QÙA TẶNG
***
I. SUY NIỆM LỜI CHÚA.
Chúng
ta đọc : Ga 3.16-17.
Chúng ta vừa mừng lễ Giáng Sinh, và
nhìn vào hang đá, chúng ta thấy một em bé đang nằm giữa thánh Giuse và Đức
Maria , cùng mấy con bò lừa. Nếu hỏi em bé đó là ai thì các mucï đồng sẽ trả lời
cho chúng ta là Đấng Cứu Thế đã sinh ra cho chúng ta theo lời Thiên thần đã báo
cho họ biết.
Thực vậy, Thánh Gioan Tông đồ đã cho
chúng ta biết :”Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai
tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy,
Thiên Chúa sai con của người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng
là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3.16-17).
Theo thánh Gioan, Thiên Chúa vì yêu thương
thế gian đã ban cho thế gian một Người Con yêu quí để cứu chuộc nhân loại. Người
Con ấy là Đức Giêsu mà Ngài đang nằm trong hang đá kia. Ngài là quà tặng của
Thiên Chúa ban cho loài người. Đây là một quà tặng vô giá mà Thiên Chúa ban cho
loài người một cách nhưng không. Chúng
ta phải trân trọng món quà này và phải cảm tạ Chúa Cha về hồng ân ấy.
II. NÓI VỀ QUÀ TẶNG.
1. Nguyên nhân của quà tặng.
Theo tâm lý chung, những người yêu nhau thì muốn sống bên nhau. Nếu
vì hoàn cảnh không thể sống gần nhau thì họ nói :”Tuy cách mặt mặt nhưng gần lòng”(Tục ngữ). Người ta còn tặng nhau những món quà, để qua món
quà tặng đó, người ta có thể nhớ đến nhau, coi như người yêu đang hiện diện bên
cạnh. Người ta có thể tặng nhau món quà
có vẻ lãng mạn như bông hoa “păng xê” ép trong quyển sách, hoặc cụ thể như một
chiếc khăn tay thêu đẹp, hay một chiếc bút.
Như vậy, món quà luôn diễn tả và gửi gắm tình yêu của người cho vào
trong đó. Còn biếu xén thì thường không là quà tặng mà coi như món nợ phải trả, có đi thì phải có lại bằng một
cách nào đó.
2. Giá trị của quà tặng.
Giá trị của quà tặng thường không nằm ở trong quà tặng mà nó nằm ở
trong tim của người tặng. Càng yêu nhau, món quà càng có giá trị. Chính vì thế,
bà Marguerite nói rất có lý :”Tôi không nhìn cái giá trị của tặng vật mà tấm lòng
của người tặng”.
Ca dao tục ngữ Việt
nam cũng nói lên điều đó :
“Vật khinh nhưng hình trọng”
Hoặc :
“Của một đồng công một nén”.
(Tục
ngữ)
Như thế, thái độ của người cho mới là
quan trọng : cho đi với tất cả lòng thương mến, không đòi hỏi thì quà tặng đó mới
có giá trị :”Hai lần thích thú, nếu đồ vật
trao tặng không cần phải đòi hỏi”
(Publilius Syrus). Ngược lại, của
cho đi vì lòng thương hại hay cho đi vì bất đắc dĩ thì món quà ấy chỉ có giá trị rất nhỏ, vì đó chỉ là của bố
thí.
3. Số phận của quà tặng.
Quà tặng nằm trong tay người được trao
tặng, dưới quyền xử dụng của họ. Họ muốn dùng thế nào cũng được. Họ có thể trân
trọng, nâng niu bao bọc quà tặng, hoặc bỏ bê hoặc liệng đi cũng được.
Cho nên, thái độ của người nhận cũng rất
quan trọng. Họ có thể nhận với tấm lòng biết ơn hay vô ơn. Nếu nhận với tấm lòng
biết ơn sẽ làm hài lòng người cho; ngược lại, nhận với sự hững hờ càng làm buồn
lòng người ban tặng.
III. ĐỨC GIÊSU LÀ QUÀ
TẶNG CỦA CHÚA CHA.
Như ở trên , thánh Tông đồ Gioan đã nói :”Thiên Chúa vì yêu thương đã ban Con Một của
Người cho thế gian”. Nói đến chữ “Ban” là đã nói lên một món quà tặng
của người trên dành cho người dưới một cách nhưng không . Loài người không có
quyền đòi hỏi mà chỉ biết nhận do lòng thương yêu của Thiên Chúa. Đức Giêsulà món
quà tặng của Chúa Cha cho loài người và mọi người chỉ biết cúi đầu trân trọng đón
nhận với lòng biết ơn .
Ông Ovide đã nói rất đúng :”Cấp bậc
của kẻ cho đánh giá trị của tặng vật” (Ovide).
Tuy thế, có nhiều người không thèm đón
nhận, họ có thái độ dửng dưng hay từ chối. Những người Do thái, đặc biệt là các
thượng tế, luật sĩ và biệt phái, đã không thiếp nhận, họ đã chống đối và tìm cách
giết đi. Trước tòa án Philatô họ đã hô to :”Giết
đi, giết đi, đóng đinh nó vào thập giá”.
Họ đã từ chối quà tặng vô điều kiện của Thiên Chúa, từ chối Đấng Cứu Thế đến để chuộc tội cho họ. Và như vậy, Thiên
Chúa sẽ phải xứ đối với họ như thế nào ?
Ngày nay, sau 2000 năm rao giảng Tin Mừng,
vẫn còn rất nhiều người từ chối Đức Giêsu, không những là những người vô thần mà
ngay cả các Kitô hữu, những người đã được rửa tội, đã có đức tin, đã được giá máu
Chúa cứu chuộc. Tuy họ không tuyên bố là
họ từ chối Chúa Giêsu, nhưng cách sống của họ biểu lộ sự chống đối đó.
IV. VỢ CHỒNG LÀ QUÀ
TẶNG CỦA THIÊN CHÚA.
Anh A là quà tặng của Thiên Chúa. Anh
có nhận thấy như vậy không ? Thiên Chúa đã ban cho anh một tình yêu để cho anh
yêu và anh thấy chị B hợp với anh, chị đã trở nên đối tượng tình yêu của anh, và
anh đã tìm được đối tượng của tình yêu. Như vậy, chị B là quà tặng của Thiên Chúa
ban cho anh.
Ngược lại, anh A cũng là quà tặng của Thiên Chúa cho chị
B. Chị đã tìm được đối tượng của tình yêu. Hai người nhận được hai quà tặng và
quà tặng sẽ tùy thuộc vào người nhận.
Món quà tượng trưng tình yêu của anh
chị hôm nay là chiếc nhẫn mà hai anh chị xỏ vào tay nhau, vừa xỏ vào vừa đọc
:”Hãy nhận chiếc nhẫn này để làm bằng chứng tình yêu và trung thành của
nhau”. Chiếc nhẫn chỉ là một vật bằng
kim khí, tuy nó quí thật, nhưng tự nó chẳng có ý nghĩa gì, nhưng hôm nay nó lại
có ý nghĩa khi hai người nói lên : Nó là
bằng chứng của tình yêu và lòng trung thành.
Hôm nay lễ thành hôn, hai anh chị vinh
dự được lãnh nhận quà tặng của Thiên Chúa. Đây là một hồng ân Chúa ban cho anh
chị. Vậy anh chị phải tỏ lòng biết ơn Chúa và phải trân trọng giữõ lấy quà tặng
kẻo Chúa buồn. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, quà tặng này phải đựa bảo vệ với bất
cứ giá nào, có khi phải hy sinh tính mạng.
Truyện : Trung thành giữ quà tặng.
Lư phu nhân, vợ ông Phòng Huyền Linh, là người tuyệt đẹp và có đức hạnh.
Ông lúc tuổi trẻ hàn vi lắm. Một khi bệnh
nặng tưởng đã sắp chết, ông gọi Lư Thị đến bảo rằng :
- Tôi bệnh nguy quá, nàng tuổi còn trẻ, không nên ở vậy, liệu mà ăn ở tử tế
với người chồng sau.
Tư Thị nghe nói, nức nở khóc. Đoạn vào
trong màn khoét một mắt bỏ đi, có ý tỏ cho chồng biết rằng dù chồng bất hạnh có
chết, cũng không chí lấy ai nữa.
Không bao lâu, ông Huyền Linh khỏi bệnh.
Sau ông thi đỗ, làm quan đến chứa Tể tướng.
Ôâng một niềm yêu mến, kính trọng Lư Thị vô cùng, không hề lấy người tì thiếp nào
nữa.
Người ngoài cho thế là tại ông sợ Lư Thị có tính hay ghen.
Chính vua Đường Thái Tôn, muốn thử Lư
phu nhân, một hôm cho hoàng hậu gọi vào bảo :
- Theo phép thường các quan to vẫn có
tì thiếp. Quan nhà ta tuổi đã cao, vua muốn ban cho một mỹ nhân.
Lư Thị nhất quyết không nghe. Vua nổi
giận, mắng rằng :
- Nhà ngươi không ghen thì sống, mà
ghen thì chết.
Rồi sai người đưa cho một chén rượu,
giả làm chén thuốc độc, phán rằng :
- Đã vậy thì phải uống chén thuốc độc
này.
Lư Thị không ngần ngại chút nào, uống
hết ngay.
Vua thấy thế, nói :
- Ta cũng phải sợ, nữa là Huyền Linh.
(Nguyễn văn Ngọc, Cổ
học tinh hoa, tập 2, tr 36-37)
Thiên Chúa đã phán :”Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không
được phân ly”(Mt 19.6). Đó là lệnh
truyền, không phải là lời khuyên. Khi Thiên Chúa yêu, Ngài yêu cho đến cùng (Ga
13.1). Bởi đó, yêu thương là bài học không có ngày ra trường, nó theo ta suốt cả
đời. Bài học này không có chứng chỉ xác nhận, vì có ai chỉ yêu thương một lần là
xong ?
Ôâng Poppée nhận định :”Khi yêu đương
thì người ta tràn đầy mơ mộng, nhưng khi lấy nhau người ta sẽ thức tỉnh”. Đó
là một thực tế không thể phủ nhận. Vì thế, sự chung thủy vợ chồng là hết sức cần
thiết, nó giúp nhau vượt qua sóng gió cuộc đời.
Muốn giữ được lòng chung thủy, chúng
ta cần có lòng trung tín với Chúa và với nhau. Hãy cầu xin Chúa là nguồn tình yêu,
sẽ gìn giữ anh chị thủy chung trong tình yêu vợ chồng, hôm nay và mãi mãi :
Mong sao nghĩa thủy tình chung
Cho
thuyền cập bến, gương trong ngàn đời.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt