Lễ Mình Thánh Chúa A
Thịt Tôi là Của Ăn Thật
Gv 6,51-58:
51 Bánh hằng sống bởi trời xuống, chính là Ta! Ai ăn bánh này, thì sẽ được sống
đời đời. Và bánh Ta sẽ ban, ấy là thịt mình Ta vì sự sống thế gian". 52
Người Do Thái xô xát nhau mà rằng: "Làm sao ông ấy có thể cho ta ăn thịt
mình được?" 53 Vậy Ðức Yêsu nói với họ: "Quả thật quả thật, Ta bảo
các ngươi: nếu các ngươi không ăn thịt Con Người và uống máu Ngài, các ngươi
không có sự sống nơi mình các ngươi. 54 Ai ăn thịt và uống máu Ta thì có sự
sống đời đời. và Ta sẽ cho nó sống lại trong ngày sau hết. 55 Vì thịt Ta là
thật của ăn, và máu ta là thật của uống. 56 Kẻ ăn thịt Ta và uống máu Ta thì
lưu lại trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. 57 Cũng như Cha, Ðấng hằng sống, đã sai
Ta, và Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta cũng vậy, nó sẽ sống nhờ Ta. 58 Bánh này
là bánh bởi trời xuống; không phải như cha ông các ngươi đã ăn và đã chết; kẻ
ăn bánh này sẽ sống đời đời".
Để có thể hiểu văn mạch
của đoạn 6:51-58, cần phân tích cấu trúc của chuơng 6. Chương nầy gồm hai đoạn:
tường thuật hai câu chuyện làm bánh hoá ra nhiều (cc. 1-15) và Chúa Giêsu đi
trên nước (cc. 16-21), và diễn từ về Bánh hằng sống tại hội đường ở Capharnaum
(cc. 22-59). Diễn từ nầy có thể chia thành hai phần: 6:22-40 và 6:41-58. Phần
còn lại của chương 6 là đối thoại giữa Chúa Giêsu và các môn đệ của Người về sự
thách đố của diễn từ đối với họ (cc. 60-65), và đối thoại giữa Chúa Giêsu và
Phêrô về căn tính của Người (cc. 66-71).
Đoạn 6:41-59 có thể
chia thành hai phần: - Chúa Giêsu nói về bánh ban từ trời xuống (6: 41-51); và
Chúa Giêsu ban bánh nầy làm của ăn (6:52-59). Hai đoạn nói kết với nhau qua từ
ngữ “sarx” (cc. 51.52). Đoạn tin mừng
của Chúa nhật hôm nay thuộc về phần hai. Phần nầy dẫn vào bằng câu hỏi của
người Do thái về việc ban thịt để ăn (c. 52) và diễn từ kết thúc với câu
59. Trong khi đó các câu 53-58 khai
triển chủ đề “ăn thịt” và “uống máu”.
Câu hỏi của người Do
thái (c. 52). Trong cuộc tranh luận trước với người do thái, từ vấn đề “bánh
bởi trời” (c. 31) Chúa Giêsu dẫn họ đến tuyên bố Người là bánh hằng sống thật
(c. 35), rồi “Tôi là bánh từ trời xuống” (c. 41); và cuối cùng, bánh bởi trời
xuống nầy chính là “thịt của Tôi” (c. 51). Tuy nhiên, người do thái không hiểu
những điều Người nói (x. 6:41-42.52). Họ hiểu “sarx” là “thịt” theo nghĩa đen, là phần thịt mềm bao bọc xương
cốt của của thân thể đang sống, chung cho người và thú vật (x. 3:6).
Cách đặt câu hỏi “Làm sao có thể”, pōs
dunatai, diễn tả ý nghĩ là điều ấy không thể xảy ra được. Như Nicôđêmô nghĩ
là một người khi đã già rồi, không thể sinh ra lại được (3:4.9); như người
Pharisêô nghĩ là Thiên Chúa không thể nhận lời một người tội lỗi để cho người
đó làm phép lạ (9:16). Vậy, trong câu hỏi người do thái muốn nói là đối với họ
không thể có chuyện Chúa Giêsu lấy “thịt” của Người cho họ ăn được.
Câu trả lời của Chúa Giêsu
(cc. 53-58). Các câu nầy được khai triển theo cấu trúc đối đảo:
B’ 6:56: Người ăn…ở trong Thầy cũng như Thầy ở trong người ấy
A’. 6:58: Cha ông … đã chết
Cách trình bày với cấu
trúc nầy muốn nhấn mạnh sứ điệp chính nằm ở câu 55 là thịt và máu của Người mới
là của ăn và của uống thật (6:55).
“Sars” và “haima” của Người Con Nhân Loại (c. 53) là xác và máu của Con Thiên
Chúa làm người, “Ngôi Lời đã trở nên xác phàm” (1:14). Tước hiệu “Người Con
Nhân Loại” gắn liền với kinh nghiệm cuộc thương khó, cái chết và phục sinh. Do
đó, có thể hiểu là Chúa Giêsu ban thịt và máu nầy trong cái chết và sống lại của
Người; bởi đó thịt và máu nầy mang lại sự sống đời đời.
Hành
động trōgō sarx “nhai thịt”, và pinō haima “uống máu” của Người được lập
lại tới bốn lần trong mỗi câu (cc.54.56.57.58). Đến lúc phải thực hành. Trong
ngữ cảnh của chương 6, dân chúng đói khát, Chúa Giêsu đã làm phép lạ bánh hoá
nhiều cho họ ăn (6:1-13). Họ muốn tôn Người làm vua, vì Người giải quyết được
lương thực cho họ (6:15), và họ tìm kiếm Người chỉ vì mục đích nầy, “bởi vì các
ngươi đã được ăn bánh no nê” (6:24-26). Câu chuyện nầy được thuật lại với mục
đích giáo huấn là họ cũng phải đi xa hơn và tìm kiếm của ăn chân thật do Chúa
Giêsu ban. Động từ trōgō, “nhai, ngấu nghiến” diễn tả hành động đưa thức ăn vào thân
thể cách cụ thể và hiện thực hơn cả động từ ethiō,
“ăn”. Vậy, Người là Bánh để được ăn, và Máu để được uống. Lời giáo huấn nầy nhắm
đến mọi người.
Hiệu
quả của việc ăn uống nầy là để “có sự sống đời đời” (c. 53) và “ở trong Tôi và
Tôi ở trong người ấy” (c. 56). Về “sự sống đời đời”, muốn có sự sống nầy phải
tin vào Con Thiên Chúa (3:15.16; 3:16; 6:47); nghe lời Con Thiên Chúa và tin
vào Người (5:24).
Chính trong sarx và haima nầy chứa đựng sự sống nầy. Nói cách khác đây là sarx và haima của Đấng Sống Lại. Động từ anistēmi “làm cho chỗi dậy” trong Gioan thường dùng cho Chúa Giêsu.
Chính Người làm cho người tin vào Người hoặc ăn thịt và uống máu Người được
chỗi dậy “trong ngày sau hết” (6:36.40.44.54). Chúa Giêsu có sự sống trong
Người (10:28; 17:2). Theo nghĩa nầy và trong viễn cảnh của sự sống lại ngày sau
hết, sarx và haima là của ăn và của uống thật (c. 55). Về của ăn, brōsis, Chúa Giêsu đã dùng chữ nầy để
chỉ chính của ăn của Người (4:32). Đây là của ăn thật, alethēs, vì của ăn nầy có đặc tính là không hư nát mà tồn tại trong
sự sống đời đời, và do Chúa Giêsu ban cho (6:27). Điều nầy sẽ được thực hiện cách
dứt khoát trong bữa Tiệc Ly. Vậy của ăn thật chính là của ăn do Chúa Giêsu ban
trong đó có sự sống đời đời.
Hai
câu tiếp theo 57 và 58 giải thích về nguồn mạch của sự sống đời đời trong của
ăn và thức uống thật. Chúa Giêsu đặt sự sống nầy trong tương quan với Chúa Cha.
Người cho thấy sự sống nơi Người đến bởi Chúa Cha, dia ton patera (c.57). Như thế chính nơi Người, thịt và máu, có sự
sống đời đời; bởi đó, ai ăn Người, được sống nhờ Người, dia eme. Gioan thường dùng cách trình bày là mọi tương quan thông
hiệp với Chúa Giêsu đều gắn liền với Chúa Cha như là nguồn mạch; qua đó làm nên
một thực thể duy nhất: làm vinh danh (5:23); yêu mến (15:9); tuân giữ giới răn
(15:10); ở trong (17:21), sai đi (20:21). Vậy, Chúa Giêsu là trung gian giữa
Thiên Chúa và con người.
Câu
58 tổng kết lại những điều đã đề cập trước trong diễn từ. Chúa Giêsu nhắc lại
“bánh bởi trời”, manna, mà người do thái nghĩ là do Môsê ban cho (c. 31). Người
tuyên bố là cha ông họ đã ăn bánh ấy và đã chết, vì không phải là bánh thật. “Bánh
thật bởi trời”, chú ý tính từ alethinon
“thật”, chỉ do Thiên Chúa ban (6:32-33). Bánh nầy ban sự sống đời đời. Phần cuối
của câu 58 lập lại từng chữ trong câu 51 “bánh nầy ban sự sống đời đời” để đóng
khung lại diễn từ về bánh hằng sống.
Chúa
Giêsu là của ăn và của uống thật. Đời sống đức tin chỉ được nuôi dưỡng bằng lương
thực nầy. Chúa Giêsu ban chính Người cho chúng ta. Hãy đến lãnh nhận mà ăn.
Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến