Chúa Nhật IV mùa Chay
Bảy
dấu lạ trong Tin Mừng Gio-an được chọn lựa để diễn tả những đặc điểm thuộc căn
tính của Chúa Giê-su. Bài Tin Mừng tuần
trước kể lại truyện Chúa Giê-su đàm thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri là đề tài
cuộc sát hạch dự tòng lần thứ nhất. Giáo
Hội sử dụng hai trong bảy dấu lạ của Tin Mừng Gio-an cho hai cuộc sát hạch dự
tòng vào Chúa Nhật IV và V mùa Chay:
Chúa Giê-su chữa người mù từ thuở mới sinh và Chúa cho anh La-da-rô sống
lại. Người dự tòng phải vững tin Chúa
Giê-su là ánh sáng chiếu soi đời họ và Người cũng chính là sự sống lại và sự sống
đời đời. Chủ đề Chúa Giê-su là ánh sáng
rất thích hợp cho mùa Chay của ta, để nhờ ánh sáng đức tin ta nhìn mọi sự theo
lăng kính giá trị Tin Mừng và bước đi trong ánh sáng của Người.
1.
Quan điểm của Thiên Chúa khác với quan điểm loài người (bài đọc Cựu Ước – 1 Sm 16:1b,6-7,10-13a)
Mỗi người nhìn cuộc sống hoặc những gì chung quanh theo một
cái nhìn riêng. Nếu cái nhìn của ta đã
khác nhau như vậy thì cái nhìn của Thiên Chúa càng khác xa hơn nữa, bởi vì
“Thiên Chúa không nhìn theo kiểu người phàm:
người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thì thấy tận đáy lòng”
(1 Sm 16:7).
Câu
truyện về khác biệt quan điểm trong bài đọc thứ nhất đã nói lên chân lý trên. Thiên
Chúa trao cho ngôn sứ Sa-mu-en sứ mệnh đi xức dầu phong vương cho cậu
Đa-vít. Cậu là con trai út của ông
Gie-sê. “Cậu có mái tóc hung, đôi mắt đẹp
và khuôn mặt xinh xắn”. Với ngoại hình ấy,
so với bảy người anh và theo nhận xét của Sa-mu-en, cậu không có dáng vẻ của một
tay lãnh đạo tài giỏi. Vị ngôn sứ vẫn ngồi
đấy, ngần ngại không biết phải tính sao.
Nhưng khi người nhà đưa Đa-vít từ ngoài đồng về và dẫn tới trước mặt
ngôn sứ, Thiên Chúa bảo ông: “Đứng dậy,
xức dầu tấn phong nó đi! Chính nó
đó!” Ông Sa-mu-en đã làm theo lời Chúa dạy,
và “từ ngày đó trở đi, thần khí Đức Chúa nhập vào Đa-vít”.
Vậy
tại sao Thiên Chúa đã tuyển chọn Đa-vít?
Tại vì Người thấy Đa-vít tận đáy lòng.
Thiên Chúa thấy được những đức tính tàng ẩn và chưa phát triển nơi con
người cậu Đa-vít. Người muốn đặt một vị
mục tử cho dân Người chứ không phải một ông vua như các ông vua láng giềng
Ít-ra-en. Do đó người lãnh đạo Ít-ra-en
cần những đức tính về cả hai phương diện tài giỏi và đạo đức. Có nhiều điều Thiên Chúa muốn thực hiện cho
Ít-ra-en, nhưng điều kiện là người lãnh đạo phải là người trung thành với Thiên
Chúa. Chính vì bất trung nên Sa-un, được
Sa-mu-en xức dầu làm vua thứ nhất của Ít-ra-en, đã bị Thiên Chúa phế bỏ. Còn Đa-vít, ông vua thứ hai, nổi bật về lòng
trung thành đối với Thiên Chúa. Ông hoàn
tất cuộc chinh phục ngoại bang để mở mang bờ cõi và loại trừ mối đe dọa của dân
Phi-li-tinh, lập Giê-ru-sa-lem làm thủ đô
và rước Hòm Bia Giao Ước về đấy.
Mặc dù Đa-vít vẫn là con người yếu đuối sa ngã, nhưng ông đã thật lòng
thống hối và được Thiên Chúa hứa ban Đấng Cứu Độ sẽ sinh ra từ dòng dõi ông.
Nhìn
và sống theo quan điểm của Thiên Chúa chính là lời kêu gọi ta hãy nên hoàn thiện
hoặc nhân từ như Cha trên trời (Mt 5:48; Lc 6:36). Mẫu gương nhìn và sống quan điểm của Thiên
Chúa không ai khác ngoài Chúa Giê-su.
Khi ông Phê-rô nài nỉ Chúa đừng chấp nhận cuộc Thương khó, Người đã thẳng
thắn sửa sai ông: “Xa-tan, lui lại đằng
sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng
của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt
16:23). Ta cứ nghe những lời giảng của
Người sẽ gặp thấy không biết bao nhiêu lần Người trình bày quan điểm của Thiên
Chúa. Cụm từ “như Cha anh em ở trên trời…”
là lối Người trình bày quan điểm của Thiên Chúa. Người không trình bày suông, mà còn thể hiện
quan điểm ấy trọn vẹn trong cuộc sống nữa.
Ta hãy lấy một thí dụ: Người dạy
ta phải thương yêu kẻ thù “như Cha anh em, Đấng ngự trên trời, vì Người cho mặt
trời của Người mọc lên soi sáng kẻ xấu cũng như người tốt, và cho mưa xuống
trên người công chính cũng như kẻ bất chính” (Mt 5:45). Đến lượt Chúa Giê-su, trên thập giá Người đã
tha thứ cho những kẻ thù của Người (Lc 23:34).
2.
Chúa Giê-su mở con mắt mù lòa của ta để ta được làm con cái sự sáng (bài Tin Mừng – Ga 9:1-41)
Muốn
làm con cái Chúa và đi theo đường của Chúa, ta phải sống theo quan điểm của
Chúa. Còn nếu cứ sống theo quan điểm
loài người, ta sẽ là kẻ mù lòa thiêng liêng.
Người dự tòng là người chuẩn bị làm con cái Chúa và sống đời sống mới của
con cái sự sáng. Do đó, trong cuộc sát hạch
lần thứ hai, họ sẽ tuyên xưng đức tin vào Chúa Ki-tô là ánh sáng trần
gian. Dấu lạ Chúa Giê-su chữa lành người
mù từ thuở mới sinh nói lên danh hiệu này của Chúa Giê-su. Câu truyện thánh Gio-an kể rất là sống động với
những chi tiết và đối thoại thích thú.
Thánh sử lấy phép lạ này như dấu chỉ nói lên phẩm tính của Chúa là ánh
sáng (Ga 9:5). Nhưng những câu trả lời
khôn ngoan và đanh thép của anh mù trước những hạch hỏi của đám Pha-ri-sêu còn
cho ta thấy một sự thật mỉa mai và đáng buồn, như Chúa đã khẳng định: “Tôi đến thế gian này chính là để xét xử: cho người không xem thấy được thấy và kẻ xem
thấy lại nên đui mù” (Ga 9:39).
Thực
vậy, anh mù bẩm sinh đã không nhìn thấy Chúa trước khi được chữa lành. Mà ngay sau khi đi rửa mắt ở hồ Si-lô-ác và
được nhìn thấy, anh cũng chưa được gặp mặt Chúa Giê-su. Mãi tới khi anh bị đám Pha-ri-sêu trục xuất,
anh mới được gặp Người. Vậy trong khoảng
thời gian từ sau khi được lành mắt cho đến lúc được gặp Chúa Giê-su, anh đã trải
qua một hành trình đi tìm căn tính của Người.
Giống như cấu trúc câu truyện Chúa Giê-su gặp người phụ nữ Sa-ma-ri, bài
Tin Mừng hôm nay cũng là câu truyện nhận biết căn tính, căn tính của anh mù và
căn tính của Chúa. Trước hết, anh mù bẩm
sinh phản bác lại những kẻ không tin anh chính là tên mù ăn xin vẫn ngồi ở cổng
Đền thờ. Anh quả quyết: “Chính tôi đây!” Sau đó, cha mẹ anh được người Pha-ri-sêu gọi
đến, ông bà cũng xác nhận: “Chúng tôi biết nó là con chúng tôi, nó bị mù từ khi
mới sinh… Xin các ông cứ hỏi nó; nó đã khôn lớn rồi, nó có thể tự khai được”
(Ga 9:18-19). Sự thẳng thắn và khiêm tốn
nhận mình là kẻ mù lòa của anh ngược hẳn với thái độ cao ngạo của đám
Pha-ri-sêu, họ chửi rủa anh ta: “Mày
sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” (Ga 9:34, xem
Ga 9:2).
Đi
tìm biết xem Chúa Giê-su là ai, đó là đề tài câu truyện. Người Pha-ri-sêu hạch hỏi anh mù ai đã chữa
lành cho anh. Trước tiên, anh trả lời chỉ
biết có “một người tên là Giê-su” đã trộn bùn bôi vào mắt anh và sai anh đi rửa
ở hồ Si-lô-ác. Sau đó, khi người ta
tranh luận với nhau về hành động Chúa Giê-su trộn bùn vào ngày sa-bát (theo Lề
Luật, người ta không được phép trộn bùn vào ngày sa-bát) và hỏi ý kiến anh mù,
thì anh phát biểu: “Người là một vị ngôn
sứ” (Ga 9:17). Giống hệt như câu truyện
người phụ nữ Sa-ma-ri (Ga 4:19)! Bị hạch
hỏi lần thứ hai, anh trả lời đanh thép, chống lại lời kết án của người
Pha-ri-sêu cho Chúa Giê-su là “người tội lỗi”.
Anh lý giải: “Xưa nay chưa hề
nghe nói có ai đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh. Nếu không phải là người bởi Thiên Chúa mà đến,
thì ông ta đã chẳng làm được gì” (Ga 9:33).
Sau cùng khi nghe tin anh bị trục xuất, Chúa Giê-su đến gặp anh, Người hỏi
anh: “Anh có tin vào Con Người không?”
và cho anh biết Người chính là Đấng ấy, thì anh đã tuyên xưng đức tin: “Thưa Ngài, tôi tin”. Và anh sấp mình xuống trước mặt Người. Sấp mình trước mặt Chúa là cử chỉ của kẻ thờ
phượng Thiên Chúa (Lc 5:8).
3.
“Xưa anh em là bóng tối, nhưng bây giờ, trong Chúa, anh em lại là ánh
sáng” (bài đọc Tân Ước – Ep 5:8-14)
Câu
truyện Tin Mừng nói lên Chúa Giê-su là ánh sáng thế gian. Tuy nhiên hình ảnh anh mù được mở mắt cũng
mang ý nghĩa đặc biệt đối với ta, những người đã được mở con mắt thiêng liêng
làm con cái Chúa và nhìn mọi sự theo quan điểm của Chúa. Căn bệnh mù lòa thiêng liêng vẫn có thể trở lại
với ta nhiều lần, do đó ta luôn luôn cần được Chúa chữa lành. Thánh Phao-lô cho ta một lời khuyên thực tế: “Anh em hãy ăn ở như con cái ánh sáng” (Ep
5:8).
Ánh
sáng Tin Mừng giúp ta nhìn rõ và phân định điều tốt điều xấu. Phân định là việc Ki-tô hữu luôn phải làm
trong cuộc sống, từ điều nhỏ nhặt trong ngày cho đến những quyết định quan trọng
như chọn lựa bậc sống hay nghề nghiệp. Để
phân định cho đúng, ta cần biết rõ đâu là quan điểm của Thiên Chúa và đâu là
quan điểm của thế gian, đâu là tư tưởng của Thiên Chúa và đâu là tư tưởng của
loài người. Học hỏi Lời Chúa, nhất là
Tin Mừng, sẽ giúp ta biết và làm quen với cái nhìn của Chúa Giê-su. Lời thư thánh Phao-lô nói lên thực tại ta được
làm con cái sự sáng. Tuy nhiên lời thư lại
như đặc biệt hướng về những người mù lòa thiêng liêng hoặc “còn đang ngủ mê”,
kêu gọi họ hãy mở mắt và tỉnh dậy, nhất là hãy luôn hướng về Chúa Ki-tô là sự
sáng trần gian. Nếu ta ở trong Chúa là
nguồn sáng, ta sẽ có ánh sáng của Người (Ga 8:12), và hơn thế nữa ta cũng sẽ là
ánh sáng của Người, nhờ đó những người chung quanh sẽ nhận ra được dung mạo của
Chúa Ki-tô qua đời sống của ta.
4.
Sống Lời Chúa
Các
bài đọc hôm nay phù hợp với nhau và đưa ta đến một hướng đi rõ ràng, đó là ta
phải sống và bước đi như con cái ánh sáng.
Nhờ Chúa Ki-tô là ánh sáng, ta được “thấy” Thiên Chúa là Đấng nào và
cũng “thấy” được ta là ai. Nếu ta thấy
được Thiên Chúa yêu thương ta dường nào, ta sẽ cố gắng đáp lại tình yêu
đó. Nếu ta thấy ta chưa sống như con cái
Chúa, ta sẽ cố gắng sửa đổi, nhất là trong mùa Chay này.
Suy nghĩ: Thánh Phao-lô đưa ra một đề nghị thực tế để
tôi sống như con cái ánh sáng. Ngài
nói: “Đừng cộng tác vào những việc vô
ích của con cái bóng tối, phải vạch trần những việc ấy ra mới đúng”. Vậy “những việc vô ích của con cái bóng tối”
mà tôi đang cộng tác là những việc gì?
Tôi phải vạch trần những việc ấy ra bằng cách nào?
Cầu nguyện: Lạy Chúa là ánh sáng muôn đời chiếu soi mọi
người sinh ra trong trần thế, xin rộng ban ân sủng làm cho tâm hồn chúng con được
bừng sáng huy hoàng, để chúng con hằng biết suy tưởng những điều đẹp lòng Chúa,
và chân thành yêu mến Chúa mỗi ngày một hơn.
Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô là ánh sáng chiếu soi muôn đời. A-men.
(Lời nguyện hiệp lễ, Chúa Nhật IV
mùa Chay).
Lm. Đaminh
Trần Đình Nhi
26-8-2008