MIẾNG TRẦU
***
I. TRUYỆN TRẦU CAU.
Trong dân gian Việt
nam có một câu truyện rất bình dân và rất phổ biến mà ai cũng biết, nó nói lên
tình nghĩa vợ chồng anh em, tạo nên hạnh phúc gia đình. Câu truyện ấy như sau :
Có hai anh em họ
Cao, diện mạo, thân hình cùng tác phong giống hệt nhau. Họ thương yêu nhau và gắn
bó với nhau đến nỗi không thể rời xa nhau được.
Người anh tên là Tân
kết hôn với nàng Lưu-sương-Phù. Còn em tên là Lang, tuy đã lớn tuổi nhưng vẫn
không muốn kết bạn để khỏi phải rời xa anh chị.
Một hôm hai anh em đi
săn, người em cảm thấy mệt nên bỏ rừng về nhà trước. Nàng Lưu sương Phù tưởng lầm
đó là chồng mình, nên chạy ra cổng chào đón với tất cả tình âu yếm. Người em cảm
thấy e thẹn. Và để khỏi tái diễn cảnh ngượng ngùng đó nữa, chàng đã quyết định
bỏ nhà ra đi.
Chàng lang thang mãi
cho tới khi đến bên bờ một con sông lớn. Không một con đò, cũng không một nhịp
cầu, nên chàng phải dừng chân bên bờ sông. Vừa đói, vừa mệt lả, chàng chết dần,
hoá thành tảng đá lớn.
Người anh biết sự
việc nên bỏ nhà ra đi tìm em để trọn tình ruột thịt. Anh lần mò theo cùng con đường
em đã đi. Đến bờ sông, anh vừa đói vừa mệt nên ngồi nghỉ trên tảng đá lớn rồi
chết là hóa thành cây cau cao vút trời xanh.
Nàng Lưu sương Phù
ngày ngày mong chồng chờ em trở về, nhưng vẫn biền biệt, nên nàng cũng bỏ nhà
ra đi cho trọn tình nghĩa vợ chồng. Nàng cũng đi theo con đường mòn mà chồng và
em đã đi qua. Tới bờ sông, nàng ngồi nghỉ trên tảng đá, dựa lưng vào thân cây
cau rồi cũng chết đi hoá thành dây trầu cuốn quanh cây cau.
1. Ý
nghĩa câu truyện :
Mỗi câu truyện cổ tích đều
có hậu, đều đem đến một bài học luân lý. Câu truyện trầu cau nói lên tình nghĩa
gia đình và tình nghĩa anh em. Chính tình yêu này đã tạo nên hạnh phúc gia đình. Sự phối hợp trầu cau và vôi lấy từ đá luôn tạo
thành mầu đỏ thắm, được dùng để diễn tả tình nghĩa sâu đậm và mặn mà giữa vợ chồng,
với anh em trong gia đình đầm ấm yêu thương.
Chính vì thế, trầu cau được dùng trong việc cưới hỏi, để cầu chúc đôi tân
hôn xây dựng tổ ấm gia đình trong tình nghĩa thân thương.
2. Tục lệ trầu cau trong nền văn
hoá Việt nam.
* Trong xã giao hằng ngày.
Người ta nói :”Miếng trầu là đầu câu chuyện”. Theo thói
quen của phong tục ngày xưa, người ta mời
chào nhau bằng miếng trầu trong nơi bình dân cũng như nơi quyền quí. Gặp nhau
trên đường hay ở một hàng quán cũng mời nhau trầu, nhất là khi khách đến nhà. Trong bài thơ “Khách đến chơi nhà” thi sĩ
Nguyễn Khuyến đã xin lỗi bạn vì không có trầu để chào mời :
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây, ta với ta.
* Trong cách trao đổi giữa trai gái.
Các bạn trẻ tuổi lứa
đôi, khi gặp nhau cũng đưa mời trầu để làm quen và cũng có thể là dịp để ướm hỏi
thử lòng :
Gặp nhau ăn một miếng trầu
Gọi là nghĩa cũ về sau mà chào.
Nhiều khi bạn trẻ mời
nhau miếng trầu là gói ghém tất cả những gì hứa hẹn gắn bó :
Trầu này trầu quế trầu hồi,
Trầu loan trầu phượng trầu tôi
trầu mình.
Trầu này trầu tính trầu tình,
Trầu nhân trầu nghĩa, trầu mình
với ta.
* Trong việc cưới hỏi.
Không biết đã có từ
lúc nào trầu cau là hai thứ đã chiếm giữ một vai trò quan trọng không thể vắng
thiếu trong các lễ vật ở buổi hôn lễ của dân tộc Việt nam.
Ngoài ra, trầu cau
cũng đi đầu trong mọi sinh hoạt giao tế, ăn nói thời xưa, nay còn truyền lại ở
mọi nơi, nhất là ở nông thôn vườn ruộng. Ở thành thị “miếng trầu vẫn là đầu câu
chuyện” cho nên mỗi khi cưới hỏi, dầu cho khó khăn trong việc tìm mua, cho dù
khan hiếm vào lúc không phải mùa như thế nào và cho dẫu thời nay, ít có bà con ăn
trầu, người ta cũng phải tìm mua cho bằng được hai thứ này, không nhiều thì ít để
giữ lễ. Nói khác hơn là để thủ lễ và chứng tỏ khả năng căn bản về kiến thức của
văn lễ gia đình, tộc họ mình. Sự thiếu sót quả là điều đáng tiếc.
Tục lệ ăn trầu thì
có ở nhiều nơi trên thế giới, nhưng dường
như ở Việt nam mới đưa lên hàng quan trọng có sắc nét cá biệt trong mọi nghi lễ,
hơn vậy còn có tính cách trang nghiêm chỉ một lần trong đời người mà thôi.
(Phạm
côn Sơn, Hôn lễ và nghi thức, tr 39-40)
3. Tính
cách triết lý của truyện Trầu cau.
Sau khi Cao Lang bỏ
nhà ra đi, người anh là Cao Tân đi tìm kiếm và nhận lãnh cái chết để đền trả sự
sai lầm của mình trong cách đối xử với người em là một ý thức đề cao tình anh
em huyết nhục không thể ly tán. Anh em phải sống chết có nhau và không thể vì
riêng tư mà bỏ nhau.
Xuân Phù đi tìm chồng
và chết theo chồng là sự kiện đề cao tình chồng vợ chung thủy.
Cái chung cuộc với
hình trạng cây cau không cành vươn lên cạnh hòn đá và dây trầu quấn quít theo cây
cau là biểu trưng sự xum họp hạnh phúc chồng vợ gia đình.
Có lẽ từ ngàn xưa đã
có ai đó nhìn thấy được một hình trạng của thiên nhiên thảo mộc mà nghĩ ra chuyện
này rồi săp xếp thành câu chuyện có mạch lạc, ý nghĩa để truyền bá, giáo dục
trong đại chúng. Đây là cách giáo dục quần chúng có ý nghĩa và đơn giản vào thời
xa xưa , nhưng có tác dụng lâu dài cho tới ngày nay. Dầu sao, chuyện tích Trầu cau vẫn mang tính
chất triết lý về sự giáo dục cộng đồng và triết lý đó đã biến thành thực dụng
khá đơn giản trải qua bao thế kỷ và tồn tại tới ngày nay qua tục ăn trầu, cùng vấn đề Trầu Cau biến thành vật lễ trong
việc cưới hỏi luôn gây ấn tượng về hạnh phúc gia đình và vợ chồng.
(Cf Phạm côn Sơn, Cau trầu đầu chuyện, tr 90-91)
II. MIẾNG TRẦU VÀ TÍNH CÁCH HOÀ
HỢP.
Theo câu truyện Trầu
cau, về sau, vua Hùng Vương nhân đi tuần thú qua xứ ấy, thấy trong đền có cây
xanh lá tốt, mọc trên một đống đá. Vua ngồi nghỉ mát, gọi người bản thổ hỏi
chuyện, rồi ngài sai lấy quả cau ấy bổ ra, và lấy hòn đá nung lên thành vôi tôi
với nước, rồi lấy vôi quệt vào lá trầu mà ăn lẫn với miếng cau thì thấy mùi mẽ
thơm tho, nhổ ra hòn đá thì thấy đỏ ối. Ngài mới truyền cho thiên hạ lấy giống
mà trồng để dùng vào việc cưới xin và mọi việc.
(Phan
kế Bính, Việt nam phong tục, tr 350)
Khi ăn một miếng trầu
có cau và vôi, người ta cảm thấy có mùi thơm tho và ngon miệng. Miếng trầu làm
cho má cô nàng hồng lên trông hấp dẫn. Miếng trầu cũng làm cho lòng người ấm lên
cả trong lẫn ngoài, nhất là những lúc trời lạnh. Miếng trầu tượng trưng cho duyên tình của đôi lứa :
Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng :
Cau xanh ăn với trầu vàng xứng
không ?
- Trầu vàng nhá với cau xanh,
Duyên em sánh với tình anh tuyệt
vời.
Muốn có một miếng
trầu ngon, người ta luôn phải trộn lẫn ba thứ đó vào làm một “3 in 1”
: trầu, cau và vôi. Mỗi thứ có một mùi vị riêng : trầu cay, cau đáng, vôi nồng.
Nếu chỉ dùng một thứ thì không chịu nổi : nếu chỉ ăn lá trầu thì cay quá, cau lại
chát, ăn vôi thì bỏng miệng.
Miếng trầu nói lên
ba đặc tính không thể tách rời nhau : cay, đắng, nồng. Đôi khi người ta ăn trầu
với thuốc lào hay vỏ chay, lúc đó miếng trầu trở nên “5 in 1”. Do đó, miếng trầu
nói lên sự hoà hợp giữa vợ chồng và con cái.
Tuy mỗi người có một tính tình riêng nhưng mỗi phần tử trong gia đình phải
bỏ ý riêng để tìm đến một hoà hợp chung : mình
vì mọi người, mọi người vì mình.
Có sự hòa hợp như thế, gia đình mới có đời sống ấm êm :
Trầu xanh, cau đắng, chay hồng,
Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với
duyên.
III. MIẾNG TRẦU VÀ TÌNH NGHĨA VỢ
CHỒNG.
Giới răn Thiên Chúa
đòi buộc mọi người phải yêu thương nhau như chính mình, không phân biệt. Tình yêu
vợ chồng lại càng phải được kiện toàn với tình yêu hy sinh vô vị lợi và bằng một
sự hoà hợp thắm thiết. Càng hy sinh,
tình yêu càng mặn nồng và làm cho gia đình càng hạnh phúc. Hy sinh tỷ lệ thuận với hạnh
phúc :”Không có tình yêu nào cao cả hơn
tình yêu của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình”(Ga 15,13).
Truyện trầu cau và
phong tục ăn trầu mãi mãi là một gia tài của cha ông truyền lại cho con cháu, nó
mang một ý nghĩa rất thâm thúy : càng bị nghiền nhai ra thì càng trở nên mầu đỏ
thắm tình yêu :
Con đường nghiền nát trầu cau
Nên mầu đỏ thắm nên mầu sắt
son.
Trong Tông huấn về
Gia đình, Đức Gioan Phaolô II viết:”Sự hiệp thông trong gia đình đòi hỏi mọi người và
mỗi người biết quảng đại và mau mắn mở rộng
lòng mình ra để thông cảm, bao dung, tha thứ và hoà giải với nhau”(FC 21).
Chúng ta chú trọng đến hai
chữ “Bao dung”, hãy mở rộng lòng ra để
đón nhận nhau trong tinh thần bao dung.
Bao dung là “Tôn trọng và chấp
nhận sự khác biệt, sự đa dạng giữa người
và người trong mọi chiều kích”. Vì thế, những cặp vợ chồng bao dung sẽ dễ dàng
xích lại gần nhau, dễ dàng bổ túc cho nhau, nhờ đó họ kiện toàn sự hiệp nhất yêu
thương. Léon Tolstoi đã nói:”Yêu ai là yêu trọn vẹn con người đó y như
trong thực tế, chứ không phải như trong ước muốn của ta”.
Sự hiệp nhất bền vững
trong đời sống vợ chồng không chỉ là bảo chứng
cho một cuộc hôn nhân hạnh phúc và đẹp lòng Chúa, mà còn là một chứng từ
có sức thuyết phục đối với những gia đình đang chìm trong bất hoà, chia rẽ và đổ
vỡ.
Lm
Giuse Đinh lập Liễm
Giáo
xứ Kim phát
Đà
lạt