chương
trình hoẠt đỘng cỦa ĐỨc Giêsu
(Mt 4,12-23 – CN
III TN - A)
1.- Ngữ cảnh
Nói tổng quát, bốn
chương đầu của Mt là Mở đầu cho toàn Tin
Mừng I.
Về ngữ cảnh của đoạn
văn chúng ta đọc hôm nay, chúng ta có thể xác định như sau: Trong ch. 1–2, sau
khi đã dùng một thứ Diễn văn ngôn sứ rút ra từ Cựu Ước mà cho thấy làm thế nào
Lời Chúa đưa lại ý nghĩa cho “xuất xứ của Đức Giêsu Kitô, con cháu vua Đavít,
con cháu tổ phụ Abraham” (1,1-17) và thực hiện chương trình của Người xuyên qua
lịch sử loài người (1,18-25), sang ch. 3–4, Mt cho chúng ta thấy rằng,
khi đến tuổi trưởng thành, Đức Giêsu đã đảm nhận trách nhiệm về sứ mạng của
Người trước nhan Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai phái Người. Những gì Kinh Thánh đã
nói về Người, Người sẽ hoàn tất cách ý thức và tự do. Được đầy Thánh Thần,
Người sắp được Chúa Cha bổ nhiệm làm Đấng Mêsia chân chính đi đáp ứng nỗi niềm
chờ mong của dân chúng.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia
thành bốn phần:
1) Galilê, địa bàn hoạt
động của Đức Giêsu (4,12-16);
2) Đối tượng chính của
lời Đức Giêsu rao giảng (4,17);
3) Những người đầu tiên
được nhận lời rao giảng (4,18-22);
4) Các hình thái chính
của hoạt động của Đức Giêsu (4,23).
3.- Vài điểm chú giải
- Khi Đức Giêsu nghe
tin ông Gioan đã bị nộp (12): Trong các đoạn Mt 10,4; 17,22; 20,18-19; 26,2, tác
giả cũng nói rằng Con Người “bị nộp” (paredothê); như thế, Gioan Tẩy Giả
và Đức Giêsu có chung một số phận. Dạng bị động hàm ý biến cố thuộc về ý
muốn của Thiên Chúa: chương trình của Thiên Chúa đã được hoàn tất trong cuộc
đời Gioan, cũng như sau này, sẽ được hoàn tất trong cuộc đời Đức Giêsu. Hơn
nữa, hai sứ vụ được liên kết với nhau trong chương trình của Thiên Chúa: Đức
Giêsu bắt đầu hoạt động công khai vào lúc Thiên Chúa cho chấm dứt sứ vụ của
Gioan.
- Người lánh qua (anachôreô,
“lui về”) (12): Miền Giuđê là pháo đài của Do-thái giáo chính thức, với hai
nhóm bảo vệ là Pharisêu và Xađốc. Đã bắt được Gioan, hẳn là họ sẽ tìm cách loại
trừ cả Đức Giêsu. Vì thế, Người quyết định khởi đầu sứ vụ tại miền Galilê, nơi
mà ảnh hưởng của Thượng Hội Đồng và của nhóm Pharisêu không mạnh bao nhiêu. Khi
sử dụng động từ anachôreô ở đây như ở 2,12 (x. 9,24; 12,15; 15,21;…),
rất có thể Mt cho hiểu rằng chính thái độ cứng tin của miền Giuđê (dưới
ảnh hưởng của phái Pharisêu, tỏ ra bằng việc loại trừ Gioan) đã khiến Đức Giêsu
phải ngỏ lời với “Galilê, miền đất của dân ngoại”.
- bỏ Nadarét (13): Không phải là
Người bỏ rơi, nhưng là không chọn Nadarét làm khởi điểm cho sứ vụ. Đức Giêsu
chọn Caphácnaum: Mt chuẩn bị đưa vào sấm ngôn Is 8,23–9,1. Caphácnaum
chính là miền đất xưa kia hai chi tộc Dơvulun và Náptali đã cư ngụ (x. Gs
19,10-16.32-39). Mt trích sấm ngôn Isaia này là để trả lời vấn
nạn vì sao Đức Giêsu chọn miền Galilê làm nơi sân khấu chính để khởi đầu hoạt
động của Người: điều đó nằm trong chương trình của Thiên Chúa (như sấm ngôn Is
đã loan báo).
- Dơvulun … Náptali (15-16): Hai chi tộc
này chiếm phần lớn miền Galilê, đã bị đế quốc Átsua thôn tính vào năm 734, và
sau đó bị hy-hóa vào thời các triều vua dòng họ Sêlêukhô. Từ đó họ đã bị Dân
Ngoại tràn ngập. Ngôn sứ Isaia (ch. 8
và 9) đã loan báo ngày giải phóng. Mt thấy chính Đức Giêsu sẽ giải phóng
họ, không phải về phương diện chính trị quân sự, mà là về tôn giáo.
- Galilê, đất của dân
ngoại
(15): Đối lại với Giuđê tinh tuyền về giống nòi, Galilê trở thành biểu tượng
của cuộc quy tụ phổ quát: đây là Đất Hứa đang mở ra với Đức Giêsu, là Israel
chân chính, sau khi Người đã ở trong hoang địa và vượt qua sông Giođan. Chúng
ta gặp một đề tài quen thuộc của Mt: Đức Giêsu ngỏ lời trước tiên
với các chiên lạc nhà
- một ánh sáng huy
hoàng (16):
Ánh sáng này sẽ xuất hiện ra với các môn đệ vào cuộc Hiển Dung (x. 17,2) và còn
xuất hiện huy hoàng rực rỡ hơn nữa vào Ngày Phục Sinh.
- Anh em hãy hối cải,
vì Nước Trời đã đến gần (17): Công thức này tương tự với công thức ở 3,2 (Gioan Tẩy
Giả) và 10,7 (các môn đệ). Bằng cách đó, tác giả Mt khẳng định sự tiếp
nối của các sứ mạng: việc rao giảng của Gioan chuẩn bị cho việc rao giảng của
Đức Giêsu, và việc rao giảng của các môn đệ nối dài sứ điệp của Đức Giêsu.
- Nước Trời (17): Đây là cách Mt
nói quanh để tránh gọi tên Thiên Chúa, nên “Nước Trời” chính là “Nước Thiên
Chúa” (nhưng cũng có bốn lần ông dùng cụm từ “Nước Thiên Chúa”: 12,28; 19,24;
21,31.43). Basileia có thể dịch ra là “triều đại, vương quyền, vương
quốc”. Còn “trời” (tôn ouranôn) không có nghĩa là “Nước” này thuộc về
thiên giới, nhưng có nghĩa là Đấng đang ở trên trời (5,48; 6,9; 7,21) thì đang
trị vì trên thế giới. Do trung thành với truyền thống Cựu Ước, Mt biết
rằng vương quyền luôn luôn thuộc về Thiên Chúa (x. Tv 22,29; 103,19;
145,11-13). Đây là sứ điệp chính của Đức Giêsu: Người loan báo “Nước” (Triều
Đại) này đang/đã đến và chính Người thực hiện trong tư cách là Con Người (x.
26,64; Đn 7,13-14 [LXX]: Mt 28,18). Trong Mc và Lc, có những chỗ
Đức Giêsu đã công bố Nước Thiên Chúa như là một thực tại thuộc về tương
lai (x. Mc 14,25; Lc 11,2; …), và có những chỗ Người lại bảo đó là một thực
tại đang có trong hiện tại nơi sứ vụ và nơi bản thân Người (x. Lc 7,18-23;
10,23t…). Do dựa trên loạt bản văn thứ nhất hoặc thứ hai mà có hai lý thuyết ở
hai đối cực: “thời cánh chung đã đến” và “thời cánh chung đang đến”.
- đã đến gần (eggiken, 17): Eggiken là thì
hoàn thành của động từ eggizô, “đến gần”. Đây là một từ vẫn đang
gây nhiều tranh luận. Các bản dịch khá khác nhau: “est tout proche” (BJ),
“s’est approché” (TOB), “is at hand” (King James 1611; NAB 1988), “is fast
approaching” (để nêu bật tính cấp bách: x. Albright trong Anchor Bible), “is
near, is at hand” (Zerwick). C.H. Dodd cho rằng eggiken được dịch từ một
động từ a-ram có nghĩa là “đạt tới; đến”. Vì thế, ông dịch là “Nước Trời đã
đến”. Nhưng eggizô (do tính từ eggys, “gần”) có nghĩa là “đến
sau; tiến lại gần”; do đó, đa số các nhà chú giải chọn cách dịch là “Nước Trời
đã gần (đến)”.
- Cc. 16-22: Truyện Đức Giêsu kêu
gọi các môn đệ đầu tiên được kể theo mẫu các ơn gọi ngôn sứ trong Cựu Ước (x.
Êlisa: 1 V 19,19). Bài này không nói đến chiều kích tâm lý, nhằm làm nổi bật
lời kêu gọi của Đức Giêsu và lời đáp gắn bó bằng đức tin hơn. Lược đồ này diễn
tả tương quan tiêu biểu giữa Đức Giêsu và người môn đệ lý tưởng: Thầy vừa lên
tiếng gọi, môn đệ bỏ mọi sự mà đi theo ngay, không lưỡng lự, không thắc mắc.
Đức Giêsu chỉ yêu cầu các ông đi theo Người và sống với Người, và chỉ sai phái
các ông đi loan báo Tin Mừng sau Phục Sinh (khác với Mc 6,12-13 và Lc 9,6). Khi
viết như thế, có lẽ Mt muốn ưu tiên nêu thật rõ dung mạo có một không
hai của Thầy.
- những kẻ lưới người
như lưới cá (19): Phải chăng đây là một ám chỉ đến sách Êdêkien (47,10)? Bản dịch TOB
bảo hiểu Mt 4,19 và Lc 5,10 theo Mc 1,17 (chú thích c): hình ảnh tiêu cực và
như đe dọa (x. Kb 1,15.17; Gr 16,16) để diễn tả rằng các tông đồ sẽ đi rao
giảng Tin Mừng hầu quy tụ người ta lại mà chịu phán xét và được vào Nước Thiên
Chúa (x. Mt 13,47-50). Nhưng nếu hiểu theo Lc 5,10, thì ý nghĩa tích cực hơn
nhiều: động từ zôgreô (do zôos, “sống”, và agreô, “bắt”)
có nghĩa là “bắt (mà cứu sống)” (Zerwick). Có lẽ cũng nên hiểu Mt 13,47-50 theo
hướng này.
Dù sao, có thể nói rằng
Nước Trời như đã được thiết lập khi Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ, bởi vì Nước
Trời chủ yếu là một cộng đoàn gồm những con người quy tụ quanh Đức Giêsu
trong sự hiệp thông với Chúa Cha.
- khắp miền Galilê (23): Đức Giêsu đến
nhắm ngỏ lời với toàn thể dân Người trong khắp xứ (chứ không như các
kinh sư Do-Thái).
- giảng dạy … chữa … (23): “Đức Giêsu đi
khắp miền Galilê / các thành thị, làng mạc / giảng dạy (didaskôn, participle)
trong các hội đường của họ, rao giảng (kêryssôn, part.) Tin Mừng
Nước Trời, và chữa (therapeuôn, part.) hết các bệnh hoạn tật nguyền của
dân” (4,23 và 9,35). Câu này đóng khung khối từ ch. 5 đến ch. 9. Năm chương này
làm thành một đơn vị về văn chương và đề tài. Nội dung của đơn vị này sẽ nhắc
lại và triển khai ba phân-từ (participle) chứa trong câu tổng hợp này.
Giáo huấn của Bài Giảng
trên núi (ch. 5–7) và những cuộc chữa bệnh (ch. 8–9: 10 phép lạ) là hai hình
thái của Tin Mừng về Nước Trời. Đức Giêsu công bố Nước Trời bằng lời nói (ch.
5–7) và bằng hành động (ch. 8–9). Bài Giảng trên núi minh họa đặc biệt những
điều kiện để gia nhập và phát triển trong Nước Trời. Có thể nói Bài Giảng này
nối dài câu “Anh em hãy sám hối (hoán cải)”, Bài Giảng này như là lời đáp của
con người khi Nước Trời đến (x. 4,23).
- chữa hết mọi kẻ bệnh
hoạn tật nguyền trong dân (23): Nền văn chương khải huyền thời Đức Giêsu (x. Các Thánh vịnh Salômôn) đầy những ý
tưởng về Thiên Chúa là Đấng che chở người công chính và tránh cho họ khỏi bệnh
hoạn và những nghịch cảnh. Hoạt động chữa bệnh của Đức Giêsu đáp ứng một niềm
chờ mong nơi dân chúng, nhất là thực hiện lời sấm Is về Người Tôi Trung
của Đức Chúa mang lấy bệnh tật của dân (x. Is 53,4), mà ông đã áp dụng cho Đức
Giêsu (x. Mt 8,17).
Còn toàn bộ Tin Mừng
cho thấy rằng Đức Giêsu không chọn nguyên tắc là chữa tất cả các bệnh nhân, y
như thể Người muốn cho người ta hưởng nhờ tối đa khả năng làm phép lạ của
Người. Người chỉ thực hiện một số phép lạ chữa bệnh có ý nghĩa liên hệ
đến Nước Trời và quyền bính của riêng Người.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Galilê, địa bàn hoạt
động của Đức Giêsu (12-16)
Đức Giêsu đã đến sông
Giođan để được Gioan ban phép rửa cho; Người đã dừng lại ở phía nam Thánh Địa
(x. 3,13–4,11). Thế rồi tại sao Người lại trở về để hoạt động tại miền Galilê,
là miền không được coi là quê hương của Đấng Mêsia (x. Ga 7,41.42.52)? Tại sao
Người không ở lại miền Giuđê và Giêrusalem, là trung tâm của dân Thiên Chúa? Mt
cho biết là Đức Giêsu rút lui (lánh đi), Người cảm thấy bị đe dọa và
nhường bước cho áp lực của những hoàn cảnh bên ngoài. Sự đe dọa đã khiến cha
nuôi Người phải đổi chỗ ở vào đầu đời Người (2,13.14.22) và sẽ còn bó buộc
Người liên tục rút lui cả trong thời gian hoạt động công khai (12,15; 14,13).
Với các môn đệ sau này, Người dạy họ trốn sang thành khác, khi bị bách hại
(10,23). Cũng như Người, họ phải bố trí đời sống dựa theo những hoàn cảnh bên
ngoài. Nơi số phận của Gioan, đã bị vua Hêrôđê cho bắt và sẽ cho giết chết theo
ngẫu hứng (x. 14,3-12), kết cục cuộc đời Đức Giêsu đã được loan báo: Người cũng
sẽ bị giao nộp vào tay loài người (17,22), cho sự gian tà và độc ác của họ. Như
thế, ngay trên bước khởi đầu hoạt động của Đức Giêsu, bóng tối của kết cục bi
thảm đã được trương ra. Hoạt động của Người được triển khai dưới dầu chỉ là
cuộc Khổ Nạn của Người. Tuy nhiên, tất cả những điểm này đều thuộc về chương
trình của Thiên Chúa: chính Thiên Chúa đã để cho Gioan và sẽ để cho Đức Giêsu
“bị nộp”; sự kiện Gioan bị nộp là như tín hiệu Thiên Chúa dùng để báo cho Đức
Giêsu biết đã đến lúc Người hoạt động.
Cũng như Người đã đến
cư ngụ tại Nadarét (2,22t), nay Đức Giêsu đến hoạt động tại Galilê và
Caphácnaum, do bị bó buộc bởi các biến cố bên ngoài. Trong cả hai trường hợp, tác giả ghi nhận là như
thế, ý muốn của Thiên Chúa do các ngôn sứ loan báo được thể hiện. Cho dù nhiều
lần phải điều chỉ do các bó buộc bên ngoài, hành trình của Đức Giêsu vẫn hoàn
toàn ở dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Người đi về vùng ngoại biên
* Đối tượng chính của lời Đức Giêsu rao giảng
(17)
Các lời “Anh em hãy hối
cải, vì Nước Trời đã đến gần” tóm tắt toàn thể sứ điệp của Đức Giêsu. Tiếng gọi
đi trước, nhưng hoàn toàn lệ thuộc lời loan báo, vì dựa trên lời này (“vì”).
Thuật ngữ “Nước Trời” chỉ có trong Mt, tương ứng với “Nước Thiên Chúa”
trong phần còn lại của Tân Ước. Theo cách dùng của người Do-thái, họ tránh từ
“Thiên Chúa” và thay thế bằng “trời” (x. 21,25; Lc 15,18). “Nước Trời” chính là
triều đại hoặc quyền chủ tể của Thiên Chúa như là vua. Tất cả hoạt động của Đức
Giêsu quy chiếu về Triều Đại. Triều Đại không có nghĩa là một điều gì
khác và tách biệt với Thiên Chúa, nhưng là chính Thiên Chúa trong tư cách Chúa
Tể và Vua của dân Người, cùng với các hậu quả của quyền chủ tể trên dân. Dân
thì luôn luôn thuộc về nhà vua; quyền chủ tể vương giả có nghĩa là dấn thân với
lòng tốt và sự quan tâm mà lo lắng cho đời sống của dân, như một mục tử
lo lắng cho đời sống của đàn chiên (x. Tv 23,1).
Triều Đại này đã đến gần, chứ chưa hoàn toàn
hiện diện. Đức Giêsu sẽ dạy họ cầu nguyện “xin triều đại Cha ngự đến” (6,10).
Tuy nhiên, Triều Đại này đã đến gần vĩnh viễn. Thiên Chúa đã quyết định giương
cao Vương quyền này trước mặt tất cả các thế lực khác và thực hiện Vương quyền
này cách công khai và hết sức hữu hiệu. Không còn có thể quay lui, mà chỉ có
thể bước tới cho đến khi Triều Đại này được tỏ hiện trọn vẹn. Thiên Chúa sẽ
không trì hoãn và cứ ẩn mình mãi. Người sẽ không bỏ rơi loài người cho các thế
lực của thiên nhiên và lịch sử, cũng như cho hoàn cảnh trong đó họ phải quy
phục lẫn nhau. Người sẽ chấm dứt tất cả các thế lực này và chính Người sẽ trực
tiếp là Vua và Chúa. Đức Giêsu sẽ làm sáng tỏ bản chất của Triều Đại này đặc
biệt trong sứ điệp của Người về Thiên Chúa như là Cha và trong hoạt động bác ái
của Người để chữa lành và giúp đỡ.
Trước lời công bố là
lời mời gọi: “Hãy hối cải!”. Đức Giêsu mời các thính giả quay về với Thiên
Chúa. Họ phải quay mặt về Người, chăm chú lắng nghe, với lòng tin tưởng và hy
vọng. Con người chỉ có thể hoán cải nếu Thiên Chúa quay về cách nhưng-không với
con người. Tuy nhiên, lời kêu gọi hoán cải được đặt ở đầu, bởi vì lời đáp của
chúng ta với Thiên Chúa là điều tuyệt đối cần thiết, và có thể thất bại nếu
không được nói ra. Hành động của Thiên Chúa thì đã chắc chắn; vì thế, Đức Giêsu
đã nhấn mạnh nhiều trên sự cần thiết phải hoán cải.
* Những người đầu tiên được nhận lời rao giảng
(18-22)
Một trong những điều
kiện căn bản đề Đức Giêsu có thể hoạt động là Người có quanh mình một số
người để họ đi đường với Người thường xuyên, thiết lập với Người một sự
hiệp thông đời sống và có thể trải nghiệm trọn vẹn hoạt động của Người. Đức
Giêsu không hoạt động tùy hứng hay theo ngẫu nhiên, cũng không bắt hoạt động
của Người lệ thuộc những cuộc gặp gỡ tình cờ và chóng qua. Người có một cộng
đoàn môn đệ bao quanh. Lời kêu gọi “Hãy hối cải!” được nhắc lại và được làm
sáng tỏ bởi tiếng gọi “Hãy đi theo tôi!”. Đức Giêsu đã gọi bốn môn đệ đầu tiên
là Simôn và Anrê, Giacôbê và Gioan đi theo Người. Ta sống sự hoán cải
trong khi đi theo Đức Giêsu. Ai theo
Người thì tin tưởng vào Người, bởi vì Người biết kết cuộc và biết con đường phải
theo. Ai đi theo Người thì gắn bó với Người và chấp nhận được Người hướng dẫn.
Khi đi theo Người, các môn đệ được đưa vào trong sứ điệp về Nước Trời và vào
trong việc hoán cải như là câu trả lời đúng đắn với sứ điệp này.
Những ai đi theo Đức
Giêsu thì phải ra khỏi hoàn cảnh sống trước đó và gắn bó với Người. Tuy nhiên,
dây liên kết này không tách họ khỏi những người khác, trái lại phải chuẩn bị họ
cho một nhiệm vụ mới nơi loài người. Đức Giêsu gọi đi theo Người, đồng
thời cho biết ý định của Người: “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người
như lưới cá”(4,19). Xuyên qua cuộc cộng đồng sinh tử với Người, Đức Giêsu chuẩn
bị họ tiếp nối sứ mạng của Người, trong tư cách là những sứ giả của Người (x.
9,36–10,42; 28,16-20).
* Các hình thái chính của hoạt động của Đức
Giêsu (23)
Hoạt động của Đức Giêsu
được triển khai khắp miền Galilê và được thực hiện qua giáo huấn, lời giảng và
các phép lạ chữa bệnh (4,23). Lời dạy về sự hoán cải đúng đắn, lời loan báo và
giải thích Tin Mừng về Nước Trời, và sự xác nhận các điều đó nhờ các cuộc chữa
bệnh là những điểm chìa khóa của hoạt động của Đức Giêsu.
+ Kết luận
Là vị Tiền Hô của Đấng
Mêsia, Gioan đã dừng chân tại hoang địa và ở tại sông Giođan mà làm phép rửa
cho những ai đến với ông. Còn Đức Giêsu, Đấng Mêsia, đã sống đời “du thuyết”;
Người rảo khắp miền Galilê mà công bố rằng Nước Trời đang đến. Ngay từ đầu,
Người đã tỏ ra là vị Mục Tử tốt lành đi tìm “các chiên lạc của nhà
5.- Gợi ý suy niệm
1. Vào ngày hôm nay,
Đức Giêsu vẫn còn công bố sứ điệp về Nước Trời giữa lòng cộng đoàn cử hành
Phụng vụ. Lời Người vẫn cấp bách như thuở nào: “Hãy hối cải, vì Nước Trời đã
gần đến”. Thiên Chúa vẫn đang tìm cách hiển trị trong đời sống chúng ta một cách
rõ nét hơn; Người có thể áp đảo chúng ta, nhưng Người không muốn, vì Người tôn
trọng tự do của chúng ta. Do đó, chúng ta được mời gọi xét lại tâm hồn mình, bỏ
đi những trở ngại khiến trái tim chúng ta không mở rộng ra được với các viễn
tượng phổ quát của Thiên Chúa. Nếu chúng ta không loại bỏ được những trở ngại
đó, là chúng ta như đang bị bệnh tật. Khi đó, chúng ta có thể xin với Đức Giêsu và Người sẽ chữa chúng ta lành.
2. Các hoàn cảnh bên
ngoài không phải chỉ là những bó buộc, nhưng thường cũng là những chỉ dẫn Thiên
Chúa ban để chúng ta đi đúng đường lối của Người. Đức Giêsu đã chứng tỏ như
thế. Các thánh cũng đã hiểu như thế, qua các cuộc mò mẫm tìm kiếm ý Chúa. Hôm
nay, chúng ta được mời gọi lưu ý đến các hình thái này mà Thiên Chúa đang dùng
để hướng dẫn chúng ta.
3. “Hãy hối cải!”. Loài
người không được quay lưng lại với Thiên Chúa, rời xa Người và tìm hạnh phúc và
ơn cứu độ ở chỗ khác. Hành động Thiên Chúa đến với loài người đòi buộc họ đáp
trả bằng cách di chuyển về phía Thiên Chúa. Họ không thể được Người đến gặp và
nhận được các phúc lành của Triều Đại Người, nếu họ quay về với những người
khác. Ngay từ đầu, lời rao giảng của Đức Giêsu đã nêu bật hai đề tài chính này:
Người nói rõ là chúng ta có thể chờ đợi gì nơi Nước Thiên Chúa và đồng thời,
Người trình bày cho thấy đâu là các hình thái của sự hối cải chân thật. Cả hai
yếu tố này được trình bày rõ ràng trong các Mối Phúc (5,3-12).
4. Đức Giêsu xuất hiện
là đưa lại ánh sáng và niềm vui. Hôm nay, chúng ta có nhận ra Người vẫn đang
hiện diện trong thế giới, giữa lòng cuộc sống chúng ta, để chúng ta tiếp tục
đón nhận được niềm vui và ánh sáng? Đàng khác,
chúng ta đã được chọn để nối tiếp sứ mạng của Người. Chúng ta đang chu
toàn sứ mạng đó thế nào? Đức Kitô vẫn
đang đến gặp chúng ta ngay giữa những sinh hoạt, những niềm vui và những nỗi
phiền sầu của chúng ta, để mời gọi chúng ta đi theo Người. Có lẽ Người không
lôi kéo chúng ta theo Người về mặt thể lý cho bằng về mặt thiêng liêng: chúng
ta được thúc bách rời bỏ chính mình, bỏ tính ích kỷ, bỏ đi sự cứng cỏi, để sống
với Người mỗi ngày trong sự từ bỏ và trong tình yêu.
5. “Hãy theo tôi”.
Tiếng gọi của Đức Giêsu nhằm mời gọi các môn đệ đầu tiên cũng là một lời
mời hoán cải liên tục. Chúng ta được mời gọi lấy một quyết định cương
quyết đầu tiên, đôi khi là một đoạn tuyệt đau đớn nào đó, rồi ngày qua
ngày, kiên trì bước theo giáo huấn của Người, chúng ta sẽ thực hiện những bước
hối cải mới để càng trở nên môn đệ hơn.
Lm FX Vũ
Phan Long, ofm