Một
đức tin tuyệt vời
Chúa nhật XX thường niên năm - A
(Mt 15,
21-28)
Thiên Chúa muốn chúng ta hạnh phúc, Người mang hạnh phúc đến cho
chúng ta, người đàn bà xứ Canaan hiểu điều đó đã tìm đến Chúa ! Bà muốn Chúa
Giêsu nhìn đến nhu cầu bà xin cho con gái bà. Bà muốn Thiên Chúa thể hiện lòng
nhân lành đối với con bà, lời van xin của bà mới đẹp làm sao : "Lạy Ngài là con Vua Đavít, xin thương xót
tôi !" (Mt 15, 22) Bà coi
Chúa Giêsu là Đấng Messia.
Sự thinh lặng của Chúa
Giêsu
Bà xin Chúa không trả lời, có phải bà bị miệt thị không? Chắc chắn
là thế, nhưng bà cứ xin Chúa phải trả lời : "Thầy chỉ được sai đến cùng chiên lạc nhà Israel" (Mt 15, 24). Câu này thể hiện sự vâng
phục của Chúa Giêsu được Cha sai đến cùng dân Israël, và mạc khải cho dân biết về
lòng trắc ẩn của Thiên Chúa đối với họ. Lời cầu xin của bà xứ Canaan khó có
thế chấp nhận, nhưng bản chất và tình thương của một người mẹ bảo bà cứ xin.
Chúng ta biết, giữa người Do thái và dân ngoại có một bức tường
ngăn cách, thánh Phaolô gọi đó là "bức
tường hận thù" (x. Eph 2, 14). Chính sự ngăn cách này mà Chúa Giêsu
cũng bảo môn đệ đừng đi theo đường của dân ngoại, cầu nguyện "đừng có lải nhải như dân ngoại" (Mt 6, 7). Và nếu ai đó muốn nhục mà
người nào trong dân Israel, thì hãy "đối
xứ với họ như dân ngoại " (x. Mt
18, 17), nên không có lạ gì khi môn đệ ngạc nhiên thấy Thầy tiếp chuyện
với người phụ nữ xứ Samaria dân ngoại. Thế mới biết người đàn bà xứ Canaan can
đảm biết chừng nào, bà đã vượt qua tất cả rào cản về tôn giáo, địa lý, niềm
tin, nhất là về thân phận phụ nữ của chính bà. Vì ngay người nữ Do thái còn
không được nhắc đến trong lời cầu nguyện, lời chứng của họ không có giá trị
pháp lý, không giải quyết được gì ở nơi công cộng, huống hồ là đàn bà dân
ngoại.
Chúa Giêsu không đề cập đến những vấn đề trên. Tuy nhiên, bà này vượt
qua ranh giới dân ngoại, kêu xin một người Do thái với lòng kính trọng :
"Lạy Ngài là con Vua Đavít"
(Mt 15, 22). Có lẽ bà đã nghe nói nhiều về Chúa Giêsu, trong lòng bà có điều
không biết rõ, phải chăng là hồng ân của Thiên Chúa.
Nhưng bà biết, theo ý kiến của dân chúng, bà có thể xin được điều
bà cần nơi Đấng được Thiên Chúa sai đến. Bà liều đến, Chúa Giêsu không chấp
nhận, bà nhờ vả các môn đệ, khiến các ông phải thưa với Chúa Giêsu :
"Xin Thầy thương để bà ấy về đi, vì
bà cứ theo chúng ta mà kêu mãi" (Mt 15, 23). Các ông muốn Chúa nhận lời ngay, Chúa từ chối, bà
khăng khăng sấp mình xuống. Chúa bảo bà, "không nên lấy bánh của con cái mà vứt cho
chó" (Mt
15, 26) để giải thích lý do tại sao Người không thể nhận lời bà xin. Bà đáp rằng, "vâng, lạy Ngài, vì chó con cũng được ăn
những mảnh vụn từ bàn của chủ rơi xuống" (Mt 15, 27). Lời này đã
thuyết phục được Chúa Giêsu, ma quỉ bị trục xuất, con gái bà được giải thoát.
Lời bà van xin không được xét đến, xin mãi bị từ chối, lại còn bị
miệt thị như chó. Chúng ta tự hỏi : điều gì đã khiến cho bà dám làm tất cả?
Thưa vì yêu. Với tình mẫu tử, bà không đành lòng ngồi nhìn đứa con mình bị ma
quỉ hành hạ, bà đi khắp đó đây tìm thầy chạy thuốc, vượt qua cả những nơi bị
xem là cấm kỵ. Yêu con, bà chấp nhận tất cả, không những đến với Chúa Giêsu là
người Do thái, lại còn tin Chúa có quyền năng thống trị được ma quỉ, tin Chúa
có lòng thương xót sẽ ra tay cứu chữa, tin Chúa có trái tim rộng mở để không
phân biệt người ngoại, kẻ đạo. Đáng ngưỡng mộ cho một người mẹ.
Giao ước và đức tin
Dù bà đã công nhận kế hoạch của Thiên Chúa, cũng như vai trò cứu
thế của Chúa Giêsu được sai đến với nhà Israel, nhưng bà hy vọng rằng sự quan
phòng của Thiên Chúa Đấng Cứu Thế không chỉ liên kết chặt chẽ với Israel, mà
còn trải dài đến mọi dân tộc, kể cả dân ngoại, "vì nhà Ta là nhà cầu nguyện cho mọi dân tộc" (Is 56, 7 ) ; để "hết thảy chư dân hãy ca tụng
Ngài" (Tv 66). Bà
cũng tin rằng, những rào cản ngăn cách giữa con người một ngày kia sẽ được rỡ
bỏ, không còn trở ngại cho việc thi ân giáng phúc của Thiên Chúa. Bà tin, Chúa
Giêsu đã được Thiên Chúa sai đến như vị Cứu tinh dân ngoại, bởi bà tin Thiên
Chúa đã hành động. Lời thánh Phaolô chứng tỏ điểu đó : "Như xưa anh em không tin Thiên Chúa, nhưng
nay vì họ cứng lòng tin, nên anh em được thương xót" (Rm 11, 32). Tại Nagiaret, Đức Giêsu đã
không thể làm một phép lạ nào vì họ không tin vào Người, bởi vì họ cứng lòng
tin. Người đàn bà này bằng đức tin đã đến gần Chúa Giêsu. Bà quả là một người
mẹ có lòng tin tuyệt đối vào Thiên Chúa, bà đã được Thiên Chúa xót thương (x.
Rm 11, 13-15. 29-32)
Bài học cho chúng ta
Chúng ta học được nhiều điều ở nơi bà xứ Canaan. Nhờ đức tin
của bà, Chúa Giêsu hoàn thành phép lạ
cứu con gái bà. Người ban cho bà được đồng bàn tình thương của Thiên Chúa như
con cái Cha trên Trời. Được trở nên con cái Thiên Chúa là ơn gọi của chúng ta!
Chúng ta không bị tách rời khỏi Giao ước ban đầu. Chúa Giêsu đến để kiện toàn,
vì : "Không còn Do Thái hay Hi lạp; không còn nô lệ hay tự do, không còn nam
hay nữ; vì hết thảy anh em là một trong Ðức Kitô Yêsu"(Gal 3, 28). Thánh Gioan nói với chúng
ta rằng chúng ta có quyền là con. Tất cả những ai đón nhận Người thì Người ban
cho họ quyền làm con Thiên Chúa (x. Ga 1, 12). Cả chúng ta nữa, chúng ta được
Thiên Chúa Cha mời gọi vào dự tiệc cưới Con Chiên.
Bánh vẫn luôn luôn là nội dung của câu chuyện. Bánh được ban cho
dân chúng ăn no nê, thỏa mãn sự thèm muốn. Bánh đã được ban tặng cho 12 chi tộc
Israel, bánh ấy đã không được chấp nhận, nay Bánh ấy được ban cho dân ngoại. Chúa Giêsu là
Bánh của con cái Thiên Chúa. Phẩm vị của những người làm con Thiên Chúa mới
đẹp làm sao.
Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy kiên trì cầu nguyện, như : người bạn
đến quấy rầy xin bánh, bà góa yêu cầu vị thẩm phán bất lương xử kiện, cụ thể người
đàn bà xứ Canaan đã chiến đấu và đã chiến thắng. Thiên Chúa vui mừng vì đã có
cơ hội để chịu thua một đức tin tuyệt vời. Trong đời sống của chúng ta, chúng
ta cũng phải chiến đấu một trận chiến, ai có đức tin tuyệt vời sẽ là người
chiến thắng. Amen.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ