Chúa Nhật XXIII
Thường Niên A
Cha Ta Sẽ Ban Cho
Mt 18:15-20: 15"Nếu anh em ngươi trót phạm tội, thì hãy đi sửa lỗi nó, riêng
ngươi và nó thôi. Nếu nó nghe ngươi, ngươi đã lợi được anh em ngươi. 16 Nếu nó
không nghe, hãy kèm theo ngươi một, hai người nữa, để tất cả công việc được
đoán định do miệng hai, ba nhân chứng. 17 Nếu nó không màng nghe họ, hãy thưa
với cộng đoàn. Còn nếu cộng đoàn, nó cũng chẳng màng nghe, ngươi hãy kể nó như
người ngoại, người thu thuế.
18Quả thật, Ta bảo các ngươi: mọi
điều dưới đất các ngươi cầm buộc, thì cũng sẽ bị cầm buộc trên trời, và mọi điều
dưới đất các ngươi tháo cởi, thì cũng sẽ được tháo cởi trên trời.
19Quả thật, Ta lại bảo các ngươi: nếu
trong các ngươi hai người dưới đất đồng thanh xin về bất cứ việc gì, thì Cha Ta,
Ðấng Ngự trên trời sẽ ban cho. 20 Vì đâu có hai, ba người họp lại nhân danh Ta,
thì có Ta ở đó, giữa họ".
Đoạn 18:15-20
nằm trong văn mạch chương 18 bàn về đời sống cộng đoàn. Các chủ đề chính được
bàn đến là các trẻ nhỏ và những người bé mọn (18:1-14), hoà giải và tha thứ
(18:15-35). Ngay sau khi nói về sự lầm lạc của một trong những người bé mọn
(18:10-14), Matthêô bàn về việc sửa lỗi anh em, hoà giải (18:15-20), và tha thứ
(18:21-35).
Trong đoạn
nầy, từ ean, “nếu” xuất hiện nhiều
lần (cc. 15[2x], 16.17[2x], 18[2x], 19[2x]). Các câu 15-17 dùng các đại danh từ
ngôi thứ hai số ít, “anh”, sy ; trong
khi các câu còn lại, 18-20, dùng “các anh”, hymin.
Có thể phân chia đoạn nầy như sau: - Sửa lỗi người anh em (cc. 15-17); - Quyền bính
buộc tội và tha tội (c. 18); - Chúa Cha nhậm lời và Chúa Giêsu hiện diện (cc.
19-20).
Sửa lỗi người anh em (cc. 15-17)
Matthêô đặt ra
vấn đề là phải đối xử như thế nào với người anh em của mình khi họ phạm lỗi đến
mình. Ở đây tất cả mọi chuyện được đặt ra bằng những câu điều kiện, ean, “nếu”. Có thể phân bố cục các câu
nầy như sau: - Đặt ra một trường hợp xúc phạm đặc thù (15a), - Các cách sửa lỗi
(cc. 15b-17a), - Cách đối xử với người không hoán cải (c. 17b).
Mở đầu câu thánh
sử nói đến việc “phạm lỗi”, hamartanō.
Trong mạch văn của chương 18, động từ nầy chỉ tội “gây vấp ngã”, skandalizō, cho một trong những người bé
mọn tin vào Chúa Giêsu (cc. 6.8.10). Cấu trúc hamartanō + eis + một
người: chỉ phạm lỗi đến cá nhân một người (Kh 20:6.9; 34:9). Tội “gây vấp ngã” là
tội làm tổn hại đến lòng tin vào Chúa Kitô. Tội nầy tuy phạm trực tiếp đến một
cá nhân, nhưng cũng có ảnh hưởng trên cộng đoàn. Bởi đó, việc sửa lỗi cần đến
cả cá nhân lẫn cộng đoàn.
Chúa Giêsu muốn
“người anh em” được sửa lỗi (c. 15). Cách sửa lỗi đầu tiên là giữa cá nhân người
phạm lỗi và người bị xúc phạm. Động từ elenchō
là hapax trong Matthêô. Trong tin
mừng Luca động từ nầy được dùng trong ngữ cảnh khác, và rất hữu ích giúp chúng
ta hiểu nghĩa của động từ. Gioan Tẩy Giả “khiển trách”, elenchō, Hêrôđê vì đã lấy bà Hêrôđia làm vợ” (Lc 3:19). Gioan cho
ông Hêrôđê thấy việc ấy là sai, và không nên làm. Elenchō trong ngữ cảnh của Matthêô cũng mang ý nghĩa tương tự là
“mở ra, trải ra, chỉ cho một người thấy những sai lỗi của mình”, và “thuyết
phục họ nhận mình sai lỗi” (x. Lc 3:19; Dt 12:5; Khải huyền 3:19; Lv 19:17).
Kết quả của việc
sửa lỗi có thể là tích cực, “nếu người anh em nghe ngươi”. Động từ akouō, mang ý nghĩa nhiều hơn là “nghe”,
mà là “làm theo điều đã được soi sáng/cho biết”, đúng hơn là “hoán cải” (7:24; 10:14;
13:9); Luca dùng từ metainoia “hoán
cải” trong trường hợp nầy (Lc 17:3). Động từ kerdainō, “kiếm được”, mang ý nghĩa sự sở hữu, sở hữu vật chất (16:26;
25:16tt). Giúp hoán cải một người anh em là “kiếm được” người ấy cho Chúa Giêsu
Kitô và cộng đoàn (18:15; 1 Co 9:23; 1Ph 3:1); tuy nhiên một cách nào đó việc
ấy cũng được kể là thuộc về người đi sửa lỗi, “anh em của ngươi”.
Kết quả có thể
là tiêu cực, “Người anh em không nghe ngươi” (c. 16.17), việc sửa lỗi đòi hỏi nhiều
cố gắng hơn. Phải cần đến người khác và cộng đoàn. Trước tiên là cần đến hai hoặc
ba người, như thấy điều nầy được áp dụng ở vài nơi trong Tân ước (x. 26:60; Ga
8:17-18; 2 Co 13:1). Và nếu không có kết quả nữa, phải cần đến cộng đoàn. Ekklēsia ở đây chỉ cộng đoàn kitô hữu
địa phương, chứ không mang nghĩa phổ quát như trong 16:18.
Nếu cách sửa
lỗi cuối cùng vẫn không đạt kết quả tốt, “người đó đối với ngươi như người
ngoại, người thu thuế”. Câu kết luận quy chiếu lại trên người bị phạm lỗi (c.
15a) 1à chỉ “đối với ngươi” mà thôi. Xem họ như “người ngoại, người thu thuế”,
nghĩa là như người chưa hoán cải, chưa có một cách sống của các môn đệ của Chúa
Kitô (x. 4:56-57). Bản văn không nói đến cách cư xử của cộng đoàn đối với người
nầy.
Việc Matthêô
kể ra đến ba giai đoạn sửa lỗi cho thấy thánh sử nhấn mạnh đến sự rất cần thiết
của việc giúp người anh em sửa lỗi. Cá nhân cũng như tập thể phải cố gắng hết
sức và bằng mọi cách đưa người anh em trở về.
Quyền buộc tội và tha tội (c. 18)
Từ thái độ
đối với người không “chịu nghe” (c. 17), Chúa Giêsu đưa ra một nguyên tắc về
quyền buộc tội và tha tội của các môn đệ (18:18). So sánh giữa câu nầy và câu
16:19 mà Chúa Giêsu nói với Phêrô trong trình thuật trước, chúng ta thấy có
nhiều điểm khác biệt. Trong câu 16:19, các động từ deomai, “buộc” và luō,
“tháo” đểu ở ngôi thứ hai số ít. Chúa ban quyền nầy cho Phêrô; trong khi ở câu
18:18, các động từ được dùng số nhiều. Quyền nầy được ban cho các môn đệ. Do
ngữ cảnh của câu nầy, nói về gây cớ vấp phạm (cc. 6.8.10), phạm tội (c. 15),
việc sửa lỗi (cc. 16-17), việc “buộc” và “tháo” nầy được hiểu như là phán quyết
về tội.
Chúa Cha nhậm lời và Chúa Giêsu hiện diện (cc.
19-20)
Hai câu 19
và 20 được đặt chung với nhau vì chúng được dẫn vào bởi cùng một câu: “Quả
thật, Ta lại bảo các ngươi”. Các câu cuối nầy liên hệ với các câu trên bởi cấu
trúc câu: ean (c. 19), “nếu”, “hai”,
“ hoặc ba” (c. 16 và 19.20), “trên mặt đất”, “trên trời” (cc. 18.19). Như các
câu 15-17 đề cập đến giữa hai người trong vấn đề “phạm lỗi”, ở đây cũng nói đến
“hai người” (c.19), “hai hoặc ba người” (c.20), nhưng trong việc “đồng tâm”
(c.19) và “tụ họp nhân danh Ta” (c. 20); và kết quả là “Cha Ta sẽ nhậm lời” (c.
19) và Chúa Giêsu “sẽ ở giữa họ” (c. 20).
Ở đây Chúa Giêsu
thêm một nguyên tắc nữa. Đó là “Nếu trong các ngươi hai người dưới đất đồng thanh xin về bất cứ việc gì,
thì Cha Ta, Ðấng Ngự trên trời sẽ ban cho” (c. 19). Xét về mặt
hình thức, hai câu 19-20 nầy có liên hệ với các câu trước như đã phân tích ở
trên. Xét về nội dung, xem ra Matthêô đưa vào đây một chủ đề mới. Thật ra, điều
Matthêô nói trong các câu 19-20 có liên hệ rất mật thiết với các câu trước.
Sau khi nói đến
việc một người anh em sai lỗi (18:12.15), việc sửa lỗi, chủ yếu là không thành công
(cc. 16-17) và quyền buộc tội và tha tội của các môn đệ (c. 18), thánh sử nói
đến sự hoà hợp của các môn đệ trong cầu nguyện và tụ họp như là điều kiện để được
Chúa Cha nhậm lời về “những điều họ kêu xin”, và Chúa Giêsu “hiện diện giữa họ”
(c. 20). Động từ symphōneō, nghĩa đen
của nó là “vang lên cùng một giọng”, nghĩa là “hòa hợp”, “có một lòng một ý”
(x. 20:3.13), aiteō ở đây có nghĩa là
“cầu xin” trong bối cảnh cầu nguyện (21:22), và panta pragma, “bất cứ điều gì”; hiểu theo nghĩa là “việc liên quan đến
luật lệ” (Thayer; x. Rom 16:2; 1 Co 6:1). Nếu đúng như thế, panta pragma nầy ám chỉ những chuyện
“gây vấp ngã” (cc. 6.8.10), đi lạc (c.12), phạm lỗi (c. 15a). Và điều các môn
đệ cầu xin chính là sự hoán cải của những người ấy, vì các môn đệ đã tìm cách
sửa lỗi họ mà không thành công.
Câu 20 khai
triển ý tưởng việc cầu nguyện trong trường hợp cụ thể ở câu 19; gar, “vì” (c.20) mang ý nghĩa giải
thích. “Tụ họp nhân danh Chúa Giêsu Kitô" là tụ họp để cầu nguyện, là tụ
họp của các môn đệ của Chúa Kitô. Lời hứa nầy được tuyên bố lại trong 28:20 bởi
Chúa Giêsu Kitô phục sinh. Vậy Chúa Giêsu Kitô phục sinh hiện diện giữa những
người tụ họp lại cầu nguyện nhân danh Ngài.
Sửa lỗi
người anh em phạm lỗi là việc phải làm. Nhưng cầu nguyện cho người ấy thì có
sức mạnh và hiệu quả hơn cả việc sửa lỗi, vì lúc ấy chính Thiên Chúa hành động.
Hãy cầu nguyện để mọi người được ơn cứu độ.
Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến)