Chúa Nhật
20 Thường Niên Năm A
Thiên Chúa Không Kỳ Thị Hạng Người Nào
(Ys 56,1.6-7; Rm 11,13-15.29.32; Mt 15,21-28)
Phúc Âm: Mt 15, 21-28
"Này bà, bà có
lòng mạnh tin".
Khi ấy, ra khỏi đó,
Chúa Giêsu lui về miền Tyrô và Siđon, thì liền có một bà quê ở Canaan từ xứ ấy
đến mà kêu cùng Người rằng: "Lạy Ngài là con Vua Ðavít, xin thương xót
tôi: con gái tôi bị quỷ ám khốn cực lắm". Nhưng Người không đáp lại một
lời nào. Các môn đệ đến gần Người mà xin rằng: "Xin Thầy thương để bà ấy
về đi, vì bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi". Người trả lời: "Thầy chỉ
được sai đến cùng chiên lạc nhà
Suy Niệm:
Chúa Nhật XX Thường
Niên A
Ys 56,1.6-7; Rm
11,13-15.29.32; Mt 15,21-28
Thái độ và lời nói của
Ðức Yêsu Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay có thể khiến chúng ta thoạt đọc và
thoạt nghe thấy không ngon cho lắm. Nhưng đó lại chính là cớ thúc giục chúng ta
tìm hiểu Lời Chúa cho rõ ràng và sâu xa hơn nữa, để xem những cảm giác đầu tiên
có xứng đáng không? Ðể làm công việc này có thể chúng ta cứ theo phương pháp
giáo dục và sư phạm thông thường của Kinh Thánh, tức là hiểu rõ bài Cựu Ước,
chúng ta sẽ dễ tiếp thu được những chiều kích phong phú của Tân Ước. Bài sách
Isaia hôm nay sẽ giúp chúng ta đi vào bài Tin Mừng. Và bài Thánh Thư đến sau đó
sẽ như là một hậu quả tự nhiên.
A. Thiên Chúa Không Kỳ
Thị Hạng Người Nào
Ðoạn Cựu Ước hôm nay là
những lời đầu tiên trong phần thứ III của sách Isaia. Nói đúng hơn đó là những
lời trước hết của một cuốn sách khác, sánh với hai phần trên của sách Isaia.
Sách này đúng ra là của ba tác giả, ở ba thời khác nhau, bàn về ba vấn đề khác
nhau; nên ba phần của sách thật ra là ba sách khác nhau. Ðoạn trích hôm nay
thuộc về cuốn thứ ba, viết vào thời sau lưu đày và để soi sáng Dân Chúa trong
thời hậu Lưu đày này. Thế mà vấn đề đầu tiên đến với Dân Chúa lúc bấy giờ chính
là tương quan giữa đám dân hồi hương và những kẻ xa lạ đã đến ở trong Thánh địa
đang khi Lưu đày. Loại người ngoại bang (hay tha bang) này có được thâu nhập
vào Dân Chúa không? Bởi vì lịch sử Dân Chúa đâu đã kết thúc. Việc ra khỏi Lưu
đày để trở về quê hương tuy đã thực hiện một số Lời Hứa mà các Ngôn sứ đã tuyên
sấm. Nhưng phần lớn các Lời Hứa từ Abraham, qua Môsê và qua các Tiên tri vẫn
đang còn phải chờ mong. Thời đại Ðấng Cứu thế vẫn chưa đến. Dân Chúa đang sống
trong đợi chờ. Hồng ân của thời Cứu độ ấy có được ban cho ngoại bang không? Sau
này họ có kết nạp với con cái
Ðó không phải là những
thắc mắc lý thuyết. Trong thực tế tương quan giữa Dothái và ngoại bang cần được
giải đáp sáng sủa. Bởi vì ngoại bang không phải chỉ là ngoại kiều. Ngoại kiều
có cư trú hẳn hoi ở giữa Dân Chúa. Luật pháp cho họ những quyền lợi và đòi họ
những nghĩa vụ. Còn ngoại bang là những dân ngoại không có cư trú và cũng chẳng
muốn có cư trú. Họ muốn được hưởng dùng mọi thuận lợi trong Dân Chúa nhưng
chẳng muốn bị gò bó vào một nghĩa vụ công dân nào. Thế nên họ bị ghét và có
khuynh hướng bị gạt ra khỏi Dân.
Chúa đối với hạng ngoại
bang này thế nào? Người có chương trình gì cho họ không? Hôm nay Ngôn sứ của
Chúa tuyên bố không úp mở?
Trước hết, Chúa phán
dạy Ơn cứu độ của Người đã gần đến nơi và đức nghĩa của Người sắp rạng rỏ.
Người ta phải mau mau đón tiếp. Hãy giữ công minh và thi hành đức nghĩa. Ðặc
biệt hãy giữ ngày Sabbat (Hưu lễ) vì đó là dấu có lòng tin sợ Chúa. Phúc cho người
nào biết thi hành như vậy, vì bất luận họ là ai mà nắm chặt những điều ấy cũng
đều nhận được Ơn Chúa cứu độ. Không có luật trừ nào, kể cả đối với người ngoại
bang. Nếu họ muốn phụng sự và mộ mến Yavê, nếu họ giữ ngày Hưu lễ và thi hành
công chính, thì Thiên Chúa sẽ dẫn họ lên Núi Thánh của Người và Nhà của Người
sẽ là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc.
Lời Chúa thật rõ ràng
và vô cùng mới mẻ đối với người ở thời sách Isaia. Trong tương lai, vào thời
Ðấng Cứu thế, sẽ không còn phân biệt cắt bì hay không cắt bì, Dothái hay dân
ngoại, con cái
Giáo lý phổ quát này dễ
hiểu đối với chúng ta, nhưng thật khó chấp nhận cho loài người ở thời có tầm
mắt hạn hẹp. Người ta không quen thấy gì ở ngoài hàng rào các thứ biên giới.
Ngay ở thời Chúa Yêsu và ngay sau Chúa Yêsu, giáo lý về phổ quát tính của Ơn
cứu độ vẫn còn gặp nhiều khó khăn và chống đối. Ðó là điều chúng ta có thể nhìn
thấy trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúng ta hãy thử xem vấn đề đã được giải quyết
như thế nào?
B. Hội Thánh Thâu Nhận
Lương Dân
Chúng ta không thể đọc
bài Tin Mừng hôm nay mà không để ý đến bối cảnh khi nó được viết ra. Ðành rằng
đây là một câu truyện đã xảy ra ở thời Chúa Yêsu, lúc Người còn tại thế. Và
phân tích kỹ, chúng ta vẫn có thể thấy nhiều chiều kích phong phú của câu
truyện này. Tuy nhiên chúng ta vẫn phải nhớ, câu truyện được kể lại cho chúng
ta dưới hình thức hiện nay không khỏi mang theo nhiều sắc thái của thời đại
hình thành ra nó trong sách Tin Mừng theo thánh Matthêô. Ðó là thời sau Chúa
Yêsu, thời Hội Thánh bắt đầu lan rộng, thời các Tông đồ đang lúng túng về thái
độ phải có đối với lương dân. Soạn giả của bài Tin Mừng hôm nay vừa viết lại
một câu truyện trong cuộc đời của Chúa Yêsu, vừa muốn dùng câu truyện này để
soi sáng và hướng dẫn Hội Thánh.
Trước hết, chúng ta
thấy Chúa Yêsu bấy giờ lui đến miền Tyrô và Siđôn là những nơi dân Dothái giáp
giới với dân ngoại. Ðó cũng là sự kiện có thể gợi lên việc Hội Thánh lúc này
phải giáp mặt với lương dân. Chúa Yêsu có vẻ như không muốn rời khỏi biên giới
đất Dothái để sang truyền giáo cho dân ngoại. Nhưng một người phụ nữ từ bên kia
biên giới đã chạy sang kêu cầu Người cứu chữa. Chúng ta hãy chú ý đến lời xin
của bà. Ðó là giọng văn hoàn toàn phụng vụ: "Xin thương xót tôi". Và
là những lời công nhận ơn cứu độ từ nơi dân Dothái, vì bà ta xưng hô Người là
Con vua Ðavít. Như vậy, dù là lương dân nhưng bà đã có đức tin và biết tôn thờ
như người Dothái. Lẽ ra Chúa phải ban ơn ngay cho bà. Nhưng Người lại yên lặng,
không đáp lại một lời. Ðể cho người ta suy nghĩ; để cho môn đệ bày tỏ cảm nghĩ
của mình.
Các ông thưa: "Xin
để cho bà ấy về, vì bà cứ kêu gào đàng sau chúng tôi". Các ông muốn rảnh
mình chứ không xét đến quyền lợi của người khác. Chúa Yêsu không thể đồng ý như
vậy. Người kích thích mọi người phải suy nghĩ sâu xa hơn. Người bảo: "Ta
chỉ được sai đến cho những chiên lạc nhà
Dù sao, câu nói của
Người đã mở ra một lối thoát. Bà kia vội nắm lấy và thưa ngay: "Vâng!
Nhưng đàn chó cũng được ăn những mảnh vụn rơi xuống tự bàn của chủ chúng
nó". Chúng ta bảo bà nhanh trí ư? Ở đây tác giả muốn nói lương dân rất ý
thức địa vị của mình trong Lịch sử cứu độ. Họ vừa đầy lòng tin, vừa rất khiêm
cung. Họ rất xứng đáng được ơn Chúa. Thế nên hết mọi người đều được thỏa mãn
khi nghe Chúa Yêsu nói với bà kia: "Này bà, lòng tin của bà lớn thật! Bà
muốn sao thì hãy được như vậy!".
Và chúng ta đọc lại câu
truyện như thế đã thấy đầy chất sư phạm trong bài tường thuật trên. Người ta
muốn được học với Chúa về thái độ phải có đối với lương dân. Hội Thánh bấy giờ
đang bị dằn vặt về vấn đề không biết có nên thâu nhận dân ngoại vào sản nghiệp
Nước Trời hay không, và nếu có thì phải làm thế nào? Lời giải đáp trong câu
truyện hôm nay có vẻ dè dặt nhưng rất cương nghị. Dè dặt vì phải ban bài họ cho
những con người còn hẹp hòi - và loài người chúng ta thì vẫn vậy! - Nhưng cương
nghị vì cuối cùng ai cũng phải chấp nhận cần phải chia sẻ ơn cứu độ cho lương
dân. Những người này chỉ cần phải có đức tin, một đức tin vững vàng, một đức
tin đúng với truyền thống mạc khải.
Như vậy bài Tin Mừng
hôm nay lại gợi đến bao câu truyện mà chúng ta đã nghe nói về thời các Tông đồ.
Ðặc biệt nhất là bầu khí căng thẳng ở thời bấy giờ giữa hai khuynh hướng rộng
và ngặt trong vấn đề thâu nhận lương dân vào Hội Thánh. Ở đây giáo lý của tác
giả sách Tin Mừng Matthêô, tác phẩm được soạn thảo cho giới Kitô hữu gốc
Dothái, đâu có khác gì với giáo lý của thánh Phaolô, vị Tông đồ của dân ngoại?
Ở đâu chân lý cũng là một, và ở đâu tình bác ái cũng vẫn thắng. Cho dù loài
người có hẹp hòi, tình yêu bao la của Thiên Chúa vẫn mạnh mẽ và làm nổ tung mọi
giới hạn mà loài người đặt ra. Ngay từ đầu Người đã muốn cho cả nhân loại được
hạnh phúc và muôn dân được cứu độ trong Lời Hứa với Abraham. Ðến thời Isaia,
Người lại khẳng định như chúng ta nghe đọc trong bài Cựu Ước hôm nay. Và nhìn
thấy cách cư xử sư phạm của Chúa Yêsu Kitô, Hội Thánh thâu nhận mọi dân tộc vào
Nước Trời miễn là người ta có đức tin vững vàng đúng với truyền thống mạc khải.
Tính cách phổ quát của ơn Cứu Ðộ như thế đã được xác định.
Ðiều kiện được nhận vào
Dân Chúa cũng đã rõ ràng. Tuy nhiên thử hỏi ngày nay đã thật hết thái độ hẹp
hòi chưa? Hay vẫn còn có những người muốn lấy các tiêu chuẩn của loài người để
như phủ nhận một hạng người nào đó được hưởng ơn Cứu độ?
C. Một Thắc Mắc Sâu Xa
Thánh Phaolô hôm nay
trong bài thư không có não trạng hẹp hòi như thế. Ngược lại người muốn hết thảy
mọi dân tộc được cứu độ. Nhưng chính vì vậy người có một thắc mắc day dứt, một
nỗi buồn sâu xa vô tận. Người thấy Cửa Nước Trời đã rộng mở để đón các dân
ngoại vào lãnh nhận ơn cứu độ dành cho muôn dân. Còn chính Dân cũ của người và
đồng bào huyết nhục của người là Dân Dothái, thì cớ sao lại cứ khép kín đối với
ơn cứu độ? Ðành rằng có một số con cái
Người tưởng khi nhiệt
thành phục vụ dân ngoại, làm cho nhiều người được vào Nước Trời, người có thể
khiến đồng bào của người phát ghen lên để họ cũng được cứu rỗi. Ghen đây không
phải là ghen với dân ngoại, nhưng là khi thấy dân ngoại thừa hưởng được Lời Hứa
của Tổ phụ mình, con cái
Như vậy họ sẽ không bao
giờ được cứu độ sao? Còn đâu tính cách phổ cập của lòng Chúa xót thương? Chắc
chắn việc
Phaolô tin vào tình yêu
lớn lao của Thiên Chúa. Người đưa ra một lý luận để an ủi mình. Người nghĩ:
trước đây dân ngoại bất tuân Thiên Chúa thế mà nhân vì Israel phủ nhận Tin Mừng
mà Tình yêu của Thiên Chúa đã tràn sang dân ngoại; thì rồi đây Israel cũng sẽ
nhận được tình yêu này cho dù bây giờ họ bất tuân, để chứng tỏ rằng cả dân
ngoại cả Israel đều được Tình yêu cứu độ nhưng không của Thiên Chúa. Ðó là mầu
nhiệm, và là mầu nhiệm chứng tỏ tình yêu bao la của Thiên Chúa, cũng như tỏ
hiện kế hoạch khôn ngoan thâm sâu của Người. Như vậy, cho dù không hiểu rõ,
Phaolô vẫn đầy lòng tin, tín nhiệm nơi Thiên Chúa tình yêu muốn cứu độ hết mọi
dân tộc.
Phụng vụ hôm nay qua
các bài Kinh Thánh cũng muốn chúng ta tin yêu vững vàng như thế. Thiên Chúa
khẳng định ý muốn của Người muốn cứu độ mọi người và mọi nước. Người đã chia sẻ
ơn cứu độ cho cả dân ngoại. Người không muốn chúng ta có thái độ hẹp hòi kỳ thị
một ai. Người muốn Nhà của Người là Hội Thánh phải trở thành Nhà cầu nguyện của
hết mọi dân tộc.
Chúng ta có nghĩa vụ
đón mời hết mọi người vào. Chúng ta không được gây cản trở cho một ai đến với
Hội Thánh. Và nếu gặp nơi người nào như có một thái độ cố chấp phủ nhận nào đó,
phải chăng chúng ta không nên đọc lại bài thư Phaolô hôm nay để vẫn tin tưởng
và tín nhiệm vào cách làm việc mầu nhiệm nhưng kỳ diệu của Thiên Chúa? Chúng ta
phải bắt chước Phaolô mà ca tụng: Ôi thâm sâu thay sự giàu có, khôn ngoan,
thượng trí của Thiên Chúa! Người muốn cứu độ mọi người và không phủ nhận một
ai. Nguyên xem việc Con Một Người xả thân cứu thế trong mầu nhiệm cử hành nơi
bàn thờ bây giờ cũng đủ rõ!
(Trích dẫn từ tập sách
Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)