - 165, đã viết: “Bởi E-và, khi còn là một trinh
nữ và chưa bị nhơ uế, nghe lời con rắn nên đã đưa tới sự bất phục tùng và sự
chết; Trinh Nữ Ma-ri-a, với đức tin và
hân hoan khi nghe thiên sứ loan báo tin mừng là Thánh Thần sẽ ngự xuống trên
bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, người con sinh ra
sẽ là thánh, và được gọi là Con Thiên Chúa, liền trả lời xin Chúa cứ làm cho
tôi như lời sứ thần nói. Và do đó qua
bà đã sinh ra Đấng mà chúng ta đã chứng tỏ nhiều đoạn Kinh Thánh đã nói về
Ngài, cũng là Đấng Thiên Chúa đã nhờ Ngài mà loại bỏ con rắn cùng với đám thiên
thần và những kẻ theo nó, còn Ngài thì trái lại, đã đem lại giải thoát khỏi cái
chết cho những ai thống hối về những điều dữ mình làm và tin vào Ngài” (Dialogue with Trypho, 100).
Điều rất quan
trọng là nếu chúng ta hiểu theo ý nghĩa đầy đủ và chính xác về điểm tương đồng
Kinh Thánh cho là có giữa việc nguyên tổ sa ngã và việc Đức Giê-su Ki-tô phục
hồi, thì chúng ta cũng phải hiểu rằng vai trò của Đức Ma-ri-a trong việc sửa
chữa đã được Thiên Chúa phác họa cũng sẽ tương đồng với vai trò của người phụ
nữ đầu tiên trong việc sa ngã của tổ tông.
Chương 3 sách
Sáng Thế cho thấy E-và giữ vai trò trọng yếu trong việc loài người sa ngã. Đích thực số phận của nhân loại nằm trong
tay A-đam (Rm 5:12). Chỉ mình ông đại
diện cho chúng ta nên chính ông mới có thể ngăn ngừa hoặc gây nên việc sa
ngã. Nhưng E-và cũng đã có chỗ đứng của
mình trong việc này, bởi A-đam đã gọi bà là “mẹ của chúng sinh” (St 3:20) là
tên gọi không những diễn tả một sự thật mà còn cho thấy phẩm giá của bà. Vì bà có liên hệ chung với toàn thể nhân
loại, nên bà cũng giữ vai trò riêng của mình trong sự thử thách và sa ngã do
A-đam. “Người đàn bà đã phạm tội, khi
bị dụ dỗ” (1 Tm 2:14). Bà đã nghe lời
xúi giục của tên cám dỗ và đã cộng tác vào việc phạm tội, không phải như người
không có trách nhiệm, nhưng là cách rất liên hệ và đích thân. Qua phương cách của bà, bà đã mang tội lụy
đến cho thế gian và có trách nhiệm về án phạt thế gian phải chịu.
Trong biến cố
kinh khủng này có ba nhân vật: thần dữ
dưới hình dạng con rắn, người phụ nữ đầu tiên và người nam đầu tiên. Khi án phạt được tuyên phán thì một biến cố
sẽ xảy ra trong tương lai xa cũng đã được công bố, một biến cố mà cả ba thành
phần (con rắn, người nữ và người nam) đều là dấu hiệu tiên báo, đó là dòng
giống. Nhưng biến cố đó phải là A-đam
thứ hai và E-và thứ hai, đấng sẽ là mẹ của A-đam mới. Thiên Chúa hứa đặt mối thù giữa con rắn và bà, giữa dòng giống
con rắn và dòng giống bà. Bà và dòng
giống bà sẽ toàn thắng con rắn. Dòng
giống bà chính là Đức Giê-su Ki-tô, A-đam mới;
và Đức Ma-ri-a mẹ Ngài chính là E-và mới.
Thánh I-rê-nê,
một học giả Ki-tô giáo sinh vào khoảng năm 130 sau công nguyên và đã được dạy
dỗ về đức tin Ki-tô giáo do một môn đệ của thánh Gio-an Tông đồ, đã ghi lại
những gì Ki-tô hữu sơ khai hiểu về vai trò của Đức Ma-ri-a trong công cuộc cứu
chuộc, so sánh với bà E-và trong việc sa ngã của con người.
I-rê-nê quen
biết với những người thân cận hai thánh Phê-rô, Phao-lô và những người “còn
thấy lời giảng của các thánh Tông đồ vẫn còn vang vọng bên tai.” Ngài làm chứng rằng người ta đã dạy ngài
cùng một sự thật mà Giáo Hội đã nhận được từ các thánh Tông đồ, và do đó “một
đức tin và cũng chính là đức tin ban sự sống đã được bảo tồn trong Giáo hội và
được truyền lại nguyên vẹn từ thời các thánh Tông đồ cho đến ngày nay” (Against
Heresies 3,3).
I-rê-nê
viết: “E-và đã bị dụ dỗ bởi lời của một
thiên thần nên xa lánh Thiên Chúa vì lỗi phạm lời Ngài, còn Đức Ma-ri-a đã lãnh
nhận tin mừng do lời sứ thần truyền nên mang thai Con Thiên Chúa trong lòng vì
Mẹ vâng lời Ngài. Một người phụ nữ thì
không vâng phục, còn người phụ nữ kia thì được dẫn dắt để vâng phục Ngài; trinh nữ E-và, trinh nữ Ma-ri-a, vì cả hai
trở thành người thay mặt cho nhân loại, cho nên bởi một trinh nữ mà nhân loại
đã phải chết thì cũng bởi một trinh nữ mà nhân loại được cứu, để cho có sự
thăng bằng, tức là thăng bằng giữa một trinh nữ bất phục tùng và một trinh nữ
vâng phục” (Against Heresis 3, 19)
Chúng ta đã
nói E-và giữ vai trò cốt yếu trong tội nguyên tổ. Chúng ta cần xét kỹ lưỡng hơn về việc bà đã can dự như thế nào.
Tình trạng tội
lỗi di truyền cho nhân loại chính là do trách nhiệm đơn phương của A-đam. Chính ông, chứ không phải bà E-và, là đầu
của gia đình nhân loại. Giả như E-và đã sa ngã một mình, thì con cháu họ đã
không phải gánh chịu hậu quả. Giả như bà vẫn trung thành, trong khi chỉ có một
mình ông A-đam phạm tội, thì tình trạng tội lỗi cũng vẫn đổ trên mọi người.
Như sự việc đã
xảy ra, A-đam đã bị xúi giục phạm tội bởi lời nài nỉ của E-và. Do lời thuyết phục nên bà đã đem lại sự việc
đáng tiếc, và như thế, việc này cũng liên can đến bà. Vậy thực ra A-đam chính là tác giả của sự hư mất gây ra nguyên
bởi tội của ông, tuy nhiên vì sự cộng tác của bà, mọi sự đều có thể quy tại đề
nghị và xúi giục của bà.
Giờ đây chúng
ta hãy tìm hiểu về vai trò của Đức Ma-ri-a trong chương trình cứu rỗi như đã
thực sự xảy ra.
Đức Giê-su
Ki-tô là tác giả duy nhất của chương trình cứu chuộc, và cái chết cứu độ của
Ngài đã đủ để đền bù tội lỗi cả nhân loại.
Cái chết ấy tự nó đã trọn vẹn, đầy đủ và lại còn phong phú để làm cho
chúng ta được nên công chính trước mặt Thiên Chúa, được thánh hóa và được cứu
độ. Giả như Ngài đã đến thế gian mà
không cần bất cứ ai liên hệ với Ngài, thì việc cứu rỗi của chúng ta cũng vẫn
được hoàn tất. Giả như Ngài đã không tự
hiến làm hy tế cho chúng ta, thì dù tất cả những gì Đức Ma-ri-a hoặc bất cứ một
ai khác làm cũng không đủ để giao hòa chúng ta với Thiên Chúa được.
Do đó, việc Mẹ
Ma-ri-a liên kết với Đức Giê-su trong chương trình cứu rỗi như đã thực sự xảy
ra cũng không thêm gì cho sự hy sinh của Ngài.
Chúng ta được trở thành bạn hữu của Thiên Chúa chỉ là do công nghiệp của
Đức Giê-su Ki-tô mà thôi. Đây chính là
điều Giáo Hội Công giáo luôn luôn dạy và tin như thế.
Nhưng Đức
Ma-ri-a đã tham gia vào công cuộc cứu độ và Kinh Thánh cho chúng ta biết những
dữ kiện ấy. Bà E-và thứ nhất dự phần
vào việc sa ngã đã làm hư hỏng con người bằng cách cố tình xúi giục ông A-đam
phạm tội. Bà E-và thứ hai, Đức Ma-ri-a, đã cứu chúng ta qua việc dự phần vào
công cuộc cứu độ khi chấp nhận làm mẹ Con Thiên Chúa, Đấng đã đến cứu dân Người
khỏi tội lỗi.
Đức Giê-su
Ki-tô vì là Đấng Cứu Thế duy nhất, Đấng Trung Gian giữa con người và Thiên
Chúa, đã giao hòa chúng ta với Thiên Chúa.
Tuy nhiên, Đức Ma-ri-a đã liên
kết với Đấng Trung Gian trong kế hoạch của Thiên Chúa và thực thi phận sự của
mình, một phận sự cốt yếu, giống hệt như bà E-và đã dự phần vào việc sa ngã của
con người.
Nhưng sao ta
lại có thể nói vai trò của Đức Maria là thiết yếu? Hãy đọc chương đầu sách Tin Mừng Lu-ca, bạn sẽ thấy Thiên thần
Gáp-ri-en đã không đến gặp Đức Ma-ri-a chỉ để loan báo những gì sẽ xảy ra, mà
ngài đến để xin sự ưng thuận của Đức Ma-ri-a.
Do đó trong chương trình của Thiên Chúa, sự ưng thuận của Đức Ma-ri-a
thật cần thiết. Nếu không phải là cần
thiết thì tại sao lại hỏi ý kiến?
Tại sao lại
phải hỏi sự ưng thuận của Mẹ? Một trong
những lý do là sự ưng thuận của Mẹ làm cho việc Sửa chữa tương đồng với việc Sa
ngã. Bởi tính kiêu căng bất phục tùng,
A-đam đã hủy hoại toàn thể nhân loại;
do đó Đức Giê-su Ki-tô, A-đam thứ hai, do sự vâng phục khiêm nhượng của
Ngài, đã cứu nhân loại. Trong khi E-và,
bởi lời xúi giục, đã cộng tác với việc bất tuân của A-đam, thì Đức Ma-ri-a,
E-và thứ hai, qua lời ưng thuận, đã cộng tác với công cuộc cứu chuộc Đức Giê-su
đã thực hiện được trên thập giá. Người
phụ nữ thứ nhất đã gây nên sự sa ngã bởi nghe lời xúi giục của thiên thần phản
loạn, còn E-và thứ hai đã chấp nhận đề nghị về công cuộc cứu chuộc được trình
bày do vị thiên thần trung thành đã được Thiên Chúa sai đến.
Thiên Chúa với
tình yêu và sự tốt lành khôn tả, đã phác họa công cuộc cứu chuộc và phương thức
thực hiện. Chúng ta nhận rõ mình hoàn toàn
mắc nợ lòng yêu thương của Người. Nhưng chúng ta cũng thấy là qua kế hoạch yêu
thương, Người Con Vĩnh Cửu của Thiên Chúa, Đức Giê-su Ki-tô, đã làm người và hy
sinh chính mình cho chúng ta trên thập giá.
Cho nên sẽ không làm suy giảm thái độ biết ơn của chúng ta đối với Cha
trên trời chút nào nếu chúng ta biết mình hoàn toàn mắc nợ Đức Giê-su Ki-tô,
Đấng Cứu Thế. Có một điều cũng rất rõ
ràng là sự ưng thuận của Đức Ma-ri-a đã được hỏi ý và được trả lời để cho Con
Thiên Chúa có thể làm người và cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Do đó, cũng không làm suy giảm thái độ biết
ơn của chúng ta đối với Đức Giê-su Ki-tô và Thiên Chúa Cha chút nào nếu chúng ta nhận thức mình phải mắc nợ Đức
Ma-ri-a.
Lòng biết ơn
của chúng ta đối với Thiên Chúa, Cha chúng ta, không bị giảm bớt nhưng ngược
lại còn được tăng thêm do lòng biết ơn của chúng ta đối với Con của Ngài. Cũng thế, lòng biết ơn của chúng ta đối với
Chúa Con cũng không bị giảm bớt nhưng được tăng thêm do lòng biết ơn của chúng
ta đối với Đức Ma-ri-a. Những ai nhiệt
tâm tôn kính và tỏ lòng biết ơn sâu xa nhất đối với Mẹ Ma-ri-a thì cũng tỏ lòng
tôn kính và cảm tạ, cùng với lòng yêu mến nồng nàn nhất đối với Đức Giê-su
Ki-tô, Đấng Cứu Thế.
Vậy Đức
Ma-ri-a có liên hệ gì với chúng ta?
Giáo hội Công giáo trả lời:
chắc chắn có. Và vẫn cùng một
câu trả lời ấy, ngày nay cũng như ở thế kỷ thứ tư: “ E-và được gọi là mẹ của chúng sinh… sau việc sa ngã bà đã được gọi bằng danh hiệu này. Thật vậy… toàn thể nhân loại đã được sinh ra
từ Evà; nhưng thực sự chính từ Đức
Ma-ri-a mà Sự Sống đã được sinh ra cho nhân loại. Như thế khi sinh ra Đấng Hằng Sống, Đức Ma-ri-a đã trở thành mẹ
của mọi kẻ sống” (Thánh Epiphanius, Against Eighty Heresies, 78, 9) .
Các Kitô hữu
đã nói lên mối liên hệ giữa Đức Maria với chúng ta qua việc tôn xưng ngài với
tước hiệu “Mẹ chúng ta.” Dĩ nhiên, điều
này không diễn tả thiên chức làm mẹ theo nghĩa thông thường, nhưng là một liên
hệ thiêng liêng. Đúng y như thánh
Phao-lô đã nói với các tín hữu Cô-rin-tô: “Trong Đức Ki-tô, nhờ Tin Mừng, chính
tôi đã sinh ra anh em” (1 Cr 4:15), Đức Ma-ri-a cũng có thể nói với toàn thể
nhân loại: “Trong Đức Giê-su Ki-tô, do
việc ưng thuận cộng tác vào chương trình cứu rỗi chúng con, mẹ đã sinh ra chúng
con.” Ngài đã hợp tác vào việc tái sinh
chúng ta bằng cách ban cho chúng ta Đấng Tạo Hóa.
Trên đồi
Can-vê, khi nói với Mẹ Ma-ri-a: “Đây là con của Bà,” và với thánh Gio-an: “Đây là Mẹ của anh,” thì Đức Giê-su Ki-tô đã
công bố sự thật nói trên. Ki-tô hữu đã
luôn luôn coi thánh Gio-an như thay mặt cho tất cả những ai được cứu chuộc muốn
nhìn lên Đức Ma-ri-a như là “mẹ” của họ.
Đây cũng là nguồn gốc của việc tôn kính Đức Ma-ri-a.
Nguyễn Việt
Hữu, chuyển ngữ