Lệnh của con người và thánh ý Thiên Chúa
Suy Niệm Chúa
Nhật 29 Thường Niên, A
ĐỌC LỜI
CHÚA
· Is
45,1.4-6: (1) Đức Chúa phán với kẻ Người đã xức dầu: «Ta đã cầm lấy tay phải ngươi để bắt các dân tộc
suy phục ngươi».
· 1Tx 1,1-5b:
(5) Khi chúng tôi loan báo Tin Mừng cho anh em, thì
không phải chỉ có lời chúng tôi nói, mà còn có quyền năng, có Thánh Thần, và
một niềm xác tín sâu xa.
· TIN MỪNG: Mt
22,15-21
Nộp thuế cho Xêda
(15) Bấy
giờ những người Pharisêu đi bàn bạc với nhau, tìm cách làm cho Đức Giêsu phải
lỡ lời mà mắc bẫy. (16) Họ sai các môn đệ của họ cùng đi với những người
phe Hêrôđê, đến nói với Đức Giêsu rằng: «Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là người chân thật và cứ sự thật mà
dạy đường lối của Thiên Chúa. Thầy cũng chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề
ngoài mà đánh giá người ta. (17) Vậy xin Thầy cho biết ý
kiến: có được phép nộp thuế cho Xêda hay không?» (18) Nhưng
Đức Giêsu biết họ có ác ý, nên Người nói: «Tại sao các người lại thử
tôi, hỡi những kẻ giả hình! (19) Cho tôi xem đồng tiền nộp
thuế!» Họ liền đưa cho Người một quan tiền. (20) Người
hỏi họ: «Hình và danh hiệu này là của ai đây?» (21) Họ
đáp: «Của Xêda». Bấy giờ, Người bảo họ: «Thế thì của Xêda,
trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa». (22) Nghe
vậy, họ ngạc nhiên và để Người lại đó mà đi.
CHIA SẺ
Câu hỏi gợi ý:
1. Người trong tập thể, trong xã hội hay giáo
hội… phải vâng phục bề trên mình. Điều đó đúng hay sai? Đúng tuyệt đối hay có
luật trừ? Khi nào có luật trừ?
2. Đức Giêsu có khi nào không tuân hành luật Môsê
không? Các tông đồ có luôn luôn vâng lời các nhà lãnh đạo Do Thái giáo không?
Tại sao? Các Ngài theo nguyên tắc nào?
Suy tư gợi ý:
1. Bối cảnh bài Tin Mừng
Nước Do Thái thời Đức Giêsu là một nước bị đế quốc
Rôma đô hộ. Dân Do Thái phải đóng thuế cho đế quốc. Về vấn đề này, trong nước
có hai khuynh hướng chính trị đối lập, thậm chí thù nghịch nhau:
– Phe Hêrốt (quốc doanh) là phe thân chính quyền,
chủ trương ủng hộ đế quốc để đế quốc bảo vệ ngai vàng và quyền cai trị của
mình. Phe này chủ trương bắt dân đóng thuế cho đế quốc. Trong tôn giáo, phái
Sađốc (các tư tế thường thuộc phái này) cũng theo lập trường chính trị này.
– Phe dân chúng (yêu nước) là phe đứng về phía nhân
dân và tôn giáo. Phe này không muốn tùng phục đế quốc xâm lược, và thường tìm
cơ hội để nổi dậy dành lại độc lập cho đất nước. Vì thế, họ chủ trương chống
lại việc nộp thuế. Trong xã hội có phái Zêlốt, và trong tôn giáo có phái
Pharisêu đứng về phe này.
Người dân nào theo phe Hêrốt thì bị dân chúng oán
ghét, tẩy chay. Còn ai đứng về phe dân chúng thì bị chính quyền để ý, gây khó
dễ. Do đó, chủ trương nộp thuế hay không là một vấn đề rất nhạy cảm đối với dân
chúng. Vì thế, để âm mưu gài bẫy Đức Giêsu hầu hại Ngài, những người Pharisêu
đã đặt vấn đề với Ngài, buộc Ngài phải tuyên bố lập trường về vấn đề nhạy cảm
này. Đức Giêsu biết âm mưu thâm độc của họ: (1) Nếu Ngài trả lời nên
nộp thuế thì Ngài sẽ bị dân chúng tẩy chay, họ sẽ không thèm nghe giáo huấn của
Ngài nữa; (2) Ngược lại, nếu Ngài trả lời không nên nộp thuế, thì
phe Hêrốt sẽ có cớ để tố cáo Ngài chống lại pháp luật; (3) Nếu Ngài
không trả lời, thì Ngài chứng tỏ mình không có lập trường, là người dốt nát,
Ngài sẽ bị mất uy tín của một đạo sư. Cách nào thì cũng đều gây rắc rối cho
Ngài. Nhưng Ngài đã trả lời một cách rất khôn ngoan, hợp lý, vừa thoát khỏi bẫy
của những kẻ muốn hại Ngài, vừa đưa ra được một nguyên tắc soi sáng cho con
người, nhất là cho các Kitô hữu phải sống trong một tình thế xã hội phức tạp
tương tự như xã hội thời Ngài. Thật vậy, con người trong một xã hội luôn luôn
bị giằng co bởi uy quyền của thế lực trần tục và đòi hỏi của lương tâm, của
thánh ý Thiên Chúa, v.v… Thật khó xử.
Sau khi bắt họ xác định hình trên đồng tiền là của
ai, và họ trả lời là của Xêda thì Ngài trả lời: «Của Xêda, trả về Xêda; của
Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa». Với câu trả lời này, âm mưu của họ thất
bại.
2. Hai nguyên tắc đúng nhưng đôi khi đối nghịch
nhau
Trong các tập thể, ta thường phải dưới quyền và
tuân phục người lãnh đạo tập thể ấy. Trong gia đình có cha mẹ, trong xã hội có
chính quyền các cấp, trong Giáo Hội có giáo quyền. Tất cả những người lãnh đạo
ấy đều là con người, họ có thể ra lệnh đúng với thánh ý Thiên Chúa, mà cũng có
thể ngược lại với thánh ý Ngài. Nếu lệnh của họ phù hợp với thánh ý Thiên Chúa,
thì không có vấn đề, người Kitô hữu phải vâng phục họ. Không vâng phục họ chính
là không vâng phục Thiên Chúa. Nhưng nếu lệnh của họ đi ngược lại thánh ý Ngài
như đã từng xảy ra biết bao lần trong lịch sử, thì ta sẽ lâm vào tình trạng
xung đột nguyên tắc hay xung đột bổn phận, rất khó xử. Có hai nguyên tắc đôi
khi xung đột nhau:
– Một đằng phải vâng phục người lãnh đạo, vì
họ là đại diện cho Thiên Chúa, và vì quyền họ nắm trong tay đến từ
Thiên Chúa. Thánh Phaolô viết: «Mỗi người phải phục tùng chính quyền, vì
không có quyền bính nào mà không bởi Thiên Chúa, và những quyền bính hiện hữu
là do Thiên Chúa thiết lập. Như vậy, ai chống đối quyền bính là chống lại trật
tự Thiên Chúa đặt ra, và kẻ nào chống lại sẽ chuốc lấy án phạt. Cần thiết phải
phục tùng họ, không những vì sợ bị phạt, mà còn vì lương tâm» (Rm 13,1-2.5;
x.1Pr 2,13-14.17b).
– Một đằng «phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng
lời người phàm» (Cv 5,29). Thánh Phêrô đã nói thế để phản đối giới lãnh
đạo tôn giáo Do Thái khi họ cấm ông không được rao giảng Tin Mừng.
3. Vấn đề đặt ra
Một tập thể, một đất nước, một giáo hội… luôn luôn
phải có người lãnh đạo, nếu không thì sẽ lâm vào tình trạng «vô chính phủ»,
rất hỗn loạn và thật tai hại. Người xưa nói: «Nhất nhật vô vương đảo huyền
thiên hạ» (một ngày không vua, thiên hạ đại loạn), «Nước một ngày không
thể không vua» (Đại Việt sử thi). Nếu có người lãnh đạo mà người dưới không
tuân phục, thì cũng mất trật tự, không ổn định, tập thể không thể tồn tại hay
phát triển được. Người lãnh đạo thường tài đức hơn người, nên
lệnh truyền của họ thường phản ảnh đúng thánh ý Thiên Chúa. Vì
thế, trên nguyên tắc, Kitô giáo chủ trương con người phải vâng phục bề
trên của mình. Chủ trương này thật hợp tình hợp lý.
Nhưng đã là con người thì đều có tự do đối với
lương tâm, đồng thời cũng rất yếu đuối và hay thay đổi. Trong mỗi thời điểm, họ
có thể làm theo lương tâm, theo thánh ý Thiên Chúa, mà cũng có thể không làm
theo lương tâm mà làm theo lợi ích riêng tư của họ. Do đó có rất nhiều trường
hợp lệnh trên không phù hợp với lẽ phải, đi ngược lại thánh ý Thiên Chúa, bất
lợi cho lợi ích chung. Rất nhiều người lãnh đạo khi được đưa lên nắm quyền thì
là người rất tài đức, xứng đáng được mọi người tuân phục. Nhưng khi nắm quyền
hành trong tay một thời gian, họ liền bị biến chất, vì quyền hành có khả năng
tha hóa con người. Người Pháp có câu: «Le pouvoir corrompt par nature»
(quyền hành tự bản chất làm hư hỏng con người).
Trường hợp Sa-un trong Cựu ước là một điển hình
(1Sm 9,15-17). Khi Sa-un được Thiên Chúa chọn làm vua Do Thái thì ông là người
xứng đáng. Nhưng sau đó ông bị biến chất nên đã bị Thiên Chúa truất phế để lập
Đavít lên thay thế (1Sm 28,16-18). Thật vậy, biết bao người lãnh đạo ban đầu
giống như một minh quân, nhưng cầm quyền lâu năm lại biến thành bạo
chúa. Chính vì thế trong các xã hội dân chủ, người lãnh đạo tập thể luôn
luôn có một nhiệm kỳ nhất định. Người lãnh đạo nào vẫn giữ được tài đức thì có
thể được tái nhiệm thêm một nhiệm kỳ nữa. Không ai được giữ chức lãnh đạo vô
thời hạn cả. Đó là một nguyên tắc xã hội thật sáng suốt và khôn ngoan, phù hợp
với tình trạng dễ thay đổi của con người. Những tập thể chủ trương ‘ai lãnh đạo
là lãnh đạo suốt đời’ thì tập thể ấy thường bị thoái hóa theo thời gian.
Vậy, trong một tập thể, như gia đình, cộng đoàn, xã
hội hay giáo hội, ta phải theo nguyên tắc nào? phải vâng phục ai? nhất là khi
lệnh của người lãnh đạo không phù hợp với lẽ phải, với lương tâm, với thánh ý
Chúa?
4. «Của Xêda, trả về Xêda; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa»
Qua câu nói của Đức Giêsu, ta thấy cần phải phân
biệt những gì thuộc lãnh vực trần tục, và những gì thuộc lãnh vực lương tâm.
Hai lãnh vực này có thể phân biệt rõ ràng, điều đó không có nghĩa là chúng hoàn
toàn độc lập với nhau, hay không có sự bao trùm lên nhau. Những gì hoàn toàn
thuộc lãnh vực trần tục, không liên quan đến lương tâm, thì ta phải hoàn toàn
tuân phục người lãnh đạo. Chẳng hạn nhà nước buộc người dân đến tuổi trưởng
thành phải làm căn cước, hay khi kinh doanh, bán nhà, bán xe phải đóng thuế,
v.v… hoặc khi Giáo Hội buộc các tín hữu muốn kết hôn phải trình sổ rửa tội,
phải rao ở nhà thờ, v.v… thì ta phải tuân phục. Nhưng trong những việc liên
quan đến lương tâm, thì ta phải làm theo lương tri và lương tâm đúng đắn của
mình. Không thể lấy lý do luật nhà nước hay luật Giáo Hội để làm ngược lại ý
muốn của Thiên Chúa được phản ảnh qua lương tri và lương tâm mình. Chính Đức
Giêsu đã bất chấp luật sabát của Môsê – tức luật tôn giáo – để làm theo đòi hỏi
của tình yêu đại đồng (x. Mt 12,1-8; 12,9-14; Lc 13,10-17; 14,1-6; Ga 5,1-18;
9,1-41). Phêrô đã bất chấp lệnh cấm của giới lãnh đạo tôn giáo để làm theo đòi
hỏi của Thiên Chúa là rao giảng Tin Mừng (x. Cv 5,27-33). Các thánh tử đạo trên
thế giới đã trung thành với Thiên Chúa bất chấp lệnh cấm đạo của chính quyền.
Mục đích của đức vâng phục Kitô giáo là để thực
hiện thánh ý Thiên Chúa. Khi nào sự vâng phục không phải là thực hiện thánh ý
Thiên Chúa thì không còn là nhân đức nữa. Nếu vâng lời bề trên để thực hiện một
tội ác thì chẳng những không công phúc gì, mà còn mang tội đồng lõa nữa.
CẦU
NGUYỆN
Lạy Cha, sống đạo
của Cha trong xã hội con người thật khó! Vì con người có luật của con người, và
Thiên Chúa có luật của Thiên Chúa, hai luật này con đều phải tôn trọng, nhưng
đôi khi lại trái ngược nhau. Lúc đó con biết làm theo luật nào? Nhiều khi con
đã nhân danh luật của con người, của tôn giáo, để khỏi phải làm theo đòi hỏi
của lương tâm, của tình yêu. Làm như thế có đúng không? Có đẹp lòng Cha không?
Xin hãy cho con đủ tình yêu và can đảm để sống đúng ý Cha.
Joan Nguyễn Chính
Kết
18-9-2005