THỦY CHUNG
Sách Nho có chữ :”Tào khang chi thê bất khả hạ
đường” : Người vợ tấm mắn chẳng
nên hất hủi xuống bậc hèn” (Tống
Hoằng). “Thủy chung” có nghĩa là đầu
và cuối. Việc gì cũng phải có đầu và cuối : hễ đầu xuôi thì đuôi lọt. Khởi đầu,
Thiên Chúa tạo dựng nên con người, cho họ kết hợp với nhau thành một xương một
thịt và dặn họ :”Sự gì Thiên Chúa đã phối
hợp, loài người không được phân ly”
(Mc 10,8). Nếu “Thủy” nơi Thiên Chúa là như vậy, còn “Chung” nơi loài người
thì làm sao ?
I. TRÍCH DẪN LỜI CHÚA.
1. Bài sách Sáng thế :
2,21-24.
Bộ Kinh thánh bắt đầu bằng cuốn Sáng thế ký, và sách Sáng thế lại mở đầu
bằng trình thuật tạo dựng vũ trụ vật chất và con người. Hai trường hợp sáng tạo
được kể, có những chi tiết khác nhau. Tuy chẳng mấy ai tin theo nghĩa đen những
chi tiết này, nhưng sự khác biệt chắc chắn có ý nghĩa.
Khi tạo dựng vũ trụ vật chất, Thiên
Chúa chỉ phán :”Hãy có...” thì liền
có ; và muốn nó tiếp tục sinh ra nhiều thì phán :”Hãy sinh sôi nảy nở...” Sinh sôi nảy nở thế nào không được diễn tả
rõ ràng, nhưng khi tạo dựng con người, Thiên Chúa tỏ ra thận trọng hơn :”Nào Ta hãy dựng nên con người giống hình ảnh Ta”(St 1,26). Còn để bảo tồn và phát triển, Thiên Chúa
không chỉ phán :”Hãy sinh sôi...” mà còn “đạo diễn” một màn đầy ấn tượng : Ngài
đã lấy xương sườn Ađam đang ngủ làm nên người nư õ(Evà), để rồi khi thức dậy,
Ađam hớn hở reo lên :”Đây chính là thịt
và xương tôi !... Bởi đó, người đàn ông sẽ bỏ cha mẹ và khăng khít với vợ mình,
và cả hai sẽ nên một xương một thịt”(St 2,21-24).
2.
Bài Tin mừng : Mc 10,6-9 ; Mt 5,27-32.
Ai cũng biết, Đức Giêsu đến không phải
để phá bỏ lề luật Cựu ước, mà là để kiện toàn. Bài Tin mừng chúng ta vừa nghe
thuật truyện Chúa Giêsu trình bầy quan điểm của Ngài về luật ly dị và đa thê
của thời Môsê. Ngài cho rằng Môsê đã cho phép điều đó vì “sự cứng lòng của người Do thái”
(Mt 19,8), nên cần phải loại bỏ. Bởi chính lúc khời đầu công trình tạo
dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam, có nữ, vì thế người đàn ông đã
lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy
họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy “sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly”(Mc 10,6-9
; St 2,24).
II.VỢ CHỒNG PHẢI TRUNG THÀNH.
Người đàn bà trong lễ giáo Khổng Mạnh
phải tuyệt đối chung thủy, phải tuyệt đối trung thành với chồng mình. Họ phải
giữ cái đạo “Tam tòng” :
Tại gia tòng phụ,
Xuất
giá tòng phu,
Phu
tử tòng tử.
Nghĩa là : người con gái ở nhà thì
theo cha, đi lấy chồng thì theo chồng, chồng chết thì theo con.
Chữ “chung thủy” của người xưa thật đáng ca tụng, nhưng tôi thấy nó rất
thiên lệch và không công bằng. Lễ giáo của Khổng Mạnh đã áp đặt chặt chẽ trên
người đàn bà, trong khi đó thì người đàn ông lại được thả lỏng :
Trai thì năm thê bảy thiếp,
trong khi đó thì :
Gái chính chuyên chỉ có một chồng.
và nếu có một vợ một chồng
thì theo sự diễn tả một cách châm biếm, đó là :
Nhất phu nhất phụ,
Mỗi
mụ mỗi nơi.
Còn thời nay thì sao ?
Đối với xã hội Tây phương thì chữ “chung
thủy” thời nay đã biến mất. Người ta thay vợ đổi chồng như thay áo. Có nơi số đôi hôn phối ly dị đến 50%, thậm
chí có nơi đến gần 70%. Cái hôn ước không còn giá trị nữa. Chính vì thế mà gia
đình bị lung lay tận nền tảng , tận gốc rễ để rồi đi đến chỗ đổ vỡ chỉ vì những
lý do không đâu. Còn ở Việt nam thì sao
?
Truyện : trên chuyến xe
đò.
Có một lần trên chuyến xe đò đi
Sàigòn, tôi được nghe mẩu tâm sự vụn giữa mấy bà mấy cô với nhau. Bà thì than
rằng ông chồng của mình bê bối. Bà thì bực tức thấy ông nhà đèo bòng mà chẳng
làm gì được. Nói ra thì xấu thiếp hổ chàng, còn để vậy thì ấm ức trong lòng.
Sau cùng, có một bà kết luận : chỉ có mấy bà Công giáo là sướng. Đạo của họ cấm
chỉ việc lang bang. Dù sao chăng nữa, thì họ cũng vẫn một lòng một dạ với nhau.
Nghe mẩu tâm sự ấy, tôi cũng thấy mừng
vì từ ngàn xưa và cho đến ngày hôm nay, sự chung thủy, một vợ một chồng vốn dĩ
đã là nét son của hôn nhân Công giáo.
Ai cũng biết hôn nhân Công giáo là một
khế ước song phương được ký kết giữa hai người. Hôn ước của đạo Công giáo có
hai đặc tính là đơn nhất và vĩnh viễn. Không ai có thể hủy bỏ hôn
ước khi cả hai người còn sống.
Nếu chúng ta đòi buộc người bạn đời
phải tuyệt đối trung thành với mình, thì chúng ta cũng phải có bổn phận phải
tuyệt đối trung thành với người bạn đời như thế. Chúng ta không thể nào chấp nhận những chia sẻ vụng trộm của
người bạn đời thì chúng ta cũng không được chia sẻ tình yêu một cách thầm lén
cho kẻ khác không phải là người bạn đời của mình. Nếu như hành vi thầm lén vụng
trộm của chúng ta bị đổ bể, bởi vì “đi
đêm có ngày gặp ma”... thì lúc bấy giờ chắc chắn dư luận sẽ không buông tha
chúng ta và gia đình ta chắc chắn sẽ gặp nhiều sóng gió.
Tuy nhiên, xưa cũng như nay không
thiếu gì những gương cao đẹp về sự trung thành của vợ chồng trong những gian
nan thử thách.
Truyện : gương sáng của Án Tử.
Án Tử, người nước Tề, nổi tiếng là một
người thanh liêm. Xuất thân từ một gia đình nghèo, Án Tử được vợ hy sinh buôn
tảo bán tần để mình ăn học. Đỗ đạt làm quan, Án Tử không bao giờ quên được ơn
ấy của vợ. Cuộc sống đầy cạm bẫy, ông vẫn một lòng trung thành với vợ.
Một hôm vua Cảnh Công đến thăm ở lại
dùng bữa với Án Tử. Một người đàn bà đã già xuất hiện trong bữa tiệc. Khi Án Tử
vừa giới thiệu người đàn bà đó là vợ mình, nhà vua ngạc nhiên đến sửng sốt. Ông
đề nghị với Án Tử :
- Ôi, vợ khanh trông vừa già lại vừa
xấu. Quả nhân có một đứa con gái vừa trẻ vừa đẹp, quả nhân muốn cho về hầu,
khanh nghĩ sao ?
Án Tử trả lời một cách dứt khoát,
không chút do dự :
- Nội tử của tôi nay thật già và xấu.
Nhưng chúng tôi đã lấy nhau và ăn ở với nhau bao lâu nay, kể từ khi nàng còn
trẻ đẹp. Xưa nay, đàn bà lấy chồng lúc
còn trẻ cốt để nhờ cậy lúc tuổi già, lấy chồng lúc đẹp để nhờ cậy khi xấu. Nội
tử tôi thường nhờ cậy tôi cũng như tôi đã từng nhận sự giúp đỡ của nội tử tôi.
Nay, bệ hạ muốn ban ơn mưa móc là tùy ở bệ hạ, nhưng xin đừng để tôi phải mang
tiếng ăn ở bội bạc với nội tử tôi.
Nói xong, Án Tử lạy hai lạy, xin từ
chối không lấy con gái của nhà vua.
(Lẽ sống,
tr 302).
KẾT
LUẬN
Sau
hết, anh chị hãy hiểu và ý thức lời hứa hôn mà anh chị sắp đọc lên cũng
như lúc xỏ nhẫn để anh chị phải trung thành với nhau qua mọi cảnh huống của
cuộc sống : khi vui cũng như lúc buồn, khi thành công cũng như khi thất bại,
khi mạnh khỏe cũng như lúc yếu đau, để yêu thương, để nâng đỡ và để cùng dìu
nhau bước đi trong cuộc sống : “Hãy nhận
lấy chiếc nhẫn này để làm bằng chứng tình yêu và trung thành của nhau”:
Nói
lời hãy giữ lấy lời,
Đừng
như con bướm đậu rồi lại bay.
(Ca dao)
Anh hãy suy nghĩ và cố thực hiện được
câu nói đầy ý nghĩa của Tốâng Hoằng :
“Tào
khang chi thê bất khả hạ đường”.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt