(Gioan 6,51-58 – Mình Máu Thánh - A)
1.- Ngữ cảnh
Đoạn văn này nằm trong
Phần I của TM IV (“Sách các Dấu lạ”,
ch. 2–12) và thuộc bài diễn từ “Bánh trường sinh” (6,1-71).
Nói chính xác, bài diễn
từ “Bánh trường sinh” bắt đầu từ c. 25 và được kết cấu thành năm vòng tròn, mỗi
vòng bắt đầu bằng một câu nói của Đức Giêsu và một vấn nạn của
người Do Thái: a) 6,25; b) 6,28; c) 6,34; d) 6,41; e) 6,52. Cứ
một câu hỏi của người Do Thái lại đưa Đức Giêsu đến một mạc khải
mới về mầu nhiệm bản thân Người; mạc khải này càng gây thắc mắc cho người Do
Thái hơn. Năm vòng tròn này chuyển theo hình trôn ốc, đưa đến chọn lựa
cuối cùng: bỏ rơi Đức Giêsu (6,66) hoặc tiếp tục gắn
bó với Người (6,69).
2.- Bố cục
Bản văn có thể được
chia thành bốn phần:
1) Đề tài được xác định
lần ba (x. cc. 35 và 48): “Tôi là bánh hằng sống” (6,51);
2) Thắc mắc của người
Do Thái (6,52);
3) Triển khai đề tài (6,53-56);
4) Nền tảng của đề tài
(6,57-58; c. 58a nhắc lại c. 51a).
3.- Vài điểm chú giải
- từ trời xuống (51): hàm ý mầu nhiệm Nhập
Thể.
- bánh tôi sẽ ban tặng chính là
thịt tôi đây (51): Chúng ta có thể tự hỏi vì sao tác giả Gioan không dùng từ ngữ “thân thể” (sôma) mà lại dùng từ “thịt” (sarx),
nhất là khi mà từ sôma đã trở thành
từ quen thuộc trong văn chương Tân Ước
để gọi bí tích Thánh Thể (x. Mc
14,22; Mt 26,26; Lc 22,19; 1 Cr 11,24).
Đồng ý là trong bữa tiệc cuối cùng, hẳn là Đức Giêsu đã sử dụng từ A-ram bơsar (Híp-ri bâsâr), và từ này,
cho dù chỉ “thân thể”, vẫn được ưu tiên dịch ra bằng sarx, “thịt”, trong
Bản dịch LXX. Nhưng thông thường, Ga cũng không mấy để ý đến từ Hy Lạp
chính xác. Ở đây hẳn phải có lý do khác.
Sarx đúng là từ để dịch bơsar. Nhưng sarx không chỉ có
nghĩa là “thịt” là còn có nghĩa là “toàn thân thể”; “toàn thể con người” [theo
nghĩa là có quan hệ với người chung quanh; x. 1,14]. Để diễn tả các sắc thái
này, ngôn ngữ Hy Lạp có khả năng tinh tế hơn tiếng A-ram. Nhưng trong Do Thái
giáo sau này, người ta đã chọn dịch bơsar
là sôma, cho dù trong Tân Ước, đôi khi người ta dùng cả hai
từ. Nhưng để nói về bí tích Thánh Thể, từ sôma
đã được chọn, ngoại trừ một vài bản văn sau thời các tông đồ, được viết
dưới ảnh hưởng của Ga 6, đã dùng từ sarx
(vd: thánh Inhaxiô Antiôkhia, thánh Giúttinô…). Như thế, dù trong Hội Thánh tiên
khởi, đã có một từ nhất định để gọi bí tích Thánh Thể, nếu Ga vẫn
giữ lại từ sarx, là vì sarx-thịt có trong ngôn ngữ A-ram một ý
nghĩa rộng hơn sôma-thân thể. Đàng
khác, trong Ga, sôma được dùng
để gọi một xác chết: làm thế nào một xác chết có thể ban sự sống? Ngược
lại, “thịt” vừa có nghĩa là toàn thể con người vừa có nghĩa là thân thể, và
“hai nghĩa trong một” này rất lý tưởng để gợi ra một trật cái chết trên
thập giá và bí tích Thánh Thể. Bởi vì ý nghĩa căn bản và tại nguồn của “thịt mà
Con Người sẽ ban” không phải là bí tích Thánh Thể, mà là “chính bản thân” Người
trong cái chết trên thập giá. Vậy, khi Đức Giêsu nói về “thịt của Người để cho
thế gian được sống”, Người muốn nói đến “bản thân Người” (chịu sát tế) để cho
thế gian được sống”.
- làm sao ông này có thể cho chúng
ta ăn thịt (52): Đại danh từ Hy Lạp “ông này” (houtos) hàm ý khinh bỉ (x. c. 42). Trong Kinh Thánh, “ăn thịt ai” là một công thức bóng bảy để diễn tả sự
thù nghịch (x. Tv 27,2; Dcr 11,9). Còn
việc uống máu bị coi như một việc ghê tởm bị luật Thiên Chúa cấm (St 9,4; Lv 3,17; Đnl 12,23; Cv 15,20).
- ăn ... uống (53): Hai động từ Hy Lạp này (esthiein và pinein) là
những hành vi rất cụ thể để nuôi dưỡng thân xác.
- thịt ... máu (53): Thành ngữ Híp-ri “thịt và máu” có nghĩa là toàn thể
con người. Vào thời phong trào Cải Cách (tk. xvi), người ta đã tranh luận là có cần
nhận Thánh Thể dưới hai hình không. Tất cả những gì có thể rút ra từ bản
văn này là: cần phải nhận trọn vẹn Đức Kitô.
- Ai ăn (54 và 57): Động từ “ăn” ở đây là trôgein (bản văn tiếng Anh dịch là feed) chứ không phải là esthiein
như ở trên, để diễn tả một hành động rất cụ thể: “nhai bằng răng”. Động từ này nêu bật tính hiện thực của bí tích Thánh Thể.
- ở lại (56): Động từ menein
(remain; rester) là một động từ quan trọng của TM Ga (x. chương 15: “Cây nho thật”; động từ này được dùng
trong TMNL: 12 lần; Ga: 40 lần; 1-3 Ga: 27 lần; Kh: 1 lần). Tác giả Ga thích dùng động từ này để diễn tả
quan hệ trường tồn giữa Chúa Cha và Chúa Con và giữa Chúa Con và các Kitô hữu.
Ở trong Cựu Ước, “trường tồn” là một
đặc điểm của Thiên Chúa và của những thứ thuộc về Thiên Chúa (x. Đn 6,26; Kn 7,27; 1 Pr 1,25), đối lại với đặc tính tạm bợ, chóng qua của con người.
Tuy nhiên, TM IV còn dùng một công
thức là “ở trong” (menein en) để nói về tính nội tại liên kết Chúa Cha,
Chúa Con và các Kitô hữu lại với nhau: như Con ở trong Cha, và Cha ở trong Con
(14,10-11), thì Con cũng ở trong loài người, và loài
người phải ở trong Cha và trong Con (17,21.23).
- kẻ ăn tôi, cũng sẽ nhờ tôi mà được sống (57): Bí tích Thánh Thể thông
ban cho các tín hữu sự sống mà Chúa Con nhận từ nơi Chúa Cha.
- chết (58): Đây là cái chết thể lý
đối lại với sự sống thiêng liêng.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Trong
tư cách là Con Thiên Chúa được Chúa Cha sai đến, Đức Giêsu kêu gọi chúng ta
hiệp thông vào sự sống với Người. Nếu chúng ta tin vào Người, chúng ta được đi
vào trong sự sống với Người, trong sự sống vĩnh cửu. Ở đây Người giải thích cặn
kẽ Người là bánh ban sự sống cho chúng ta như thế nào: Trong cái chết trên thập
giá, Người hiến mình cho thế gian được sống và Người ban cho chúng ta thịt và
máu Người làm của ăn của uống.
* Xác định đề tài (51)
Đề tài đã được xác định
ở cc. 35 và 48, nay lại được nhắc lại, nhưng mang ý nghĩa phong phú hơn, bởi vì
đã được triển khai hai đợt (cc. 35-47 và cc. 48-50). Khi nói
“Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống. Ai ăn bánh này,
sẽ được sống muôn đời” (c. 51a), Đức Giêsu tóm ý nghĩa của dấu chỉ hóa bánh ra
nhiều. Chính bản thân Người là sức sống thiên quốc và
thần linh, tuyệt đối không thể cạn kiệt. Ai đi vào
tương quan đúng đắn với Người thì được thông phần vào sự sống muôn đời. Trong câu “Và bánh tôi sẽ ban tặng chính là thịt tôi đây, để cho
thế gian được sống” (c. 51b) chứa đựng những yếu tố sẽ được triển khai sau này.
Cho đến nay, các lời Đức Giêsu nói chỉ giới thiệu tổng quát
rằng Người là bánh ban sự sống; nhưng bây giờ Người nói rằng trong tương lai,
Người sẽ ban bánh. Bánh ấy chính là thịt Người, hoặc là chính bản thân
Người với trọn vẹn cuộc sống con người. Người đã đưa nhân
tính của Người ra mà phục vụ sự sống của thế giới, của tất cả mọi người không
loại trừ ai.
* Thắc mắc của người Do
Thái (52)
Người Do Thái bị vấp
phạm nặng nề vì lời khẳng định của Đức Giêsu: “Làm sao ông này có thể cho chúng
ta ăn thịt ông ta được?”. Với mức độ Đức Giêsu mạc
khải rõ ràng hơn, sự đối kháng cũng tăng theo. Lúc đầu, còn là những xầm xì, nay đã trở thành tranh luận.
Nếu cố gắng ép nghĩa, thì cũng có thể hiểu lời khẳng định của Đức Giêsu theo nghĩa ẩn dụ: ăn và uống đây chính là học hỏi Lề Luật. Nhưng
dựa theo giọng điệu của Đức Giêsu, những lời Người
nói, người Do Thái đã hiểu rằng phải hiểu mọi sự theo nghĩa chữ. Và theo họ, như thế là phi lý: “ăn thịt người” đã là một chuyện
phi lý, lại còn “ăn thịt” một kẻ tầm thường (houtos) như ông này! Chúng ta gặp lại một hiểu lầm liên hệ đến các
điểm trung tâm của Kitô học Gioan (x.
2,19-21; 7,33-36; 8,21-22; 12,32-34; 13,36-38; 14,4-6;
16,16-19).
* Triển khai đề tài
(53-56)
Đức Giêsu đã dùng ngôn
ngữ hiện thực, thậm chí sống sượng (“ăn”, trôgein)
để diễn tả tính hiện thực của bí tích Thánh Thể. Để được thông phần vào sự sống
muôn đời, cần phải ăn thịt Con Người và uống máu Người. Cùng với thịt, bây giờ
còn có máu nữa: Đức Giêsu nhắc đến chính cái chết thảm khốc của Người trên thập
giá, được tượng trưng bằng từ ngữ “máu”. Trong bánh, là thịt
Người, và trong rượu, là máu Người, Người sẽ ban tặng chính bản thân Người như
Đấng đã trao ban mạng sống trên thập giá. Các tặng phẩm Thánh Thể có nền
tảng là chính cái chết của Đức Giêsu trên thập giá, trong hành vi Người hiến tặng mạng sống để cho thế gian được sống, như
bằng chứng tối cao về tình yêu của Thiên Chúa đối với loài người. Đức Giêsu,
Đấng hiến mạng sống trên thập giá, cũng ban thịt Người như là của ăn và máu Người như là của uống. Thịt và
máu này là một bằng chứng tối hậu về tình yêu của Người và là bảo chứng
về tình yêu mà Người chứng tỏ khi hy sinh mạng sống.
Ai lấy đức tin mà đón
nhận quà tặng này, thì cũng tuyên xưng Đấng Chịu Đóng Đinh với tình yêu của
Người là nguồn mạch ban sự sống, và sẽ được thông phần vào sự sống của Người,
cũng là hiêp thông với Người: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn
đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (c. 54). Một lần nữa,
Đức Giêsu lại khẳng định rõ ràng rằng sự sống đời đời và hiệp thông cá nhân với
Người chỉ là một. Với người nào ăn thịt và uống máu
Người, Đức Giêsu hứa: “[Người ấy] được sống muôn đời (c. 54)” và “người ấy … ở
lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (c. 56). “Ở lại
trong nhau” có nghĩa là trao đổi hỗ tương trọn vẹn và kết hợp với nhau chặt chẽ
nhất. Dụ ngôn Cây nho và các cành sẽ làm sáng tỏ ý nghĩa này hơn nữa (x.
15,1-17).
* Nền tảng của đề tài
(57-58)
Chúa Cha chính là nguồn
phát xuất ra mọi sự: Ngài gửi Chúa Con đến với loài người như là “bánh ban sự
sống” (6,32.44), nhưng cũng dẫn đưa loài người đến với Đức Giêsu trong tư cách
là “bánh ban sự sống” (cc. 37.44.65). Thiên Chúa là Cha “hằng sống”, là chính
sự sống, là sức sống viên mãn không bao giờ cạn kiệt, là Thiên Chúa hằng sống. Đức Giêsu được sai phái đi bởi Chúa Cha và có sự sống bởi Chúa Cha;
Người cũng có thể thông ban sự sống thần linh. Bánh ban sự sống đến từ
Chúa Cha hằng sống và nhận từ Chúa Cha tất cả sức mạnh ban sự sống. Bởi vì Người phát xuất từ Chúa Cha hằng sống, Đức Giêsu là bánh ban
sự sống, là bánh từ trời xuống.
+ Kết luận
Đức Giêsu đã đến để cứu độ thế gian (Ga 3,17), Người là Đấng “Cứu độ trần gian”
(4,42). Người đã hy sinh chính mạng sống, để đưa lại sự sống
cho thế gian. Do đó, không ai bị loại trừ cả. Bí tích Thánh Thể là bữa tiệc Thiên Chúa đặt
để thết đãi loài người.
Bàn thờ dâng lễ cũng chính là bàn tiệc, nơi thịt và máu Đức Kitô được chuyển
đến cho các thực khách làm thức ăn thức uống. Mọi người đều được mời gọi đến bàn tiệc này. Lương thực là chính Đức Giêsu, mà Người ban cho chúng ta, không
được dùng để duy trì sự sống trần gian hoặc ngăn cản cái chết thể lý. Chính Đức Giêsu cũng đã chết, khi trao hiến thịt và máu trên thập
giá. Nhưng cũng chính Người, là bánh ban sự sống, sẽ
ban sự sống muôn đời, sự sống này không mai một đi trong cái chết và sẽ được
viên mãn trong ngày sống lại.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Nhận lấy Mình Máu
thánh Đức Kitô, trước tiên là nhận biết Chúa Cha là nguồn ban cho chúng ta ơn
cao trọng ấy. Đức Giêsu đã nhiều lần nói với chúng ta về Chúa Cha như về Đấng
ban cho chúng ta tất cả mọi sự. Chúa Cha sai Con đến với loài người như là
“bánh ban sự sống” (Ga 6,32.44), nhưng Chúa Cha cũng dẫn đưa loài người đến với Đức
Giêsu, “bánh ban sự sống” (6,37.44.65). Đức Giêsu cũng nói về Chúa Cha: “Ý của
Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống
muôn đời, và tôi sẽ cho họ sống lại trong ngày sau hết” (6,40). Người cũng nói
rằng tất cả những gì Người ban như là ân huệ riêng, thì có nền tảng là chính
Chúa Cha (6,57). Thiên Chúa là Cha
hằng sống, là chính sự sống, là sinh lực viên mãn. Như thế, khi đến với
Tiệc Thánh Thể, chúng ta cần nhớ rằng chính Chúa Cha đang dẫn chúng ta đến để
ban cho chúng ta lương thực là chính Con Một của Ngài.
2. Nếu chúng ta ăn thịt và uống máu Đức Giêsu, chúng ta đón nhận các quà
tặng của chính Người và tuyên xưng niềm tin rằng Người hiện diện trong bánh và
rượu đã được truyền phép và chỉ nhờ Người, Đấng được giương cao và chịu đóng
đinh, chúng ta mới có sự sống đời đời. Khi đó, chúng ta cũng được mời gọi nhận
ra rằng Thịt và Máu Người chính là bằng chứng cao cả nhất về tình yêu của Chúa
Cha và của chính Người đối với nhân loại, đồng thời cũng là bảo chứng về sự
sống đời mà Người muốn ban cho chúng ta.
3. Ăn thịt Đức Giêsu, hoặc ăn chính Đức Giêsu, trong bí tích Thánh Thể,
là cách thức duy nhất giúp tránh được tình trạng suy nhược thiêng liêng và cái
chết. Ăn Đức Kitô, chính là sống nhờ Đức Kitô. Nếu chúng ta hiệp thông đều đặn
vào sự sống của Người, chúng ta đã được đặt để trong tình trạng ân phúc, và
tình trạng này sẽ triển nở thành vinh quang trong cuộc sống vĩnh cửu.
4. Đã hiệp thông vào thịt và máu Đức Kitô, chúng ta trở thành “Đức Kitô
toàn thể”. Do đó, chúng ta cũng phải trở thành “lương thực” nuôi dưỡng anh chị
em chúng ta. Mãi mãi chúng ta sẽ thấy mình bất xứng, muốn co lại, khép kín trên
chính mình, nên cứ phải để cho Đức Giêsu giúp biết hy sinh hầu phục vụ sự sống
của anh chị em mình. “Hồng ân Chúa Kitô và Thánh Thần của Người mà chúng ta
lãnh nhận trong việc hiệp lễ hoàn tất cách sung mãn tuyệt vời những ước muốn
hợp nhất huynh đệ đang ngự trị trong tâm hồn con người, đồng thời nâng cao kinh
nghiệm về tình huynh đệ trong việc tham dự chung vào cùng một bàn tiệc
Thánh Thể đến một mức độ vượt hẳn kinh nghiệm đồng bàn đơn thường của
con người” (Thông điệp Giáo Hội từ bí tích Thánh Thể, 24).
Lm PX Vũ Phan Long, ofm