DỤ
NGÔN NGƯỜI GIEO GIỐNG
(Mátthêu 13,1-23 – CN
XV TN - A)
1.- Ngữ cảnh
Sau khi giới thiệu Đức Giêsu là Đấng có quyền giải thích
Luật (ch. 5–7), rồi minh họa quyền đó bằng một vài truyện về phép lạ (ch. 8–9),
tác giả Mátthêu đã cho thấy Đức Giêsu sai phái và ban “bài sai” cho các
sứ giả của Nước Thiên Chúa (ch. 10). Nhưng chẳng mấy chốc vương quyền này đã bị
đặt thành vấn đề, hoặc bởi chính Gioan Tẩy Giả, hoặc bởi các thành miền Galilê
(ch. 11). Từ khước Đức Giêsu là Đấng thiết lập Triều Đại của Thiên Chúa, đây là
đề tài của ch. 12: đề tài này đi tới đỉnh cao khi những người Pharisêu tố giác
là Đức Giêsu bị quỷ ám (x. 12,22-24) và Đức Giêsu tuyên bố về Gia đình thật của
Người (x. 12,46-50): Đức Giêsu đoạn tuyệt với môi trường tinh thần của Người.
Trên nền tảng của bài tường thuật nói về sự đoạn tuyệt bi đát này với Do Thái
giáo, ch. 13 đề cập tới “mầu nhiệm” Nước Thiên Chúa, giải thích làm thế nào mà
Triều Đại Thiên Chúa lại vừa có thể được khai mạc trên mặt đất vừa bị loài
người phản đối hoặc không được biết đến. Nối tiếp các bài tường thuật về các
xung đột ở ch. 12, các dụ ngôn ở ch. 13 có hai ý nghĩa:
- đối với các môn đệ, các dụ ngôn này giải thích vì sao
Nước Thiên Chúa, đã được Đức Giêsu khai mào, lại chưa được biểu lộ ra trong
vinh quang, đặc biệt tại sao những bước đầu của Nước Thiên Chúa trong sứ
vụ của Đức Giêsu lại thiếu vẻ huy hoàng và oai phong đến thế;
- đối với những người ở ngoài (c. 11), sau cuộc đoạn
tuyệt được nói đến ở ch. 12, các dụ ngôn này trước tiên phải khẳng định rằng
những gì họ có thể thấy từ bên ngoài về Nước Thiên Chúa, là được ban cho họ để
xác nhận thái độ không tin của họ; và điều này thuộc về Mầu nhiệm, nghĩa
là thuộc về chương trình của Thiên Chúa đối với Vương quốc của Ngài.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Giới thiệu chương các dụ ngôn (13,1-3a);
2) Dụ ngôn Người gieo giống (13,3b-9);
3) Lý do khiến Đức
Giêsu nói bằng dụ ngôn (13,10-17: hai phần nhỏ a- cc. 11-12; b- cc. 13-17 theo
cấu trúc chuyển hoán);
4) Giải thích dụ ngôn Người gieo giống (13,18-23).
3.- Vài điểm chú giải
- dụ ngôn (3): Trong hy ngữ, có động
từ paraballô có nghĩa là “so sánh, đối chiếu”. Kể một dụ ngôn (parabolê,
hầu như tương đương với từ Híp-ri mâshâl), là kể một tình huống nhằm lưu
ý về một thực tại ít được chú ý hơn, nhưng tác giả muốn các thính giả
biết. Tác giả dụ ngôn không phải là một sử gia, nhưng là một nhà thần
học và một nhà luân lý; ông có thể sáng tác ra các hoạt cảnh tùy theo sứ
điệp hoặc bài học ông muốn truyền đạt. Một dụ ngôn không phải là một ẩn
dụ: trong một ẩn dụ, mọi chi tiết đều có ý nghĩa, còn trong một dụ
ngôn, người ta chỉ nhắm đến sứ điệp tổng quát (Tuy nhiên, dụ ngôn Người gieo
giống được giải thích ra lại có vẻ là một ẩn dụ). Trong dụ ngôn, cần đặc
biệt ghi nhận các nét “khác thường” thì mới hiểu được bài học căn bản.
- có những hạt rơi
xuống vệ đường (4): Hẳn là người nông phu có điên thì mới gieo hạt giống lên mặt
đường đã chai lì, hoăc lên vùng sỏi đá hay vào các bụi gai (x. cc. 5.7)! Tuy
nhiên, theo J. Jeremias, tập tục trồng lúa của Paléttina là gieo giống trước
khi cày xới đất cho hạt giống lọt xuống lớp đất sâu. Thật ra lối giải thích này
tuy hấp dẫn nhưng không phù hợp với những gì đã xảy ra thật sự trong bài dụ
ngôn. Vì vậy thay vì ra sức bảo vệ tính xác thực của dụ ngôn, ta nên lưu ý đến
khía cạnh “khác thường” của lối xử sự của người gieo giống.
- hạt được gấp trăm,
hạt được sáu chục, hạt được ba chục (8): Có những nhà chú giải như Jeremias cho
rằng dụ ngôn này là một bài khuyến khích cổ võ tin vào thành công cuối
cùng. Tuy nhiên, có một số khó khăn: (1) Một sử gia kinh tế (K.D. White)
cho biết rằng năng suất 1 gấp 100, thậm chí 1 gấp 400, không phải là lạ lùng,
chẳng hạn nếu trồng lúa trong vùng Giléad, gần Gađara. (2) Nếu Mt đã
muốn nêu bật mùa màng bội thu, hẳn là ngài đã dùng chuỗi số đi lên như Mc
(30, 60, 100) thay vì chuỗi số đi xuống (100, 60, 30), bởi vì như thế sẽ làm
yếu đi bài học về tính lạc quan. (3) Trong năm câu của bài dụ ngôn, có tới bốn
câu mô tả sự thất bại của vụ gieo (và trong phần giải thích, cũng có một tỷ
lệ như thế). (4) Nhấn mạnh đến các thất bại của người gieo giống dường
như lại phù hợp hơn nhiều với ngữ cảnh tổng quát của các chương này trong TM
Mt, vì các ch. 11–12 mô tả sức chống đối ngày một gia tăng để đáp
lại những hành vi quyền lực trong các ch. 8–9.
Vậy không nhất thiết phải loại bỏ lối giải thích “lạc quan”
(Jeremias), bởi vì quả thất Đấng Mêsia sẽ vẫn chiến thắng. Nhưng bởi vì những
người đương thời với Đức Giêsu vẫn đương nhiên liên kết Đấng Mêsia với sự thành
công, có lẽ Đức Giêsu không muốn nhấn mạnh đến phương diện này đâu. Điều làm
nên “mầu nhiệm Nước Trời”, mầu nhiệm mà chỉ một nhóm giới hạn “những kẻ
bé mọn” mới có thể hiểu được, đó là cuối cùng Đấng Mêsia chỉ có thể thành
công xuyên qua thất bại.
Tuy nhiên, viễn tượng của phần giải thích lại theo hướng của
cuộc phán xét: Lúc đầu, bài dụ ngôn nhắm nhiều hơn đến các loại đất khác nhau
và vụ thu hoạch cuối cùng, nhưng sang phần giải thích, Mt đã thay đổi Mc
mà đặt cho dụ ngôn nhan đề “Người gieo giống” (Mt 13,18). Thật ra người
gieo giống chỉ đóng một vai trò nhỏ bé trong truyện, vì bài đã trở thành dụ
ngôn về “Lời rao giảng Nước Trời”. Tuy nhiên, tác giả Mt làm như thế là
để sau này ngài có thể đồng hóa người gieo giống với Đức Kitô (x. 13,37). Bởi
vì đối với ngài, Đức Giêsu tháp tùng Hội Thánh qua dòng lịch sử (x. 28,18).
Người chính là Đấng đang hiện diện và tích cực hoạt động trong công việc gieo
rắc Lời (x. 13,37). Người tự đồng hóa với các thừa sai của Người (x. 10,40).
Chính Người xây dựng Hội Thánh (x. 16,18), tích cực hỗ trợ Hội Thánh trong việc
duy trì kỷ luật (x. 18,18-20). Và cuối cùng Người sẽ là vị Thẩm phán tách các
môn đệ trung thành khỏi những đồ đệ bất trung (x. 13,41-43). Quả thật, Mt
đã muốn đọc tất cả các dụ ngôn của ch. 13 này dưới ánh sáng của cuộc phán xét
cuối cùng. Vì thế, tác giả nhấn mạnh đến trách nhiệm cá nhân là phải sinh “hoa
quả”, tức là các hành vi tốt lành, và ngài đã đảo lộn thứ tự của Mc là
30-60-100 thành 100-60-30 cho phù hợp với các truyện của ngài về phán xét: bắt
đầu với việc ca ngợi những người thu hoạch nhiều hoa quả nhất, để đi đến chỗ
phê phán những người không sinh hoa quả (x. 25,14-30). Vậy một truyện về
sức mạnh của Lời Chúa đã trở thành truyện về phán xét.
- các mầu nhiệm Nước
Trời
(11): Công thức này được lấy từ nền văn chương khải huyền. Công thức nhắc lại
những bí mật tối hậu của Thiên Chúa, cụ thể là kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa
tập trung nơi các hoạt động cứu chữa của Đức Kitô.
- Hễ ai nghe lời … đó
là kẻ đã được gieo (19): Dụ ngôn “Người gieo giống” đã được chuyển thành dụ ngôn “Lời
rao giảng về Nước Trời”. Trọng tâm đã chuyển từ một giáo huấn về mầu
nhiệm Đấng Mêsia phải thất bại về mặt nhân loại sang việc lưu ý, khuyến khích,
là hãy sẵn lòng đón nhận sứ điệp Tin Mừng. Dù vậy, giữa hai bài dụ ngôn và phần
giải thích không có mâu thuẫn, mà chỉ có khác biệt về điểm nhấn mạnh thôi. Mt
đã sửa nhẹ khi viết lại Mc 4,14 để tránh sự đụng chạm trực tiếp giữa hạt
giống là lời (Mc 4,14) và hạt giống là người nghe (x. Mc
4,16.18.20), nhưng cũng không thành công bao nhiêu, vì ở Mt 13,19b,
“điều đã được gieo trong lòng” hẳn là lời, thì ở cc. 20tt, “điều (CGKPV: “kẻ”)
được gieo” là “kẻ nghe”. Ở c. 19, Mt lại xác định lời được gieo là “Lời
rao giảng về Nước Trời”.
Rõ ràng Mt nhấn mạnh rằng người môn đệ là người hiểu
lời: ở c. 19, ngài xác định rằng vấn đề với loại hạt giống/đất thứ nhất là thiếu
hiểu biết, và đến c. 23, ngài xác định rằng hạt giống tốt/đất tốt thì nghe
và hiểu. Đây là hành văn đóng khung (x. thêm 13,13.15.51). Và Mt
đã thay đổi chủ từ số phức của Mc (x. Mc 4,16tt) thành số đơn (x.
Mt 13,20tt) để nhấn mạnh trách nhiệm cá nhân. Câu 13,23 tóm bằng cách mô
tả dung mạo của hạt giống tốt/đất tốt với các cặp động từ bổ nghĩa cho nhau: nghe
và hiểu, sinh hoa kết quả và làm ra (so với Mc
4,20).
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Giới thiệu chương các
dụ ngôn (1-3a)
Toàn chương 13 của TM I có một cụm từ dẫn nhập ngắn
về thời gian, “hôm ấy” (en tê hêmera ekeinê) nhằm tạo một liên kết với
cảnh trước, nhưng lại đưa Đức Giêsu sang một cảnh mới. Những người nghe, là
“dân chúng”, lại được nhắc lại. Đức Giêsu ra khỏi “nhà” và đi đến bờ hồ (c. 1).
Đám đông lại kéo đến với Người (c. 2). Đây là lần duy nhất tác giả ghi nhận Đức
Giêsu “rời bỏ nhà”. Chi tiết lạ, bởi vì ngay khi Người chuyển từ Nadarét đến
Caphácnaum, tác giả cũng không hề lưu ý. Rất có thể chi tiết này đã có sẵn trong
nguồn Mt dùng và là một từ để mở vào một hành trình truyền
giáo. Nhưng cũng rất có thể là trong ý Mt, là tác giả quen loại bỏ các
chi tiết miêu tả, từ ngữ ấy có một ý nghĩa ngôn sứ và mục vụ. Sau bài Diễn từ
truyền giáo, từ này nhắc nhớ các đòi hỏi của nhiệm vụ truyền giáo. Tất cả những
ai đã được mời bước theo Đức Giêsu (4,18-22) và đã được sai phái đi nhân danh
Người, đều phải chấp nhận “bỏ nhà” (10,35-36; 19,21).
Nới chốn là “Biển Hồ” (Ghennêsarét): đây là nơi xảy ra việc
kêu gọi các môn đệ đầu tiên (4,18) và cũng là nơi mà nhóm các môn đệ có một
kinh nghiệm đầu về Đức Giêsu (8,24-27). Đức Giêsu lên một “chiếc
thuyền”, mà ta có thể coi là biểu tượng của Hội Thánh (x. 8,23), nhưng trong TM
Mt, con thuyền hàm ý một sự xa cách nào đó với các đám đông (x. 14,13;
15,39). Cũng như khi bắt đầu Bài Giảng trên núi, ở đây Người cũng “ngồi” (2
lần; x. 5,1; 7,29; 15,29; 23,2; 24,3); đây là dấu chứng tỏ tư cách của một vị
thầy. Đám đông thì “đứng”: đi theo ngữ cảnh của TM I, có lẽ ta không
nghĩ tới tư thế đứng trong một đền thờ hay một hội đường, mà là tư thế của gia
đình Đức Giêsu “đứng bên ngoài” (12,46-47). Chương 13 sẽ cho thấy làm thế nào
dân chúng chiếm chỗ của những người đứng bên ngoài.
Đức Giêsu bắt đầu nói với dân chúng. Tác giả Mt không
dùng từ “didaskeô, “dạy” của TM Mc, mà dùng động từ “nói” (laleô,
“to speak”), bởi vì ngài thường dùng động từ “dạy” cho việc giải nghĩa Lề
Luật và công bố cung cách sống luân lý,
thường ở trong hội đường (4,23; 5,2; 7,29; 9,35; 11,1; 13,54; 21,23; 26,55;
28,20). Bài diễn từ sẽ tập trung vào mầu nhiệm Nước Trời (c. 11), nhưng được
diễn tả bằng một ngôn ngữ tiêu biểu, bằng “dụ ngôn” (x. cc. 3.10.13).
Chi tiết này tương ứng với cc. 10,13,34 và 53.
* Dụ ngôn Người gieo
giống (3b-9)
Đọc bài dụ ngôn, ta ghi
nhận: Ta không thấy nói là đất mầu mỡ hay cằn cỗi, bùn lầy hay khô cứng, bằng
phẳng hay mấp mô. Ta cũng không biết là vụ gieo giống được thực hiện vào mùa
thu hay đầu mùa đông. Cũng khôn có một lời nào về khí hậu. Như vậy, chỉ những
điều được nói tới trong bài mới quan trọng thôi. Nhân vật chính là “người gieo
giống” (ho speirôn) mà ta có thể thêm vào tính từ “siêu đẳng”. Ông đi
vào sân khấu một mình; ông làm một công việc lâu giờ và mệt nhọc,
mà không hé một lời, hoặc để than trách hoặc để nói lên sự thỏa mãn. Ở
đây, chỉ có các sự kiện. Ta có thể gọi đây là một “hành động biểu tượng” được
minh họa bởi một nhà bình luận giấu mặt.
Có nhiều yếu tố của bài
dụ ngôn được nêu ra: hành vi gieo giống, hạt giống, các loại đất, chim trời, …;
nhưng có thể nói độc giả được mời chú ý tối đa đến người gieo giống, công việc
của ông, sự cần mẫn, sự can đảm, sự cương quyết của ông, cũng như các kết quả.
Ông là một nông dân lạc quan, tin tưởng rằng cả “các con đường” khô
cứng, những nơi sỏi đá, các bụi gai cũng có thể làm cho hạt giống sinh hoa kết
quả. Không phải là ông thiếu kinh nghiệm, vì bất cứ người nào ít kinh nghiệm
nhất cũng hiểu rằng hạt giống không thể tăng trưởng trên những mảnh đất loại
đó, nhưng ông là người cải tổ các kỹ thuât truyền thống.
Thật ra công việc gieo
giống chỉ là khởi điểm để đưa tới điểm khác. Tác giả đang nghĩ tới hoạt động
của một người thợ khác, là nhà rao giảng Tin Mừng, hay chính xác hơn, đó
là chính Đức Kitô. Chính Người đã cách mạng các tiêu chuẩn của việc giảng dạy
quen thuộc (của người Pharisêu) khi chuyển sứ điệp của Thiên Chúa cho mọi hạng
người, không phải chỉ cho những người “tốt”, nhưng cho mọi người. Sứ mạng của
Người không được bù đắp bởi những thành công tức thời (trái lại, thập giá đang
chờ Người!), nhưng Người không đầu hàng trước các thất bại, Người tiếp tục đi
tới và gieo vãi. Ông đã tưởng rằng luôn có trước mặt một đám đất tốt,
nếu không, ông đã chẳng phí phạm hạt giống. Thế nhưng cũng một loại hạt
giống lại đạt được bốn loại kết quả: những nỗ lực đầu tiên đã thất bại, chỉ
những nỗ lực cuối cùng mới có kết quả. Đức Giêsu cũng đã ở trong hoàn cảnh
tương tự. Người đã thường xuyên ra đi, ngay từ buổi đầu, để gieo Lời trên khắp
các nẻo đường Paléttina, nhưng mặc dù lao nhọc, Người không thâu đạt được các
kết quả tốt. Sự hăng hái ban đầu nay đã tan biến nơi các thính giả và nhiều
người đã rút lui, không bước theo Người nữa. Dụ ngôn đang đương đầu với phương
diện chướng kỳ nhất của sứ vụ Nước Trời: dường như phần lớn công việc tông đồ,
giống như phần lớn hạt giống, đã bị phí đi. Nhưng Đức Giêsu không nản chí,
Người không nhìn tới thời giờ và sự mệt nhọc; Người không khựng lại trước các
thất bại; Người đã tiếp xúc gặp gỡ (x. 11,19), để cho thấy rằng cả mảnh đất khô
chồi nhất vẫn có thể trở thành đất “tốt”.
Trong khi biện minh cho
các kết quả của công việc của Đức Giêsu, Đấng Mêsia, dụ ngôn cũng trả lời cho
các đòi hỏi biện giáo và thần học của cộng đoàn tiên khởi. Nhiệm cuộc cứu độ
mới này phải chấp nhận nguyên tắc là thành công chỉ đến xuyên qua thất bại. Vậy
có thể tóm tắt ý nghĩa dụ ngôn như sau: Cũng y như người gieo giống đã làm công
việc của mình xuyên qua vô số khó khăn thì mới đạt thành công, Nước Thiên Chúa
được Đức Giêsu khai mào sẽ chỉ được thiết lập xuyên qua vô số những thất bại
đáng kể. Và đó lại chính là điều mà cả người Pharisêu lẫn các đám dông không
thể “hiểu” được. Nhưng thành công được nêu ra trong bài dụ ngôn cũng là một lời
khuyến cáo: có hạt được gấp trăm, nhưng có hạt chỉ được sáu chục, và có hạt lại
chỉ được ba chục mà thôi. Kết quả có đó vẫn không được làm cho người môn đệ rơi
vào tình trạng lạc quan ngây thơ mà không tiếp tục cố gắng nữa.
* Lý do khiến Đức Giêsu
nói bằng dụ ngôn (10-17)
Đức Giêsu vẫn còn ở trên thuyền (c. 2), nhưng các môn đệ vẫn
cứ đến gần Người mà hỏi, mà cho đến nay ta cũng chẳng thấy các ông đâu cả! Các
ông trao đổi với Người một câu chuyện (x. cc. 10.18.24[1].31) kéo dài khá lâu trong
khi đám đông thinh lặng chứng kiến (c. 36). Đây những chỗ thiếu mạch lạc do
công việc soạn thảo.
Giảng dạy bằng dụ ngôn
là một cách mới, do đó, cần biện minh. Ở đây tác giả thu gom lại các câu
thuộc nhiều xuất xứ có tầm mức khác nhau dường như không đáp ứng mục tiêu chờ
đợi. Chúng giúp “giải thích” vì sao các môn đệ đón nhận, còn người Do Thái thì
không đón nhận lời rao giảng của Đức Giêsu. Điều này, chúng ta đã thấy ở
11,19.25-26. Ở tại nguồn, có sự quảng đại vô biên của Thiên Chúa, Đấng tùy nghi
“cho” (didômi) những người này mà không cho những người kia được hiểu
các mầu nhiệm Nước Trời (c. 11). Theo ngữ cảnh, “anh em” là các môn đệ, còn
“họ” là dân chúng (c. 2). Sự cứng tin của người Do Thái, Hội Thánh sơ khai thấy
là không hiểu được, nên đã gán thái độ tiêu cực này cho một hành động
(trừng phạt) của Thiên Chúa. Trước đó, Đức Giêsu đã giải thích đây là ý muốn
của Thiên Chúa (x. 11,25-27). Lịch sử được giải thích, hoặc đúng hơn, được bẻ
lại theo thần học, nhưng làm như thế là gây ra những trục trặc trầm trọng hơn
những trục trặc người ta muốn giải quyết.
Lời khẳng định hàm hồ ở
c. 12 được làm sáng tỏ bởi một lời khác còn tăm tối hơn. Lời này minh
họa sự tự do của Thiên Chúa nhưng che mất sự công minh của Người. Động từ
“ban/cho” nêu bật sự quảng đại của Đấng Tối Cao, nhưng chỉ cho một số
người, là những người đã được ưu đãi, khiến cho họ thêm dồi dào, còn những kẻ
không có gì, thì còn bị tước mất cả những gì họ có thể có (c. 13).
Sau những lời “tâm sự”
này, Đức Giêsu giải thích lý do dùng ngôn ngữ dụ ngôn bằng cách nại đến một bản
văn của Isaia (6,9-10). Đây không
phải là lần đầu tiên trong lịch sử cứu độ, người ta thấy những thất bại như Đức
Giêsu. Dường như đây là thân phận của các ngôn sứ. Nhưng trước khi trích dẫn
đoạn dài (cc. 14b-15), Mt tóm tắt đoạn văn một cách rõ ràng (c.
13b). Đức Giêsu đã chọn ngôn ngữ ẩn dụ, một kiểu nói thường thấy nơi các ngôn
sứ, “bởi vì” (hoti nguyên nhân) các người đồng hương đã không muốn “thấy
và nghe” những gì Người đã loan báo và đề nghị cho họ bằng ngôn ngữ thông thường.
Đây là một sự thay đổi trong chiến thuật do sự cứng cỏi ương bướng của
các thính giả, chứ không phải do một phương pháp mục vụ mới. Ai đã từ
chối đề nghị đầu tiên, thì sẽ nhận được một đề nghị khác không phải dễ
hơn, nhưng tối tăm hơn, che phủ hơn, huyền bí hơn. Sự từ khước của con người là
nguyên do khiến Thiên Chúa, Đức Giêsu co lại. Mc còn cứng rắn hơn nữa vì
ngài gán cho Đấng Cứu Thế ý định trừng phạt: “để [hina mục đích]
họ có nhìn mãi nhìn hoài cũng chẳng thấy” (Mc
4,11)[2].
Mt rút bản văn Is
6,9-10 từ Bản dịch LXX; so với bản
Híp-ri, trong Bản dịch Hy Lạp này, mọi nét phi lý về thần học đã bị loại đi. Vị
ngôn sứ tiên liệu sứ mạng của ông sẽ thất bại ngay bước đầu, do các thính giả
cứng lòng. Ông vẫn mạnh mẽ can đảm làm việc để mong hoán cải toàn thể
Tác giả đang “cay cú”
với hội đường, nhưng ngài còn tỏ ra bận tâm với cộng đoàn hơn (cc. 16-17). Mối
phúc của các môn đệ đã được công bố ngay trong phần mở của Bài Giảng trên núi
(5,12). Bây giờ Mt cảm thấy cần nhắc lại để nâng đỡ đức tin vẫn còn yếu
ớt của các tín hữu. Mối phúc này hệ tại việc lắng nghe Lời Chúa, chấp nhận bản
thân và công việc của Đức Kitô. Đây chính là vinh dự họ có, còn lớn lao hơn
vinh sự của các vị Tổ phụ Cựu Ước. Bằng móc nối này, Mt cũng cho thấy
cộng đoàn Do Thái – Kitô hữu này mới là sự nối dài của Israel chân chính (chứ
không phải là hội đường).
* Giải thích dụ ngôn
Người gieo giống (18-23)
Phần “giải thích” lại tách khỏi chính bài dụ ngôn (cc. 3-9)
về mặt nội dung và hình thức. Câu truyện đầu được thêm vào nhiều chi tiết mới.
Các chi tiết mô tả là hạt giống, gai góc, chim trời, … đã có một ý nghĩa biểu
tượng mà trước đây không có. Dụ ngôn đã biến thành hầu như một ẩn dụ và
đã thay đổi cả chủ đề. Bài gốc là một loan báo về những chiến thắng
tương lai của Nước thiên sai; đề tài của “phần giải thích” lại nhìn đến số phận
của lời nơi mỗi thính giả. “Dụ ngôn Người gieo giống” đã chuyển thành dụ ngôn
về “Lời rao giảng Nước Trời” (c. 19); từ ngữ logos được dùng 5 lần,
trong khi không xuất hiện trong phần đầu. Các dạng đất khác nhau không tượng
trưng các thính giả nghe lời Đức Giêsu rao giảng, nhưng các loại Kitô hữu khác
nhau, các tâm trạng khác nhau họ có khi nghe sứ điệp Tin Mừng. Người giải thích
đã quên mất cử tọa Do Thái đang được Đức Giêsu ngỏ lời với, để nói với một cử
tọa đã và đang trải nghiệm những khó khăn mà đức tin Kitô giáo gặp phải. Trong
bản văn đầu, tác giả nhắm vào sự tương phản và hướng về bài học chung kết phát
xuất từ kết quả phong phú do đất tốt; ngược lại, phần giải thích quan tâm đến
cả các mưu toan không thành công. Trong bản văn này, các nguyên do ngăn cản
hoặc làm chậm sự phát triển của hạt giống là gian nan (thlipsis) và
ngược đãi (diôgmos); các nghịch cảnh này liên hệ đến hoàn cảnh của Hội
Thánh sơ khai (tương tự trong Lc 8,15: hypomonê hiểu là “sự kiên
trì” khi gặp các nguy hiểm đối với đức tin).
Bản văn mới này cho thấy rằng mọi sự tùy thuộc thiện chí của
mỗi một tín hữu. Tác giả đã thay từ ngữ số phức ha men, “có những
[hạt]”, alla, “có những [hạt] khác” (cc. 4-8) bằng từ số đơn (“ai nghe”:
cc. 20.22.23). Lời đến tai mọi người (đám đông và các môn đệ) nhưng không phải
mọi người đều quan tâm đến và vâng lời như nhau (“nghe” theo nghĩa Kinh Thánh
là “hiểu”, tức là gắn bó về trí thức, và “vâng lời”, tức gắn bó bằng đời sống.
Đây chính là thần học kinh Shema (Đnl 6,4-5) được vào cho các
Kitô hữu.
+ Kết luận
Bài Giảng trên núi và bài Diễn từ về truyền giáo nhắm trực
tiếp đến chính tư cách môn đệ; còn các
dụ ngôn lại nhắm đến cách thi hành sứ mạng truyền giáo, hoàn cảnh của Hội
Thánh. Vào lúc tác giả viết, Hội Thánh đã trở nên vững vàng ở khắp nơi. Dù vậy,
sự cứng lòng của người Do Thái vẫn là một cái gai làm cho các tín hữu
phải đau đớn (cc. 10-17). Cần phải nêu bật tất cả các cố gắng của Đức Giêsu
nhằm đưa sứ điệp Phúc Âm đến cho người đồng hương của Người.
Tuy nhiên, sứ điệp cũng được gửi đến cho các môn đệ của Đức
Giêsu. Họ phải thấy mình vừa được nhắc nhở vừa được trấn an: được nhắc nhở hãy
trở nên đất tốt và sinh hoa quả tối đa; được trấn an do biết Đức Giêsu hoàn
toàn làm chủ tình thế: Người có gặp thất bại, nhưng các thất bại này được tiên
liệu trong chương trình của Thiên Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Quả thật, thành công
đến từ thất bại. Thất bại, như tấn bi kịch thập giá sẽ cho thấy, là đảm bảo cho
thành công. Do đó, bài dụ ngôn là một sứ điệp chiến thắng gửi đến cho
các tông đồ và các tín hữu, là một lời khuyến khích và trấn an. Hiểu như
thế, bài dụ ngôn là một lời loan báo mang tính ngôn sứ báo trước các
chiến thắng của Đức Kitô và của Hội Thánh.
2. Hoạt động của Đức
Giêsu chỉ đâm chồi và kết trái tại nơi nào có đất tốt, nghĩa là tại nơi nào
Người gặp được những tư thế sẵn sàng. Như thế, người tín hữu phải trở thành
“đất tốt” nếu muốn làm cho hạt giống thần linh nhanh chóng đâm chồi và kết quả
nơi mình và nơi người khác. Phải mở trái tim ra, phải san bằng con đường mà đón
sứ điệp Kitô giáo. Bài dụ ngôn đang muốn lay động tình trạng tê cóng, lưỡng lự
hoặc cứng cỏi của các thính giả.
3. Trong Bài giảng trên
núi, Đức Giêsu đã cho biết rằng người môn đệ không chỉ được đánh giá theo những
gì đã biết, nhưng còn theo những gì đã làm (7,13-27). Tiêu chuẩn này được nhắc
lại trong phần giải thích dụ ngôn. Không phải chỉ cần nghe lời giảng là đã được
cứu, nhưng còn phải diễn tả ra bằng những việc tốt lành, tức là làm cho lời rao
giảng đã nghe sinh hoa kết quả. Tiêu chuẩn này đã được nhắc lại nhiều lần (x.
3,8.10; 7,17-19; 12,33). Các quả chứng tỏ phẩm chất của cây; không có hoa quả,
mọi sự chỉ là chuyện bì phu.
4. Đời sống Kitô hữu sẽ
gặp vô số nguy hiểm (Satan, gian nan, thử thách, bách hại, các lo lắng sự đời,
và bả vinh hoa phú quý). Cần phải có sức mạnh và sự can đảm mà thắng vượt
chúng. Bài dụ ngôn về Lời là bài dụ ngôn về đức tin: bài này minh họa tấn bi
kịch của người phải hằng ngày chiến đấu để giữ vững sự ưng thuận đối với sứ
điệp của Đức Kitô.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm
[1] Câu 10: “Các môn đệ đến gần”; c. 18:
“Vậy anh em hãy nghe”, hiểu là Đức Giêsu nói với “các môn đệ”; c. 24: “Đức
Giêsu trình bày cho họ [autois]”, hiểu là “các môn đệ” thì trung thành
với văn cảnh hơn – Bản dịch CGKPV dịch diễn là “Đức Giêsu trình bày cho dân
chúng nghe”, có lẽ cho phù hợp với ý của c. 34 –; c. 34: “Người còn kể cho họ [autois]”,
hiểu là “các môn đệ”.
[2] Tuy nhiên, Mc 4,33 dường như giảm
nhẹ khẳng định cứng cỏi của 4,11: “tùy theo mức họ có thể nghe”. Như vậy, dụ
ngôn là một cách nói dễ hơn và phù hợp hơn với trình độ của các thính
giả.