Chúa Nhật thứ 3 Thường Niên
(23-1-2005)
Chúa luôn
chúc phúc
và nâng cao
những ai khiêm nhường sám hối
ĐỌC LỜI CHÚA
· Is
8,23b–9,3: Thời đầu, Người đã hạ nhục đất Dơvulun và đất Náptali,
nhưng thời sau, Người sẽ làm vẻ vang cho con đường ra biển, miền bên kia sông
Giođan, vùng đất của dân ngoại.
· 1Cr
1,10-13.17: (12) Tôi thấy trong anh em có những luận điệu như: «Tôi thuộc về Phaolô, tôi thuộc về Apôlô, tôi
thuộc về Kêpha, tôi thuộc về Đức Kitô».
· TIN MỪNG: Mt 4,12-17
Đức Giêsu khởi đầu rao giảng tại Galilê
(12) Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền
Galilê. (13) Rồi
Người bỏ Nadarét, đến ở Caphácnaum, một thành ven biển hồ Galilê, thuộc địa hạt
Dơvulun và Náptali, (14) để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói: (15) Này đất Dơvulun, và đất Náptali, hỡi con đường ven
biển, và vùng tả ngạn sông Giođan, hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! (16) Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một
ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được
ánh sáng bừng lên chiếu rọi.
(17) Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói rằng: «Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần».
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao Thiên Chúa lại muốn
Đức Giêsu xuất thân tại xứ Galilê, là «miền
đất của dân ngoại» (Mt 4,15), chứ không xuất thân ở xứ Giuđa là miền đông
dân theo đạo Do Thái?
2. Tại sao tôn giáo của Tân ước
mà Đức Giêsu thiết lập lại chủ yếu do dân ngoại gia nhập, còn người Do Thái
giáo lại gia nhập rất ít? Liệu người Kitô hữu hiện nay có đi vào vết xe cũ đã
đổ của dân Do Thái giáo xưa không?
3. Người đang được Thiên Chúa
ưu đãi, nâng đỡ, cần có thái độ nào để Thiên Chúa vẫn tiếp tục ưu đãi và nâng
đỡ?
Suy tư gợi ý:
1. Xứ Galilê được chọn làm nơi xuất thân Đấng Cứu Thế
Nước Do Thái có ba miền: Galilê
(miền bắc), Samari (miền trung) và Giuđa (miền nam). Thủ đô tôn giáo của Do
Thái giáo là Giêrusalem thuộc xứ Giuđa, xứ này là vùng đông người có đạo Do
Thái nhất. Xứ Samari là miền tạp chủng, tuy theo đạo Do Thái, nhưng đạo này bị
pha trộn với tôn giáo của dân ngoại, nghĩa là mang tính lạc giáo, nên bị người
Giuđa khinh thường và coi như dân ngoại. Còn xứ Galilê là miền đất của dân
ngoại – vì đa số dân chúng là ngoại đạo – như được nói trong bài Tin Mừng: «Hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại» (Mt
4,15). Galilê «thuộc địa hạt Dơvulun và
Náptali», là vùng đất bị Thiên Chúa nguyền rủa vì trong quá khứ, dân đã
phạm một lầm lỗi nặng nề nào đó (x. Is
8,23b). Thế mà Đức Giêsu lại là người Nadarét thuộc xứ Galilê, Ngài sinh
trưởng và xuất thân từ đó. Các tông đồ mà Ngài tuyển chọn, tất cả đều là người
dân Galilê. Đến đây, ta phải tự hỏi: tại sao Thiên Chúa không để Đức Giêsu và
các tông đồ của Ngài xuất thân ở vùng đất Giuđa là vùng của đạo Do Thái, mà lại
xuất thân từ vùng Galilê là vùng của dân ngoại?
Quả thật, việc làm của Thiên
Chúa không mấy ai hiểu được: «Dù lãnh thổ Dơvulun và Náptali sắp bị Chúa
đoán phạt, nhưng trong tương lai chính các lãnh thổ đó tức là vùng Galilê và
bắc Giôđan, trên con đường ra biển sẽ đầy dẫy vinh quang» (Is 9,1;
x. 8,23b). Đúng là «Người nâng ai lên hay hạ ai xuống đều tuỳ ý Ngài»
(Đn 5,19; x. Tv 147,6; Hc 33,12; Ed 17,24; Ed 21,31). Đương nhiên không phải
Ngài nâng cao hay hạ thấp một cách tùy tiện theo ý ngông của Ngài, mà theo tiêu
chuẩn này: «Chúa hạ bệ những ai quyền thế, kiêu căng; Người nâng cao mọi kẻ
khiêm nhường» (Lc 1,52). Do biết khiêm nhường sám hối, vùng Caphácnaum (thuộc miền Galilê) đang được
Thiên Chúa chúc phúc và nâng lên. Nhưng khi được nâng lên, dân này lại sinh ra
kiêu căng và tự hào, nên Đức Giêsu mới cảnh báo: «Còn ngươi nữa, hỡi
Caphácnaum, ngươi tưởng sẽ được nâng lên đến tận trời ư? Không, ngươi sẽ phải
nhào xuống tận âm phủ!» (Lc 10,15).
Cũng vậy, dân Do Thái được Thiên
Chúa tuyển chọn làm dân riêng của Ngài, đó là điều thật hạnh phúc cho họ. Nhưng
thay vì sống theo giới luật hay tinh thần của Ngài để xứng đáng với ân huệ đặc
biệt đó, họ lại lên mặt và khinh chê dân ngoại. Vì thế, khi Đấng Cứu Thế đến,
Thiên Chúa đã không để cho vùng Giuđa – vùng đông người có đạo nhất – được vinh
dự là nơi xuất thân của Đấng Cứu Thế. Mang danh là tuyển dân của Thiên Chúa,
tuy vẫn giữ đúng những tập tục tôn giáo Ngài truyền lại qua Môsê, nhưng họ chỉ
thực hiện một cách hoàn toàn hình thức, thiếu tình yêu và lòng thành bên trong,
họ đã trở nên nguội lạnh và gian ác. Bằng chứng là khi Đấng Cứu Thế đến, họ đã
bách hại Ngài ngay khi Ngài sinh ra, và còn tiếp tục bách hại và giết chết Ngài
khi Ngài xuất hiện ở tuổi trưởng thành. Vì thế, Thiên Chúa đã hạ bệ họ: «Kẻ
thấp hèn, Chúa nâng đỡ dậy; bọn gian ác, Người hạ xuống đất đen» (Tv
147,6). Thật vậy, đến năm 70, Thiên Chúa đã khiến cho Giêrusalem, kinh đô của
Do Thái giáo, trở thành «không còn hòn đá nào trên hòn đá nào, vì đã không nhận biết thời giờ họ được Thiên Chúa viếng thăm» (Lc 19,44). Và dân Do Thái đã mất nước từ đó – suốt 19 thế kỷ – cho đến khi lập quốc trở lại vào năm 1947. Lập quốc trở lại mà vẫn phải chịu đựng chiến tranh liên miên. Về mặt tôn giáo, Thiên Chúa đã lập nên một Giáo Hội mới mà chủ yếu là do dân ngoại gia nhập vào, còn người Do Thái thì chiếm tỷ lệ vô cùng nhỏ bé so với dân số của họ thời ấy. Sự việc đã xảy ra đúng như tinh thần dụ ngôn người thợ vườn nho sát nhân (Mt 21,33-46) và dụ ngôn tiệc cưới (Mt 22,1-14) của Đức Giêsu.
2. Bài học cho mỗi người chúng ta
Những sự kiện nêu trên đáng cho
chúng ta suy nghĩ và rút ra bài học. Rất có thể chúng ta đang được Thiên Chúa
yêu thương cách đặc biệt, được ưu đãi hơn rất nhiều người khác. Nhưng thay vì
ta biết ơn Ngài và sống cho xứng đáng với ơn ấy, thì chúng ta lại lên mặt kiêu
căng với những người kém may mắn hơn, đồng thời sống giả hình (có bề ngoài mà
không có thực chất bên trong), gian ác, không đúng với tinh thần quên mình,
từ bỏ mình, hoặc vác thập giá mình hằng ngày mà theo Chúa. Chúng ta
tưởng rằng quên mình hay từ bỏ mình thì sẽ bị thiệt hại, bị vong
thân, và tưởng rằng vác thập giá mình thì sẽ bị đau khổ. Nên chúng ta
tìm cách đề cao mình, thổi phồng «cái tôi» cá nhân hoặc tập thể của mình
lên. Nhưng thật ra đó mới chính là cách hủy hoại mình hữu hiệu nhất. Và tìm
cách đạt cho bằng được những địa vị, quyền bính, tiền bạc, để hưởng những vinh
quang, lạc thú, thoải mái do chúng mang lại. Nhưng thật ra đó là tự chuốc đau
khổ cho mình cách tệ hại nhất. Chúng ta quên rằng «Chúa giơ tay biểu dương
sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu căng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế,
Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường» (Lc 1,51-52).
3. Bài học cho các tập thể
Thiên Chúa đối xử với những cá
nhân kiêu căng thế nào, thì Ngài cũng đối xử với những tập thể ngạo mạn như
vậy. Lịch sử của dân Do Thái là một bài học đích đáng về chân lý ấy. Vì thế,
nhiều khi chúng ta phải tự xét: liệu Giáo Hội – dân được Thiên Chúa tuyển chọn
trong Tân ước – có đi vào vết xe cũ đã đổ của dân Do Thái – dân được Ngài tuyển
chọn trong Cựu ước – không? Giáo Hội có quá tự hào vì được Thiên Chúa ưu đãi và
tuyển chọn cách đặc biệt không? có coi thường các tôn giáo không không? có sống
xứng đáng với hồng ân cao cả Thiên Chúa dành cho mình không? Người Kitô hữu
ngày nay – giáo dân cũng như giáo sĩ – có rập khuôn theo tinh thần cũ của dân
Do Thái xưa không?
Nếu dân Do Thái xưa mà suy gẫm
lời cảnh báo của Đức Giêsu xưa: «Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: “Chúng ta
đã có tổ phụ Ápraham”. Vì tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho
những hòn đá này trở nên con cháu ông Ápraham» (Mt 3,9), và sống phù hợp vn
tinh thần của Ngài, thì có lẽ họ đã không đến nỗi như hiện nay. Thánh Phaolô
từng cảnh báo về lòng tự hào của họ: «Bạn mang tên là người Do-thái, ỷ rằng
mình có Lề Luật, tự hào vì có Thiên Chúa; được biết ý Người, được Lề Luật dạy
cho điều hay lẽ phải; (…) bạn tưởng mình có Lề Luật là có tất cả tri thức và
chân lý» (Rm 2,17-20). Tự hào như thế thì cũng chính đáng, nhưng nếu vì sự
tự hào ấy mà lên mặt với người khác là điều không hay, nhất là khi không sống
cho xứng với niềm tự hào ấy: «Bạn dạy người khác, mà lại không dạy chính
mình! (…) Bạn tự hào vì có Lề Luật, mà bạn lại vi phạm Lề Luật, và như vậy bạn
làm nhục Thiên Chúa!» (Rm 2,21-23). Người Kitô hữu sẽ làm nhục Đức Kitô khi
họ tự hào về Ngài nhưng lại sống giới răn mới của Ngài (x. Ga 13,34) không bằng
người ngoại.
4. Hãy sám hối
Đức Giêsu xuất thân và khởi đầu
việc rao giảng của Ngài tại Galilê, là «miền
đất của dân ngoại». Để giúp cho Galilê được «đầy dẫy vinh quang» hầu
ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia (x. Is 9,1; 8,23b), Đức Giêsu khuyên dân chúng tại
đó: «Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã
đến gần». Cho dù tội lỗi, bị Thiên Chúa nguyền rủa, nhưng nếu biết sám hối,
biết sửa đổi lại cách sống theo đường lối của Ngài, thì sẽ được Ngài nâng lên,
chúc phúc. Dụ ngôn người thu thuế và người Pharisêu lên đền thờ cầu nguyện (x.
Lc 18,9-14) chứng minh điều đó. Trái lại, khi được Ngài nâng lên mà lại trở nên
kiêu căng tự hào thì sẽ lại bị Ngài hạ xuống, như Đức Giêsu đã cảnh báo dân
Caphácnaum (x. Lc 10,15). Vậy, sám hối – tức khiêm nhường nhận ra sự sai trái của
mình và quyết tâm sửa đổi cho đúng – là điều kiện cần thiết để được Thiên Chúa
chúc phúc và nâng lên. Trong tinh thần sám hối ấy, thiết tưởng người Kitô hữu
chúng ta – dù là cá nhân hay tập thể – cần tránh tự hào và kiêu hãnh trước
người khác về những nhân đức mình có, những việc tốt đẹp mình làm được, những
hồng ân đặc biệt Thiên Chúa ban cho mình một cách ưu đãi. Đồng thời cần cố gắng
sống cho xứng đáng với những ân huệ đặc biệt ấy với tâm tình biết ơn.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha,
Cha không ưa thích và sẵn sàng hạ bệ những tâm hồn kiêu hãnh, tự đưa mình lên.
Ngày xưa, không ai tốt lành, đẹp đẽ, sáng láng và thánh thiện cho bằng Tổng
Lãnh Thiên Thần Luxiphe, nhưng chỉ vì kiêu hãnh về những phẩm tính tốt lành ấy
và chống lại Cha mà trở nên vô cùng xấu xa, đau khổ. Xin giúp con hiểu rằng Cha
vẫn ưa thích một tâm hồn tuy tội lỗi nhưng biết khiêm nhường, sám hối, hơn
những tâm hồn trong sạch và đầy nhân đức như thiên thần nhưng lại kiêu ngạo,
thích khinh chê người khác. Người trước sẽ được Cha nâng lên, còn người sau sẽ
bị Cha hạ xuống. Xin cho con dù thánh thiện hay nhân đức tới đâu, dù chức vụ có
cao cả tới đâu, cũng vẫn luôn khiêm nhường và yêu thương mọi người, nhất là
biết nâng đỡ những người hèn kém hơn mình.
Joan
Nguyễn Chính Kết