ĐỨc
Giêsu và Phêrô
(Mátthêu 16,13-20 – CN XXI - A)
1.- Ngữ cảnh
Với đoạn Tin Mừng này, chúng ta đi tới trung tâm của TM I.
Lần đầu tiên Đức Giêsu hỏi các môn đệ về bản thân Người và Phêrô đã minh nhiên
tuyên xưng tư cách Mêsia của Đức Giêsu. Câu trả lời vang lên
như một điểm tới và như hoa quả của hoạt động trước đây của Đức Giêsu.
Đồng thời câu trả lời cũng là tiền đề cho nhiệm vụ mà Người
sẽ ký thác cho Phêrô. Toàn bản văn là chứng từ duy
nhất về lập trường lạ lùng và về uy quyền của Đức Giêsu.
Đây
cũng là lần đầu tiên Đức Giêsu loan báo các đau khổ và sự sống lại của Người. Cuối cùng, ngay sau
đoạn văn này, bài tường thuật tập trung vào đề tài cuộc Khổ Nạn (x. 17,22-23; 20,17-19).
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành ba phần:
1) Câu hỏi về chân tính Đức Giêsu (16,13-16):
a) Ý kiến của dân chúng
(cc. 13c-14),
b) Ý của của các môn đệ
(đại diện là Simôn Phêrô) (cc. 15-16);
2) Tuyên bố về tư cách
của Phêrô (16,17-19);
3) Kết: Lệnh cấm (16,20).
Bản
văn này có một chức năng quan trọng trong toàn tác phẩm. Không những nó nhắc
lại các ký ức ở 14,2.5 (c. 14), 14,33 (c. 16) và
13,16-17 (c. 17), mà còn đặc biệt gợi tới bản văn căn bản nói về mạc khải của
Con Người, 11,25-27. Bản văn này mở đầu không những cho 18,18
(c. 19b.c) và cho 23,13 (c. 19a), nhưng đặc biệt cảnh mạc khải trước Thượng Hội
Đồng ở 26,61-64).
Bản văn này cũng liên
kết chặt chẽ với đoạn 16,21-28, để tạo thành một cấu
trúc chuyển hoán:
a) cc. 13-15;
b) cc. 16-19
c) c. 20
c’) cc. 21-22
b’) cc. 22-23
a’) cc. 24-28
3.- Vài điểm chú giải
- Thầy là Đấng Kitô,
Con Thiên Chúa hằng sống (16): Khi so với câu tuyên xưng ngắn ngủi trong Mc
(8,29), các nhà chú giải có nhiều ý kiến về bản văn Mt: (a) Mt đã
tuyên xưng thần tính của Đức Giêsu (Benoît); (b) Mt chỉ tuyên xưng Đức
Giêsu là Đấng Mêsia mà thôi; (c) Mt đã nối dài lời tuyên xưng là để
tránh những âm vang quân sự chính trị của danh hiệu Mêsia (Viviano). Cũng khó
mà chọn hẳn ý kiến nào, bởi vì cũng rất có thể lời tuyên xưng lúc đầu chỉ nói
về Đấng Mêsia (như Mc 9,29 và Lc 9,20),
đã được “đọc lại” dưới ánh sáng cuộc Phục Sinh và diễn giải theo chiều hướng
một lời công bố về thần tính của Đức Giêsu. Ngày hôm nay, chúng ta hoàn
toàn có thể và phải hiểu theo nghĩa này.
- không
phải phàm nhân (17): dịch sát là “thịt và máu”. Đây là một kiểu nói Híp-ri
để chỉ các tài nguyên của con người tự nhiên, các sức lực riêng của con người
- Phêrô, nghĩa là Tảng
Đá
(18): Ta hiểu được kiểu chơi chữ này do biết từ A-ram gốc là kepha ở nam
tính.
- Hội Thánh (18): Từ ngữ Hy Lạp ekklêsia
chưa có tất cả ý nghĩa định chế như từ ngữ “Hội Thánh” sau này. Do đó, từ Hội
Thánh dù được dùng để dịch từ ekklêsia, không
cung cấp ý nghĩa nguyên thủy cho từ ekklêsia. Hầu chắc ekklêsia
dịch từ cụm từ Híp-ri qahal Yhwh,
mà Bản LXX diễn ra là ekklêsia tou theou (x. Cv 7,38). Cộng đoàn Kitô hữu là
- chìa khóa Nước Trời (19): Ta nhớ đến Is
22,22 trong đó nhắc lại lời Thiên Chúa nói là Ngài sẽ đặt chìa khóa trên vai Engiakim để ban cho
ông quyền mở và đóng cửa vào hoàng cung, tức quyền cho phép hoặc ngăn cản nhà
vua ra vào. Trong sách Kh (3,7), chính Đức
Giêsu tự giới thiệu như là Đấng nắm chìa khóa nhà Đavít. “Nước
Trời” là một công thức Mt song song với ekklêsia của câu
trước. Đây vẫn là một thực tại duy nhất nhưng nhìn theo những trương độ khác. Nước Trời vượt
quá các biên cương (lịch sử) của ekklêsia; đây không phải là một định
chế mà là sự thể hiện ơn cứu độ.
- ràng buộc và tháo
cởi (19): Đây là ngôn ngữ của các trường phái kinh sư. “Ràng
buộc hoặc tháo cởi” có nghĩa là đảm nhận một nhiệm vụ ngăn cấm hoặc cho
phép về những điểm còn gây tranh cãi trong giáo huấn chính thức. Hai động từ này cũng có nghĩa là tuyên bố một giáo thuyết là
đúng hay sai lạc, một kiểu thực hành luân lý là hợp pháp hay không hợp pháp.
Họa hoằn lắm công thức này mới có nghĩa là loại trừ khỏi cộng
đoàn hoặc nhận vào lại.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Câu hỏi về chân tính
Đức Giêsu (13-16)
Khi
đến miền Xêdarê Philípphê, Đức Giêsu không xin các môn đệ cho ý kiến về Bài
Giảng trên núi hoặc về phần nào đó của công trình Người; Người hỏi họ là họ
nghĩ gì về bản thân Người. Câu hỏi đã cho thấy rằng đối
với Đức Giêsu, điểm này có tầm quan trọng quyết liệt. Người muốn đưa các
ông đến chỗ hiểu biết rõ ràng về Người và một lời tuyên xưng đức tin
không mập mờ vào Người. Tất cả ý nghĩa củasự hiểu biết này
tuỳ thuộc Người là ai. Ở tại trung tâm, ta không thấy lời loan báo về
Người, nhưng có bản thân Người.
Ngay
dân chúng cũng có một ý kiến cao trọng về Người, nhưng không nhận ra vị
trí đặc biệt của Người. Nếu Người chỉ là một ngôn sứ, thì Người là một ngôn
sứ giữa biết bao vị khác: trước Người, đã có nhiều vị đến rồi, và sau Người sẽ
có thể có nhiều vị khác đến nữa. Ngược lại, Phêrô nhận biết
tư cách của Đấng hoàn toàn đặc biệt đối với loài người và tương quan của Đấng
hoàn toàn đặc biệt với Thiên Chúa. Trong tư cách Mêsia, Đức Giêsu là Vị
Vua và Mục Tử duy nhất, cuối cùng và vĩnh viễn của dân Israel, đã được Thiên
Chúa cử đến để ban cho dân này và toàn thể nhân loại sự sống dồi dào. Trong tư
cách là Con, Người sống với Thiên Chúa một tương quan duy nhất, với đặc
điểm là sự hiểu biết hỗ tương và sự bình đẳng với nhau (x. 11,27).
Vị Thiên Chúa ấy là vị Thiên Chúa hằng sống, vị Thiên Chúa duy nhất chân thật
và thực hữu, là sự sống nơi chính mình, đã tạo thành mọi sự sống và đã chiến
thắng sự chết bằng quyền lực của Ngài. Là Đức Vua và Mục Tử,
Thiên Chúa phải dấn thân phục vụ sự sống của dân Ngài. Phêrô nhận biết Đức Giêsu là Đấng Mêsia có liên hệ mật thiết với
chính quyền lực sự sống, với Thiên Chúa hằng sống.
* Tuyên bố về tư cách
của Phêrô (17-19)
Do lời tuyên xưng ấy, Simôn được tuyên bố là có phúc. Đức
Giêsu ngỏ lời với ông bằng cách gọi tên và tên họ ông, tức là thể theo đúng
thực tại nhân loại và nguồn gốc của ông, và tỏ cho ông biết ân ban phi thường
đã làm cho ông có thể tuyên xưng như thế: chính Cha trên trời đã ban cho ông sự
hiểu biết ấy (“mạc khải”, apekalypsen. Xem 11,27;
17,5); sự hiểu biết này, người ta không thể đạt tới bằng sức loài người (“thịt
và máu”). Simôn không chỉ được Đức Giêsu kêu gọi (4,18t), mà
còn được Chúa Cha tuyển chọn từ trước. Do đó, ông có phúc; ông có mọi lý
do để vui lên.
Đức Giêsu ngỏ lời với Simôn bằng một tên
mới và loan báo một nhiệm vụ mới. Người gọi ông
là “Phêrô”, nghĩa là tảng đá. Ở Ga 1,42
và trong các thư Phaolô, tên này có dạng gốc A-ram là “Kêpha”. Tên này
là một sáng tạo mới của Đức Giêsu. Như người cha xác thịt đặt tên cho
con, Thiên Chúa hoặc một người có quyền thế có thể ban một tên
mới cho một người đã đi vào một cuộc sống mới do một nhiệm vụ mới (x. St
17,5.15; Ds 13,16; 2 V 24,17). Với lời tuyên xưng do Chúa Cha ban
và với một nhiệm vụ mới do Đức Giêsu trao, có thể nói một cuộc
sống mới đã bắt đầu với Simôn. Đức Giêsu trong tư cách Đức Chúa ban cho ông một
tên liên hệ đến bản chất của nhiệm vụ của ông.
Nhiệm vụ này được mô tả với ba hình ảnh.
(1) Phêrô là tảng đá, trên đó Đức Giêsu sẽ xây dựng Hội Thánh Người (c.
18). Hội Thánh, cộng đoàn những người tin vào Đức Giêsu, diễn tả cùng một lời
tuyên xưng như Phêrô, ở đây được ví với một tòa nhà. Đức
Giêsu sẽ dựng lên tòa nhà, nhằm quy tụ các tín hữu Người. Nền móng của tòa nhà này là đích thân Phêrô, như một con
người sống, đã được Thiên Chúa ban cho lời tuyên xưng chân thật. Ông phải cung cấp sự chắc chắn và bền bỉ cho cộng đoàn các tín hữu.
Với cộng đoàn này, Đức Giêsu hứa ban cho sự bền bỉ trường tồn: quyền lực sự
chết và sự tàn tạ sẽ không chạm tới cộng đoàn này được.
Với hình ảnh (2) các chìa khóa (c. 19), Đức Giêsu
không muốn nói rằng Phêrô được giao cho nhiệm vụ giữ cửa trời, nhưng được đặt
như là người quản lý thay mặt chủ nhà và hành động theo sự ủy quyền của ông chủ
(x. Is 22,22). Trong cộng đoàn các tín hữu, ông
phải hành động thay cho Đức Chúa; (3) ông phải ràng buộc và tháo cởi (c.
19b); thậm chí ông có quyền và có nhiệm vụ tuyên bố điều gì bị cấm và điều gì
được phép đón vào trong cộng đoàn Hội Thánh. Trong Bài Giảng trên núi và trong
các giáo huấn khác, Đức Giêsu chỉ bận tâm tỏ bày ý muốn của Thiên Chúa và trình
bày cho thấy những cách sống cần thiết để được vào Nước Trời (x. 5,20; 7,21). Phêrô phải tiếp tục nhiệm vụ
này. Giáo huấn của ông đòi hỏi đến mức có thể loại trừ khỏi cộng đoàn
những ai không theo và có thể đưa trở lại cộng đoàn
những ai hối lỗi. Đức Giêsu không bỏ mặc cộng đoàn các tín hữu, nhưng ban cho
cộng đoàn này một người lãnh đạo có uy quyền lớn lao.
* Kết: Lệnh cấm (20)
Niềm tin của đám đông
rõ ràng còn phiến diện, nhưng niềm tin của các tông đồ cũng chưa hoàn chỉnh. Nhất là trong Mc (“Thầy là Đức Kitô”) và trong Lc
(“Thầy là Đức Kitô của Thiên Chúa”), niềm tin ấy dường như còn bám rễ vào một
quan niệm Thiên Sai ái quốc và duy quốc gia. Do đó đến cuối Đức
Giêsu đã buộc các ông phải im lặng, không được nhắc đến các khẳng định ấy (Mc
8,30; Lc 9,21). TM Mt
cũng có lệnh cấm tương tự, bởi vì một lời tuyên xưng đúng đắn vẫn không
đảm bảo cho một đức tin trung thực. Và điều này được chứng minh
ngay sau đó, qua phản ứng của Phêrô khi nghe Đức Giêsu loan báo Thương Khó (x.
16,22).
+ Kết luận
Do sự kiện là qua trung gian Phêrô, các tông đồ khám phá ra
ý nghĩa của danh xưng huyền bí “Con Người” và nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia
siêu việt, các ông đã tách ra khỏi những người Do Thái không tin, các ông đã
trở thành phần “Dư tồn” từng được các ngôn sứ loan báo và hứa sẽ được nhận ơn
cứu độ. Từ đó, Đức Giêsu có thể giao phó cho Phêrô quyền
“ràng buộc” và “tháo cởi”. Do một sự hạ cố đầy ưu ái của Thiên
Chúa, quyền chìa khóa này dựa trên đức tin của Phêrô, vừa là người có tội vừa
là người có đức tin.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Hội Thánh, cộng đoàn
các tín hữu, vẫn thuộc về Đức Kitô; chính Người quy tụ, xây dựng, điều khiển,
còn Phêrô là tảng đá trên đó các yếu tố khác nhau của Hội Thánh được thu gom
lại và kết cấu hài hòa. Nhưng chính vì thế, vai trò của Phêrô
rất quan trọng. Trong Hội Thánh trần thế, là con đường
đưa tới Nước Trời, không phải mọi sự đều tinh trong hoặc đã hoàn tất. Phêrô có vai trò phục vụ sự biện phân. Chính
ông phê phán là các thành viên Hội Thánh đang sống phù hợp với dự định của Đức
Kitô hay không.
2. Bảo rằng mình có thể
đi tới với Đức Kitô không cần qua Hội Thánh, bảo rằng mình có thể trực tiếp tự
mình gặp Đức Giêsu không cần nhờ đến Giáo Hội, là liều lĩnh. Làm như thế là xây
dựng cho mình một Đức Kitô theo tầm mức của mình, là tưởng tượng ra một
Đức Chúa cho vừa vặn với lòng dạ mình, là từ khước Đức Giêsu như Người đã
tự mạc khải ra cho chúng ta.
3. Quyền chìa khóa được
ban cho các mục tử là để phục vụ việc đi theo Đức
Kitô, trở thành môn đệ của Người, chứ không phải là quyền sinh sát trên đoàn
chiên. Quyền này được trao ban để phục vụ sự sống, chứ không phải để ép buộc
đoàn chiên phải đi theo sở thích hoặc ngẫu hứng của
riêng mình. Quyền bính là phương tiện phục vụ sự tăng trưởng
(auctoritas, do động từ augere có nghĩa là “làm lớn lên”).
4. Hội Thánh là thực
tại nhỏ bé nhất, nghèo hèn nhất, yếu đuối nhất, vì quy tụ quanh một máng
cỏ và một cây thập giá. Nhưng Hội Thánh cũng là thực tại cao cả nhất, giàu
có nhất, vinh hiển nhất, mạnh mẽ nhất, bởi vì con trẻ sinh ra trong máng cỏ,
con người chịu đóng đinh trên đồi Sọ, đã sống lại, và đang hiển trị trên muôn
loài muôn vật.
5. Trong buổi tiếp kiến
ngày 7-6-2006, Đức giáo hoàng Bênêđitô XVI đã dạy: “Anh là Phêrô, và trên tảng
đá này Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy… Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước
Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới
đất, anh tháo cởi điều gì; trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”. Ba ẩn dụ Đức
Giêsu vận dụng rất rõ ràng: Phêrô sẽ là nền móng, đá tảng, trên đó tòa nhà Hội
Thánh dựa vào; ngài sẽ có chìa khóa Nước Trời để mở ra hay đóng lại cho người
nào mà ngài thấy dường như là đúng; cuối cùng, ngài có thể cầm buộc hoặc tháo
cởi, theo nghĩa là ngài có thể quy định hoặc cấm đoán điều gì ngài nghĩa là cần
thiết đối với đời sống Hội Thánh, hiện là và vẫn là Hội Thánh của Chúa Kitô.
Sau cuộc Phục Sinh, ta
cũng thấy sự cao trọng ấy mà Đức Giêsu đã muốn gán cho Phêrô (Mc 16,7; Ga 20,2.4-6)… Trong số các tông đồ, Phêrô sẽ là chứng
nhân đầu tiên về cuộc hiện ra của Đấng Phục Sinh (Lc 24,34;
1 Cr 15,5). Vài trò của ngài, được cương quyết nêu bật (Ga 20,3-10), ghi dấu sự
nối tiếp giữa tư cách cao trọng ngài đã có trong nhóm các tông đồ và sự cao
trọng ngài sẽ tiếp tục có trong cộng đoàn sinh ra với các biến cố Phục Sinh…
Nhiều bản văn chìa khóa liên hệ đến Phêrô có thể đưa trở lại khung cảnh là Bữa
Tối cuối cùng, trong đó Đức Kitô ban cho Phêrô tác vụ là củng cố anh em (Lc
22,31t)…
Việc đặt vị trí tối
thượng của Phêrô vào khung cảnh là Bữa Tối cuối cùng, vào lúc thiết lập Bí tích
Thánh Thể, Cuộc Vượt Qua của Chúa, cho thấy thêm nữa ý nghĩa tối hậu của vị trí
trí tối thượng ấy: cho mọi thời, Phêrô phải là người gìn giữ sự hiệp thông với
Đức Kitô. Ngài phải đưa đến sự hiệp thông với Đức Kitô.
Ngài phải quan tâm để tấm lưới đừng bị rách (Ga 21,11)
và nhờ thế, sự hiệp thông phổ quát có thể trường tồn. Chỉ nhờ
ở cùng với nhau, chúng ta mới ở với Đức Kitô, là Chúa của mọi người. Như thế trách nhiệm của Phêrô là bảo đảm sữ hiệp thông với Đức Kitô
bằng tình bác ái của Đức Kitô, bằng cách đưa đến chỗ thực hiện tình bác ái này
trong đời sống mỗi ngày. Chúng ta hãy cầu nguyện để cho vị trí tối
thượng của Phêrô, được ký thác cho những con người nghèo hèn, có thể được thực
thi theo nghĩa nguyên thủy như Chúa muốn, và như thế để cỏ thể ngày càng được
nhận biết theo nghĩa đúng dắn bởi các anh em chưa hoàn toàn hiệp thông với
chúng ta”.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm