GIÁ TRỊ VÔ SONG
(Mátthêu 13,44-52 – CN XVII TN - A)
1.- Ngữ cảnh
Diễn
từ của Đức Giêsu bằng các dụ ngôn liên hệ đến các khó khăn và những ngờ vực
xuất phát từ tình trạng tương phản giữa hoàn cảnh hiện tại và các nỗi chờ mong
nhắm đến Nước Trời và Đấng Mêsia. Nếu khi Đức Giêsu xuất hiện, quyền chúa tể của
Thiên Chúa cũng bắt đầu được khẳng định, thì tại sao sứ điệp của Người không
được mọi người vui mừng đón nhận? Tại sao Thiên Chúa không
buộc người ta phải nhìn nhận Ngài bằng một loạt những chiến thắng lẫy
lừng? Tại sao Ngài không thiết lập những phân biệt rõ ràng? Trong dụ
ngôn Người gieo giống, Đức Giêsu đã cho thấy rằng hạt giống tốt chỉ có thể sinh
hoa kết quả trên một mảnh đất tốt, tức là tính hữu hiệu của sứ điệp cốt
yếu tùy thuộc những người đón nhận sứ điệp và tùy thuộc cách sống của họ. Với
các dụ ngôn Hạt cải và Men, Người cho thấy rằng một khởi đầu bé nhỏ
không loại trừ một sức phát triển to lớn và một khả năng đạt hiệu quả
lớn lao. Các dụ ngôn Cỏ lùng giữa
lúa tốt và Lưới cá cho thấy rằng vẫn còn tình trạng người tốt kẻ xấu ở bên
nhau, nhưng không kéo dài vĩnh viễn. Giá trị cao vời của Nước Trời, niềm
vui vô biên đi liền với việc khám phá ra giá trị ấy và sự dấn thân phải có khi
đã thuộc về Nước Trời, tất cả những điểm này đều được làm sáng tỏ xuyên qua các
dụ ngôn Kho báu và Ngọc quý. Đức Giêsu muốn loại bỏ các hiểu
lầm và giúp các thính giả có lối sống thanh thoát thích hợp.
2.- Bố cục
Có thể chia bản văn thành ba phần:
1) Ba Dụ ngôn
a) Dụ
ngôn 1: Kho báu chôn giấu (13,44),
b) Dụ
ngôn 2: Ngọc quý (13,45-46),
c) Dụ
ngôn 3: Chiếc lưới (13,47-48).
2) Dụ ngôn Chiếc lưới được giải thích (13,49-50).
3) Hiểu các Dụ ngôn: Dụ ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn
(13,51-52).
Hoặc cũng có thể cho
rằng bản văn có năm đơn vị:
1) Dụ ngôn 1: Kho báu chôn giấu (13,44);
2) Dụ ngôn 2: Ngọc quý (13,45-46);
3) Dụ ngôn 3: Chiếc lưới (13,47-48);
4) Dụ ngôn Chiếc lưới được giải thích (13,49-50);
5) Hiểu các Dụ ngôn: Dụ ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (13,51-52).
3.- Vài điểm chú giải
- Nước Trời giống như
một kho báu (44): Không phải là Nước Trời được ví với một kho báu, nhưng là
“những gì xảy ra” khi một người khám phá ra một kho báu được so
sánh với “những gì xảy ra” (hoặc phải xảy ra) khi một người khám phá ra
Nước Trời.
- kho báu chôn giấu
trong ruộng (44): Vào thời Thượng Cổ, vì không có hoặc có rất ít nhà băng, hơn
nữa Paléttina lại phải chịu nhiều cuộc chiến tranh do vị trí ở giữa Ai Cập và
Mêsôpôtamia, người ta giữ của cải an toàn bằng cách chôn xuống đất. Do đó,
thỉnh thoảng, có người khám phá ra một khối của cải chôn dưới đất, chẳng hạn
một cái chum chứa những đồng tiền vàng hay các loại đá quý.
- thương
gia (45):
Emporos là người buôn bán sỉ, vừa xuất vừa nhập hàng. Vào
thời Đức Giêsu, ngọc quý thường được nhập từ Ấn Độ.
- chiếc lưới (47): Sagênê,
“chiếc lưới”, có kích thước dài khoảng 250 đến 450m và rộng khoảng 2m; mỗi đầu
có thắt một sợi dây.
- thả
xuống biển (47): Blêtheisê, động từ ballô ở dạng participe
aoriste passif để nói quanh thay tên Thiên Chúa. Động từ với dạng ấy có nghĩa
là chiếc lưới đã được thả xuống biển rồi, và do chính Thiên Chúa thả.
- Anh em có hiểu (51): Trong dụ ngôn
Người gieo giống, chúng ta đã thấy tầm quan trọng tác giả gán cho động từ
“hiểu”. Ở đây, Đức Giêsu hỏi về tất cả những gì Người đã nói
bằng dụ ngôn cho đám đông. Câu trả lời thật gọn: “Thưa hiểu (Nai)”.
Ngữ cảnh cho thấy là những người trả lời là những môn đệ đã
hỏi Đức Giêsu trước đây (x. c. 36). Nhưng khi không
nêu ra chủ từ minh nhiên, tác giả Mt muốn ám chỉ bất cứ độc giả nào,
bất cứ Kitô hữu nào. Chính câu trả lời này đưa người ta đi từ
tình trạng “đám đông” sang tình trạng “môn đệ”.
- kinh
sư (52):
Cộng đoàn Mt đã có những định chế (“Nhóm Mười Hai”: 10,1; Phêrô:
16,18-19). Dựa theo bản văn ở đây, rất có thể trong lòng cộng đoàn cũng có các
“thầy dạy” được gọi là “kinh sư” vì cộng đoàn vẫn tôn trọng cái gốc Do Thái của
mình.
4.- Ý nghĩa của bản văn
Các câu dẫn nhập 31, 33, 44 và 45 của các dụ ngôn Hạt cải,
Men, Kho báu và Ngọc quý và cấu trúc các dụ ngôn rất giống nhau.
* Dụ
ngôn 1 và 2: Kho báu chôn giấu và Dụ ngôn Ngọc quý (44-46)
Những gì Đức Giêsu kể về việc khám phá ra kho báu và ngọc
quý thật đơn giản và rõ ràng. Rất có thể đây là một người
thợ đi cày trong ruộng của người khác và đã khám phá ra một kho tàng gồm
các đồng tiền và vật trang sức được chôn trong ruộng. Dĩ
nhiên là ông rất vui mừng, vì ông không bao giờ dám mơ tới khối của cải này.
Cũng lưu ý là ông tìm ra kho báu không phải như một phần thưởng cho công lao khó nhọc hay do bác ái. Quan trọng là
việc ông sẽ làm bây giờ.
Ông sẵn sàng hy sinh tất cả mọi nguyện vọng và dự phóng cũng
như mọi lo toan để thủ đắc cho được thửa ruộng. Cách xử sự
của nhân vật này không lương thiện về mặt luân lý, nhưng điều này không làm tác
giả bài dụ ngôn phải bận tâm. Đức Giêsu kể lại một hoạt cảnh của
đời thường, như sau này Người kể truyện người quản lý bất lương, những người
làm vườn nho sát nhân: Người không nhắm tới tính luân lý. Điều này ta thấy rõ
nơi truyện người đi săn ngọc quý: không hề có bận tâm gì đến tính luân lý.
Trong cả hai trường hợp (khám phá kho báu và tìm được viên ngọc quý), vấn đề
được đề cập là khám phá ra và nhận biết ý nghĩa của một thứ có giá trị
lớn lao và tuyệt mỹ, và đây là chuyện một người hết sức vui sướng hy
sinh tất cả những lợi lộc và vận dụng mọi phương tiện mà thủ đắc một điều
gì; “ông bán tất cả những gì mình có” (cc. 44.46). Điểm nhắm
của tác giả các dụ ngôn là điểm ấy. Đấy chính là Nước
Trời; Nước Trời cao trọng hơn bất cứ tài sản nào.
Trong sứ điệp về Nước Trời, Đức Giêsu loan báo rằng Thiên
Chúa Cha đứng về phía chúng ta. Với quyền năng trổi vượt của Ngài, Chúa Cha là
Chúa tể độc nhất, Ngài nắm mọi sự trong tay. Mặc dù
thế giới đang có những vô trật tự, những sự dữ và những tai
họa, Ngài vẫn tốt lành với tất cả chúng ta và muốn ban cho chúng ta được thành
công trọn vẹn và hạnh phúc viên mãn trong sự hiệp thông với Ngài. Thực tại này trước tiên phải được khám phá ra và hiểu đúng. Thực tại này chính là một kho báu được chôn giấu; tự nó, nó
không buộc ai nhận biết nó cả. Có nhiều thứ khác lôi
cuốn hơn nhiều, dường như quan trọng và hứa hẹn hơn nhiều. Chúng ta phải mở lòng mình ra và để mình bị chinh phục bởi sự kiện
Thiên Chúa, tình yêu của Ngài đối với chúng ta và sự hiệp thông của chúng ta
với Ngài có một giá trị vô song và không bao giờ bị vượt quá. Với sự hiểu biết này, niềm vui gia tăng và đồng thời cũng gia tăng
ước muốn được đi vào làm chủ một giá trị như thế.
Kho báu ấy không phải là phần thưởng cho
chúng ta. Chúng ta chỉ có thể thủ đắc nó bằng cách vận
dụng tất cả sức lực chúng ta. Không phải để tự nhiên
mà có sự kiện chúng ta thuộc về Thiên Chúa. Có biết
bao ước muốn, mục tiêu, giá trị, nhiệm vụ trong đời sống chúng ta, nhưng chúng
ta phải đặt chúng đàng sau để thuộc về Thiên Chúa. Trên
tất cả mọi sự, cần phải có sự quy hướng về Thiên Chúa, liên kết với Ngài và chịu
trách nhiệm trước mặt Ngài. Tất cả các giá trị khác, như gia đình, nghề
nghiệp, địa vị xã hội, của cải, tiện nghi, sức khỏe, lợi lộc, những thú vui…
không phải là những giá trị và tiêu chuẩn tối hậu, nhưng phải được đưa vào
trong dây liên kết với Thiên Chúa và được cứu xét trước nhan Ngài và theo ý
muốn của Ngài. Tất cả tùy thuộc việc thuộc về Thiên Chúa, mà
chúng ta chỉ thuộc về Thiên Chúa nhờ luôn ý thức sống trước nhan Ngài. Càng hiểu giá trị của việc thuộc về Thiên Chúa, ta càng sống vui,
cho dù có những mệt nhọc, bề bộn với công việc và phải từ bỏ nhiều điều.
* Dụ ngôn 3: Chiếc lưới
và Dụ ngôn Chiếc lưới được giải thích (47-50)
Dụ ngôn Chiếc lưới song song với dụ ngôn
Lúa tốt vả Cỏ lùng (cc. 24-30.36-43), và nêu lên cũng những vấn đề như nhau.
Trong dụ ngôn trước, “cánh đồng” tượng trưng Nước Trời; trong
dụ ngôn sau là “chiếc lưới”.
Tại hồ Ghennêxarét,
có hơn hai mươi loại cá. Bao lâu cá còn ở trong hồ hoặc ở trong lưới,
chúng bơi loạn xạ, lớn nhỏ lẫn lộn, có thứ cá ăn được,
có thứ không. Nhưng điều này không có nghĩa là chúng luôn
luôn như thế. Khi lưới được kéo lên bờ, các người dân chài ngồi lựa: cá
tốt thì được gom lại, cá xấu thì bị quăng đi. Tư thế “ngồi” của các dân chài có
thể khiến nhớ tới tư thế “ngồi” Con Người thẩm phán thế gian (19,28; 25,31;
26,64). Các tính từ “tốt” (kalos) và “xấu” (sapros, “vô ích”)
khiến ta nhớ tới hình ảnh các cây với trái của chúng (x. 7,16-20;
12,33), hiểu là các việc làm hoặc lời nói. Bằng dụ ngôn này,
Đức Giêsu lại hướng mắt nhìn về cuộc phán xét cuối cùng và về số phận hoàn toàn
khác nhau của người tốt và người xấu. Ở đây, trên mặt đất này, dường như
chúng ta có quan tâm đến Thiên Chúa hay không, cũng không quan trọng gì; giữa
người tốt và người xấu, không hề có sự phân biệt nào. Dường
như tốt xấu cũng như nhau. Cộng đoàn Kitô hữu, tượng
trưng Nước Trời, là một cộng đoàn đa tạp. Nhưng Đức Giêsu lưu ý
chúng ta: Anh em đừng để mình bị lừa! Anh em đừng tưởng rằng mọi sự sẽ cứ như
thế mãi! Anh em hãy biết chắc rằng sẽ có một cuộc phân biệt rõ ràng, nên
hãy sống hôm nay thế nào để khi đến cuối, anh em được Thiên Chúa đón nhận!
Thật ra, việc Người giảng dạy đã là một tiên báo về phán
xét: Người đang ở tại “hồ” (13,1-2), có một đám đông
“đã tụ họp lại” (“gom cá”) trên bờ, trong khi Đức Giêsu “ngồi” trên thuyền và
nói bằng dụ ngôn. Lời nói của Người đã gây ra sự phân biệt
giữa dân chúng và các môn đệ. Cuộc phân biệt này báo
trước cuộc phán xét sau này. Những gì Đức Giêsu đã gây
ra lúc này sẽ được lặp lại vào ngày phán xét.
Kết luận dụ ngôn Chiếc lưới, tác giả TM I nêu lên một
chi tiết tương tự trong dụ ngôn Cỏ lùng: “các thiên sứ sẽ … quăng kẻ xấu
vào lò lửa” (x. 13,31). Các Kitô hữu đang đau khổ vì
sự hiện diện của những kẻ xấu, tác giả an ủi họ bằng cách cho biết rằng cuộc
phán xét cánh chung đã gần kề; cuộc phán xét này sẽ
tái lập thế quân bình cho cuộc sống của họ.
* Hiểu các Dụ ngôn: Dụ
ngôn 8 kết luận các Dụ ngôn (51-52)
Dụ ngôn Vị kinh sư này là một câu trả lời
cho câu hỏi và lời xin của các môn đệ (cc. 10.36). Họ
là những người đã hiểu sứ điệp hàm chứa trong bài giảng của Đức Giêsu.
“Hiểu” không chỉ có nghĩa là “nắm được ý nghĩa” mà còn là “chấp nhận”, “làm cho
nên hiện thực trong đời sống mình”. Nếu đúng như thế, các môn đệ đã trở thành
những người thực sự bước theo Đức Giêsu, họ đã là “con
cái Nước Trời” (c. 38). Do đó, họ cũng là những kinh sư mới, những thầy dạy mới
trong Nước Trời. Kinh sư Kitô hữu đề nghị cả các chân lý cũ (palaia)
lẫn các chân lý mới (kaina) trong giáo huấn của mình. Cũng rất có thể đây là cách tác giả tự giới thiệu về mình.
+ Kết luận
Tất cả các dụ ngôn đều nói với chúng ta về
Nước Trời. Chúng đều ưu tiên mạc khải về Đức Giêsu, là biến cố trung tâm
của lịch sử, biến cố đánh dấu cuộc gặp gỡ chung kết giữa trời với đất: nơi Đức
Giêsu, Nước Trời vĩnh viễn đến gần con người. Các bài dụ ngôn cũng cho thấy
rằng việc từ bỏ theo Tin Mừng không phải là phương
tiện để đạt tới Nước Trời, nhưng là hậu quả của việc khám phá ra Nước Trời.
Sự
lộn xộn và rối loạn thật đáng kể. Có biết bao giá trị và mục
tiêu xuất hiện ra như là quan trọng và hứa hẹn cho ta được hạnh phúc.
Đức Giêsu đánh tan mây mù và làm sáng tỏ. Người cho thấy điều
gì là quan trọng, chúng ta phải vận dụng sức lực quá giới hạn của mình vào
chuyện gì. Điều quan trọng là luôn luôn sống với tinh
thần trách nhiệm và đặt quan hệ với Thiên Chúa tại trung tâm đời ta. Như thế, chúng ta có thể nhìn về kết cuộc không hề nao núng.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Vấn đề không phải
chỉ là dời các giá trị khác ra phía sau để nhường bước cho giá trị lớn là Nước
Trời, nhưng là coi mọi sự khác không còn giá trị nữa trước giá trị duy nhất là
Nước Trời. Người ta chỉ thật sự là Kitô hữu nếu hiểu rằng Nước Trời là “tất cả”
trong cuộc đời, cần thiết hơn cả cơm bánh mỗi ngày. Suy biết
như thế là “hoán cải”, thay đổi lòng trí. Nhưng chỉ dừng lại mà chiêm
ngắm sự cao cả của Nước Trời thì không đủ, còn cần phải quyết định, phải chọn
lựa, phải nỗ lực suốt đời để chiếm lấy giá trị này. Truyện người thanh niên
giàu có minh họa rất rõ điểm này (Mt 19,21.27.29).
2. Nước Trời là một
điều thiện hảo được đặt vừa tầm tay mọi người, nhưng không phải là mọi người
đều “tìm thấy” Nước Trời bởi vì không phải là mọi người đều đi tìm kiếm Nước
Trời. Tìm kiếm là điều kiện thiết yếu để có thể gặp được Nước Trời (x. Mt
10,39; 12,29; 17,14; 18,13). Điều này đúng ngay cho cả
bình diện trí thức: khi nghiên cứu, nếu chúng ta không có ý tìm điều gì, thì
chúng ta sẽ không thấy các trang sách nói gì cả; chỉ khi nào cố ý tìm một điểm
gì đó, chúng ta mới thấy sách có vô vàn gợi ý về điểm đó. Dù vậy, Nước Trời
không phải là kết quả đương nhiên của cuộc tìm kiếm, Nước Trời vẫn là một ân ban.
3. Niềm vui là tiêu
chuẩn cho thấy người ta đang kinh nghiệm về các giá trị cách sâu sắc. Tôi có
thể tự hỏi về niềm vui tôi đã cảm nhận khi nghe được sứ điệp về Nước Trời: tôi
có vui mừng không? Các giá trị Nước Trời đã đi vào đời tôi,
tôi có cảm thấy vui không? Ai có Thiên Chúa thì có tất
cả; Thiên Chúa đủ cho tôi rồi. Tôi có xác tín về điều
này chăng? Do đang còn mang não
trạng “thế gian”, do đang lo lắng sợ mất điều gì đó hoặc thiếu điều gì đó, do
cứ muốn nắm được mọi sự trong tay, do muốn lên chương trình sống hoàn toàn theo
ý mình, chúng ta có thể đang còn vấp phải dữ kiện căn bản này: một mình Thiên
Chúa có thể lấp đầy một con tim hiến dâng trọn vẹn cho Ngài.
4. Cuộc sống con người
ở trần gian còn đang ở trong tình trạng tranh tối tranh sáng. Một ngày nào đó,
khi đến ngày phán xét, mọi sự sẽ trở nên sáng tỏ. Rất có thể hôm nay cuộc sống
thật của người ta còn đang được che giấu dưới một cái mặt nạ đạo đức,
nhưng đến ngày đó, “mặt thật” của con người sẽ lộ rõ: người ta chỉ hoàn toàn là
“xấu” nếu tận đáy lòng, người ta chỉ tìm kiếm chính mình, thay vì tìm kiếm một
mình Thiên Chúa.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm