(Luca 2,22-40 – Lễ 2-2)
1.- Ngữ cảnh
Chương 1–2 của Tin Mừng Luca có ý tưởng chủ đạo
là sự hoàn tất lời Thiên Chúa hứa ban Đấng Mêsia. Các truyện kết cấu nhịp
nhàng và đạt tới đỉnh điểm khi Đức Giêsu được dâng trong Đền Thờ. Trong biến cố
này, tác giả đã nhìn thấy Đức Giêsu tỏ mình công khai. Ngài diễn tả được điều
đó khi dùng Đanien 9–10 trong các lời
loan báo cho Đức Maria và Dacaria, cũng như khi dùng Malakhi 3 trong lời loan báo cho Dacaria, trong bài ca “Chúc tụng”
(Benedictus) và trong truyện Dâng con trong Đền Thờ. Được quy tụ lại
quanh khái niệm “sự hoàn tất các ngày” (= đã mãn: 1,23.57; 2,6.21-22), các bản
văn thiên sai này nêu bật ý tưởng là thời thiên sai đã đến. Vậy các chương này
thuộc lịch sử tôn giáo được viết theo ngôn ngữ Kinh thánh.
Lc 1,5–2,22 là một chuỗi các thời điểm. Tác giả đã muốn nối kết
biến cố sứ thần Gabriel hiện ra ở Đền Thờ với việc Đức Giêsu tỏ mình ra cũng
tại đấy bằng một con số huyền bí (70 tuần 7 ngày):
- 6 tháng (Lc 1,26.36) kể từ khi Dacaria được báo tin tới khi Đức Maria
được báo tin:
30
ngày x 6 = 180 ngày
- 9 tháng kể từ khi Đức Maria được truyền tin đến
khi Đức Giêsu chào đời:
30
ngày x 9 = 270 ngày
- 40 ngày kể từ khi Đức Giêsu chào đời cho đến khi được tiến dâng: = 40 ngày
Tổng
cộng: = 490 ngày
= 70 tuần 7 ngày.
Thế mà theo lời sấm Đn 9,21-24,
sau 70 tuần, Israel sẽ được thanh tẩy khỏi các tội và Đền Thờ Giêrusalem sẽ
được tái cung hiến (thời vua Antiôkhô IV Êpiphanê / Giuđa Macabê). Tác giả Lc muốn cho thấy rằng việc Đức Giêsu
được tiến dâng trong Đền Thờ đã khởi sự việc “Vinh quang” của Thiên Chúa (x. cụ
Simêôn gọi Đức Giêsu là “vinh quang của Israel”) đến cư ngụ vào thời cánh chung
để thanh tẩy Đền Thờ và Israel. Việc này cũng làm ứng nghiệm lời ngôn sứ Ml (3,1).
2.- Bố cục
Nên đọc bản văn này từ câu
21, để duy trì được sự song đối giữa Gioan và Đức Giêsu. Do đó, chúng tôi xác
định bố cục có cả c. 21. Đoạn này gồm hai phần chính và một kết luận:
1) Hai khúc dạo đầu
(2,21-24):
- cắt bì và đặt tên (c. 21),
- thanh tẩy Đức Maria và dâng Đức Giêsu (cc. 22-24).
2) Hai cuộc tỏ mình
(2,25-38):
- tỏ mình cho cụ Simêôn
(cc. 25-35),
- tỏ mình cho bà Anna
(cc. 36-38).
3) Kết: Nhắc lại điệp khúc
của bài tường thuật về Thời thơ ấu (2,39-40).
3.- Vài ghi chú về chú giải
- Khi đã đến ngày lễ thanh tẩy của các ngài (22):
“Các ngài” là Đức Maria và Giuse? hay là Đức Maria và Đức Giêsu? Luật không buộc
thanh tẩy người chồng hoặc đứa con trai sơ sinh. Tuy vậy, “các ngài” phải được
hiểu là quy về Giuse và Đức Maria, bởi vì các ngài là chủ từ của động từ “đem
[con] lên”. Các nhà chú giải nhìn nhận rằng tác giả Lc, vì không phải là một Kitô hữu gốc Do Thái Paléttina, nên đã không
được hiểu biết chính xác về tập tục thanh tẩy một phụ nữ sau khi sinh con. Và
đây cũng là một dấu cho thấy rằng thông tin ngài có được không phát xuất từ
những kỷ niệm hay ghi nhớ của Đức Maria.
- theo Luật Môsê(22): Theo Lêvi 12,2-8, một phụ nữ sinh một con trai
bị coi là ô uế trong vòng 40 ngày: sau 7 ngày, đứa bé phải được cắt bì (vào
ngày thứ tám), và người mẹ còn phải chờ ở nhà 33 ngày nữa, “cho đến khi mãn
thời gian thanh tẩy của bà” (Lv 12,4),
trước khi bà được đụng chạm vào bất cứ vật thánh nào hoặc đi vào các sân Đền
Thờ. Sau ngày thứ bốn mươi (hoặc thứ tám mươi), bà phải đem đến cho vị tư tế
phục dịch tuần ấy tại Lều Hội Ngộ hay Đền Thờ một con chiên một tuổi làm lễ
toàn thiêu và một bồ câu non hay một chim gáy làm lễ tạ tội. Nếu không thể dâng con chiên, bà phải dâng hai chim gáy
hoặc hai bồ câu non.
- để tiến dâng cho Chúa (22): Chi tiết này mô phỏng
truyện bà Anna dâng Samuen ở 1 Sm 1,22-24.
Tuy vậy, đến câu sau, tác giả Lc nối kết
việc dâng Đức Giêsu với luật về đứa con đầu lòng. Đức Giêsu được gọi là “con
trai đầu lòng” ở 2,7, và việc chuộc lại Người là nhiệm vụ của cha mẹ Người.
Trong Xh 13,1-2, chúng ta đọc: “Đức
Chúa phán với ông Môsê: ‘Hãy thánh hiến cho Ta mọi con so, mọi con đầu lòng
trong số con cái Israel, dù là người hay là thú vật: nó thuộc về Ta”. Sự thánh
hiến này sẽ bảo đảm phúc lành cho những đứa con đến sau. Đứa con đầu lòng được
chuộc lại bằng cách trả năm sê-ken (= mười lăm chỉ bạc), tính theo đơn vị đo
lường của thánh điện (Ds 3,47-48; 18,15-16),
nộp cho một thành viên của gia đình tư tế, khi đứa bé đã được một tháng. Tác
giả Lc không nhắc gì đến việc trả số
bạc; thay vào đó, ngài diễn tả việc chuộc con như là việc dâng con vào Đền Thờ
Giêrusalem, một tập tục không có chỗ nào trong Cựu Ước hoặc sách Mishnah
nói cả.
- để dâng của lễ theo Luật Chúa truyền (24): Hy lễ không phải
là cho việc chuộc con đầu lòng, nhưng là cho việc thanh tẩy bà mẹ.
- công chính và sùng đạo (25): Các chi tiết mô tả cụ Simêôn đã
đặt ông cùng với Dacaria và Êlisabét, Giuse và Đức Maria, và bà Anna, vào số những
đại diện của những người Do Thái trung thành đang sống tại Paléttina vào thời
gian sát ngay trước khi Đức Giêsu chào đời.
- niềm an ủi của Ít-ra-en (25): Ta hiểu đây là niềm hy vọng hậu
Lưu đày: dân trông chờ Thiên Chúa khôi phục lại chế độ thần quyền tại
- ra đi (29): Ông Simêôn dùng ngôn ngữ của người canh đêm, sau
khi đã hoàn tất công việc, xin được nghỉ ngơi.
- một lưỡi gươm sẽ đâm thâu tâm hồn bà (35): Có những tác giả
cho rằng “thanh gươm” đây là nỗi ngờ vực về chân tính sâu xa của Con mà Đức Maria
sẽ cảm nghiệm khi nhìn Đức Giêsu bị đóng đinh (chẳng hạn Origiênê, Reuss, Bleek…).
Cách giải thích này không tương ứng với TM
Lc, và có vẻ là một cách giải thích theo tâm lý không có cơ sở. Cách
giải thích truyền thống (kể từ Paulin de Nole và thánh Âutinh) đã coi “thanh
gươm” này là nỗi đau đớn đồng cảm Đức Maria cảm nhận khi chứng kiến Con mình bị
đóng đinh. Tuy nhiên, cách giải thích này cũng không phù hợp với TM Lc, bởi vì Đức Maria chỉ xuất hiện
dưới chân thập giá trong TM Ga
mà thôi (Ga 19,25-27) và cũng chỉ
trong Ga, cạnh sườn của Đức Giêsu mới bị một ngọn giáo đâm thâu (Ga 19,34). TM Lc không bao giờ nói rằng Đức Maria ở trong số các phụ nữ
đã đi theo Người từ Galilê (Lc 23,49.55;
24,10). Cách giải thích này lại cắt ngang chuyển động của bản văn và dường như
đưa vào đó một ngoặc đơn (x. bản dịch Bible
de Jérusalem, CGKPV) hơi lạ. Cách
giải thích này cũng giới hạn quá đáng vào cá nhân Đức Maria, điều này dường như
trái với cái nhìn của tác giả Lc: đối với ngài cũng như đối với tất
cả các tác giả Tân Ước, tâm lý của các nhân vật không đáng kể bằng vai trò của
họ trong Lịch sử cứu độ (ta thấy điều này trong các bản văn về Thời thơ ấu: Đức
Maria chỉ luôn đóng một vai trò lệ thuộc vào vai trò của Đức Giêsu). Đã thế,
lối giải thích này lại chỉ ưu tiên chú ý đến Núi Sọ. Cần phải tìm ý nghĩa của
lời này của ông Simêôn trong nhãn quan của tác giả Lc về Đức Maria.
(1) Ở trong Cựu Ước, hình ảnh “thanh gươm” là biểu tượng
của sự “chia rẽ” và “mâu thuẫn" (x. Ed
12; 14;...). Ở Is 49,2, Thiên Chúa đã
làm cho miệng lưỡi Người Tôi Trung nên như một “lưỡi gươm sắc bén”. Sách Khải
huyền đã lấy lại hình ảnh này và áp dụng cho Đức Kitô (1,16; 2,12.16;
19,15.21). Khi ta thấy rằng viên Kỵ sĩ trong Kh được gọi là “Lời của
Thiên Chúa” và “từ miệng Người phóng ra một thanh gươm sắc bén” (Kh 19,13.15), đàng khác, ta lại nhận thấy
rằng Is 49,2 chỉ đi trước Is 49,6 một chút, trong đó Người Tôi Trung
được gọi là “ánh sáng muôn dân”, tức khắc ta nghĩ rằng hai câu này hiện diện
trong tâm trí tác giả Lc khi ngài
viết cc. 32.35a, và thanh gươm phân rẽ giữa lòng Israel chính là Lời mạc
khải của Thiên Chúa là chính Đức Giêsu, Lời mang lại ơn cứu độ, nhưng cũng
là Lời sẽ phán xét (x. Dt 4,12). Thế
mà dọc theo hai chương đầu, ta thấy tác giả Lc
giới thiệu Đức Maria như là Thiếu nữ Sion, nghĩa là
Cách giải thích này (được
gợi ý bởi Sahlin, Black, Laurentin, Boismard, Benoýt…) có điểm thuận lợi là làm
cho c. 35a ăn khớp hài hòa với ngữ cảnh. Thay vì đưa vào đó một ngoặc đơn, chi
câu này trở thành một mắt xích của một phần triển khai, trong đó tư tưởng trước
được nối tiếp và tư tưởng sau được chuẩn bị. Các câu 34 và 35a mô tả cuộc khủng
hoảng gây ra nơi Israel bởi “dấu hiệu gây chống báng” được ngôn sứ Êdêkien coi như một thanh gươm của Thiên
Chúa đâm thâu tâm hồn dân Chúa; còn c. 35b là kết luận: sự thử thách gây ra bởi
việc Đức Giêsu đến, do việc đòi hỏi phải chọn lựa theo hay chống Người, sẽ đưa
tới chỗ thâm tâm của người ta phải lộ ra.
Hiểu như thế, cc. 34-35 hoàn toàn di theo và minh
họa cc. 30-32. Lời sấm của ông Simêôn được phân phối thành hai cánh của một bức
tranh bộ đôi: một cánh thì cho thấy Dân Ngoại được ánh sáng soi đường và muôn
dân được cứu độ, và đây phải là vinh quang cho Israel; cánh kia cho thấy khủng
hoảng của chính Israel này, khiến nhiều con cái của Dân Chúa chọn phải vấp ngã.
Vậy đây chính là toàn thể tấn bi kịch của Lịch sử cứu độ được ông Simêôn trình
bày cô đọng, và sẽ được tác giả Luca tiếp
tục trình bày trong Tin Mừng cũng như
trong Công vụ.
(2) Có một cách giải thích
khác cũng có thể chấp nhận như một tầng ý nghĩa khác của câu này, và như một
cách chứng minh kiểu tiêu cực cho cách trên đây. Trong Ed 14,17 (Hy Lạp), có nối kết “thanh gươm” với “đâm thâu (= xuyên qua)”.
Theo hình ảnh này, thanh gươm phân biệt ra (chọn ra) một số người để bị tiêu
diệt và một số người để được cứu độ (x. Ed
5,1-2; 6,8-9). Trong ngữ cảnh của Lc, hình ảnh này phát xuất từ ý tưởng
nói rằng vai trò của Đức Giêsu là làm duyên cớ cho nhiều người
4.- Ý nghĩa bản văn
* Hai khúc dạo đầu
(21-24)
Cũng như việc cắt bì và đặt tên cho Gioan là cơ hội để con trẻ
tỏ mình ra và để Dacaria nói lên một lời sấm, ở đây cũng vậy, việc cắt bì và
đạt tên cho Đức Giêsu là cơ hội để Người tỏ mình ra. Cũng như Gioan, Đức Giêsu
được ghi dấu ấn là dấu chỉ của giao ước (St
17,11) và tháp nhập vào
Trong cc. 22-24, có hai biến cố được kể lại nhân dịp Đức Giêsu
tỏ mình ra: (a) việc thanh tẩy Đức Maria, 40 ngày sau khi sinh Đức Giêsu (cc.
22a.24); và (b) việc chuộc lại Đức Giêsu, một tháng sau khi sinh (cc. 22b.23).
Dường như Luca đã mô phỏng truyện
dâng Samuel (1 Sm 1,22-24) mà tả cảnh
này. Bản văn nhấn mạnh trên sự trung thành của Đức Maria và ông Giuse, như là
những người Do Thái đạo đức, khi thi hành những điều buộc của Luật Môsê. Trong
các câu này, Luật được nhắc đến 3 lần (cc. 22a.23a.24a) và trong truyện
tỏ mình ra cho ông Simêôn (c. 27) và trong phần kết (c. 39). Hình thái cứu độ
mới của Thiên Chúa đến với việc vâng phục Luật này.
* Hai cuộc tỏ mình (25-38)
Hình
ảnh ông Simêôn gợi nhớ đến tư tế Êli trong 1
Sm 1–2 cũng như Dacaria trong truyện Gioan Tẩy Giả. Cũng như Dacaria đã tiên
báo sự cao cả của Gioan Tẩy Giả trong bài ca “Chúc tụng”, nay sự cao cả của Đức
Giêsu được ông Simêôn ca tụng. Do có sự song đối như thế, đến đây ông Simêôn
nói hai lời tuyên bố, một là bài thánh ca ở cc. 29-32 và một là lời sấm ở cc.
34-35. Bài thánh ca công bố hình thái cứu độ mới của Thiên Chúa. Lời sấm được
ngỏ với Đức Maria để nói về sứ mạng của Đức Giêsu và thân phận của Mẹ.
Tác
giả luôn luôn viết một truyện về phái nam đi song song với một truyện về phái nữ,
ở đây cũng vậy: bà Anna song đối với ông Simêôn. Sự cao cả của Gioan được Dacaria
công bố trong bài ca của ông; nhưng sự cao cả của Đức Giêsu lại không chỉ được
ông Simêôn công bố mà được cả bà Anna giới thiệu nữa. Tuy nhiên, bà Anna
không nói một tuyên bố nào; vai trò của
bà là phổ biến tin mừng về hài nhi mà ông Simêôn đã nhận biết.
* Nhắc lại điệp khúc của bài tường thuật về Thời
thơ ấu (39-40)
Hai câu kết làm vọng lại
điệp khúc đã có trong bài tường thuật về Thời thơ ấu (1,80; 2,52). Câu này nhắc
lại từng chữ bản mô tả Gioan (1,80).
Toàn c. 40 gợi lại truyện Samuen, nhất là
1 Sm 2,21c.26.
+ Kết luận
Câu
truyện này là một lễ mừng các cuộc gặp gỡ trong niềm vui. Truyện được kể cho chúng
ta ở đây cho thấy nhiều tương quan khác nhau. Chúng ta thấy Đức Giêsu trong dây
liên hệ có một không hai với Thiên Chúa. Chúng ta cũng thấy cuộc gặp gỡ
giữa Đức Giêsu và ông Simêôn, Đức Maria và bà Anna. Gặp gỡ Đức Giêsu đưa lại
niềm vui vô biên, nhưng cũng tạo nên một quan hệ buộc người ta phải rảo
qua trọn con đường với Người và phải luôn luôn ở gần kề với Người.
5.- Bài học
1. Hôm nay, trong bản thân hài nhi Giêsu, chính
Thiên Chúa trở lại với thánh điện của Ngài lâu nay bị bỏ hoang. Cho dù tọi lỗi của
2. Chúa Thánh Thần luôn luôn có mặt và làm việc.
Chúng ta cũng có thể sống thường xuyên dưới tác động của Người nếu chúng ta ở
trong ơn nghĩa với Thiên Chúa và chăm chú đi theo những gợi ý của Người trong
lòng. Khi đó, Chúa Thánh Thần có thể trở thành một nguồn ánh sáng giúp chúng ta
hiểu niềm tin của chúng ta rõ hơn cũng như hiểu bổn phận của chúng ta chính xác
hơn, một nguồn sức mạnh thiêng liêng giúp chúng ta can đảm sống đời môn đệ của
Đức Kitô, một nguồn gợi hứng trong khi chúng ta cầu nguyện cũng như sống nếp
sống hằng ngày.
3. Ông Simêôn và bà Anna là gương mẫu cho chúng
ta về cách sống hy vọng và trung thành. Sự trung thành của họ đã được ban thưởng.
Mỗi khi chúng ta rước lễ, chúng ta cũng được nhận ân huệ ấy. Do đó, cần chuẩn
bị với thái độ chờ đợi trung thành và nhận Thánh Thể với những tâm tình biết ơn.
4. Tất cả cuộc sống của Đức Maria và ông Giuse tập
trung vào Đức Giêsu, trong khi Người lớn lên bình thường như mọi trẻ em khác.
Nhưng “ơn nghĩa của Thiên Chúa vẫn ở trên Đức Giêsu” (c. 40) đã tạo nên trong
gia đình này một bầu khí hiệp nhất, êm đềm, yêu thương. Bí quyết của hạnh phúc
đơn giản và siêu nhiên ấy, chính là sự hiện diện phong phú của Đức Giêsu. Đây
là điển hình hoàn hảo cho mọi gia đình Kitô hữu. Nếu Đức Kitô thật là trung tâm
của gia đình, thì mặc dù có những thử thách của cuộc đời, chúng ta vẫn sẽ cảm
nhận được hạnh phúc lớn lao là được yêu thương người khác và được người khác
yêu thương, dưới cái nhìn của Thiên Chúa.
5. Nơi Đức Giêsu, Thiên Chúa đã đi vào Đền Thờ của
Người. “Đó mãi mãi là cách Thiên Chúa đến viếng thăm…: sự thinh lặng, sự bất
ngờ dưới mắt thế gian, mặc dù có những lời tiên báo mà mọi người đều biết … Không
thể khác được. Các lưu ý của Thiên Chúa thì rõ ràng, nhưng thế giới vẫn tiếp
tục dòng lưu chuyển của nó; khi đã dấn thân vào các hoạt động của họ, loài người
không biết biện phân ra ý nghĩa của lịch sử. Họ coi các biến cố lớn là những sự
kiện không quan trọng và do lường giá trị các thực tại theo một tầm nhìn
hoàn toàn loài người… Thế giới vẫn mù lòa, nhưng sự Quan phòng ẩn tàng của Thiên
Chúa thì tự thể hiện ngày qua ngày” (Hông Y John Henry Newman, 1801-1890).
6. Chân phước Guerric d’Igny, Viện phụ Xi-tô
(khoảng 1080-1157), đã giảng: “« Anh em hãy cầm đèn cho
sẵn » (Lc 12,35). Qua dấu chỉ hữu hình này, chúng ta hãy cho thấy niềm vui
chúng ta đang chia sẻ với cụ Simêôn, cụ đang bồng ánh sáng thế gian trong
tay... Chúng ta hãy cháy sáng bằng lòng sốt mến và tỏa rạng bằng các việc đạo
đức, và cùng với cụ Simêôn, chúng ta sẽ được bồng Đức Kitô trong tay... Ngày
hôm nay, Hội Thánh có thói quen rất đẹp là bảo chúng ta mang theo các cây
nến... Vậy hôm nay có người nào đang cầm cây đuốc cháy mà lại không nhớ đến cụ
già phúc đức? Ngày hôm ấy, cụ đã bồng Đức Giêsu, Ngôi Lời hiện diện trong xác
phàm, giống như ánh sáng trong nến sáp, mà làm chứng rằng Người chính là « ánh
sáng soi đường cho dân ngoại ». Quả thật, cụ Simêôn cũng là « một ngọn đèn cháy
sáng », mà làm chứng cho ánh sáng (Ga 5,35; 1,7). Chính vì thế mà cụ được chan
hòa Thánh Thần, đã đến Đền Thờ, để mà « giữa nơi Đền Thánh, hồi tưởng lại tình
Chúa yêu thương » (Tv 47,10) và để công bố rằng đây là lòng thương xót và ánh
sáng ban cho dân Ngài”.
Lm FX Vũ
Phan Long, ofm