cám dỖ tẠi hoang địa
(Mátthêu 4,1-11
– CN I MC - A)
1.-
Ngữ cảnh
Đoạn văn này nằm trong Phần Mở của Tin Mừng Mt,
mà chúng ta có thể xác định vị trí theo lược đồ sau đây:
A
= Lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả và câu trích Is 40,3 (3,1-4)
B = Gioan và Đức Giêsu: cuộc đối đầu giữa các niềm hy
vọng Đấng Mêsia (3,5-15)
C = Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha đăng quang Mêsia, với
câu nhắc đến Is 42,1 (3,16-17)
B’= Đức Giêsu và ma quỷ: Loại trừ niềm hy vọng Đấng Mêsia
trần tục (4,1-11)
A’= Lời rao giảng của Đức Giêsu và câu trích Is 8,23–9,1
(4,12-17). Kết luận và chuyển mạch (4,18-25).
Trong phân
đoạn này, tác giả Mt đã vận dụng các đoạn Cựu Ước mà ta có thể thấy qua
bảng đối chiếu sau:
Mt
4,1 |
Đnl
8,2-3 |
Mt
4,2 |
Xh
34,28; x. Đnl 9,9 |
Mt
4,4 |
Đnl
8,3 |
Mt
4,6 |
Tv
91,11-12 (LXX) |
Mt
4,7 |
Đnl
6,16 |
Mt
4,8 |
Đnl
34,1 |
Mt
4,10 |
Đnl
6,13 |
Mt
4,11 |
Xh
11,14; x. Đnl 32,11; Tv 91,10-11 |
2.- Bố cục
Bản
văn có thể chia thành năm phần:
1) Mở
(4,1-2);
2)
Cám dỗ thứ nhất (4,3-4);
3)
Cám dỗ thứ hai (4,5-7);
4)
Cám dỗ thứ ba (4,8-10);
5) Kết
(4,11).
3.- Vài điểm chú giải
-
Thần Khí dẫn vào hoang địa (1): Chính là Thần Khí đã xuống trên Đức
Giêsu tại sông Giođan nay dẫn (anagô) Người vào hoang địa.
-
hoang địa (1): Đây là một đề tài quan trọng của Kinh Thánh, vì
hoang địa gây ảnh hưởng trong suốt lịch sử Dân Thiên Chúa. Lịch sử này đã ghi
lại hai kỷ niệm có vẻ mâu thuẫn nhau, nhưng thật ra là hai mặt của cùng một hoàn
cảnh. (1) Thời gian ở trong hoang địa trước tiên được trình bày như là thời kỳ
sống lý tưởng của Dân được Thiên Chúa tuyển chọn. Trong thời kỳ này, lý tưởng
tôn giáo của họ phát triển phong phú và họ sống lý tưởng này ở mức hoàn hảo.
(2) Thời kỳ này cũng còn được coi như một thử thách, thậm chí một hình
phạt dành cho tội lẩm bẩm kêu ca và bất phục tùng. Quả thật, hoang địa vừa là
nơi con người tách mình khỏi trần thế để được thanh luyện, vừa là nơi thử
thách.
- để
chịu quỷ dữ cám dỗ (1): Đây là một sự chọn lựa nằm trong chương trình của
Thiên Chúa. Tư cách Mêsia của Đức Giêsu cần được thử thách. Và sự thử thách này
là một chặng cần thiết trong ơn
gọi của Đức Giêsu, trong tư cách
- quỷ
dữ (1): Từ ngữ Hy Lạp diabolos có nghĩa là “kẻ vu khống”,
“kẻ tố cáo” (động từ diaballô, “tố cáo”; “kết án”). Bản LXX đã dùng
diabolos để dịch từ Híp-ri satan (HL satanas). Trong Kinh
Thánh, “quỷ” xuất hiện ra như là kẻ tố cáo (x. Dcr 3,1-5; G 1–2; Tv
109,6), ông hoàng của thế gian (Ga 12,31; 14,30), tên cám dỗ (G
1,8-12; 2,1-6; 2 Sm 24,1tt; 1 Sb 21,1; Kn 2,24; 1 Tx 3,5;
1 Cr 7,5; 2 Cr 11,3-15; Rm 16,17-20…). Dù với tên gọi nào,
“quỷ” cũng là một “đối thủ” (nghĩa nguyên thủy của từ satan), một
kẻ thù của Thiên Chúa và của loài người, nghĩa là chống lại sự thiện. Xem
trong Mt: 6,13; 8,28; 12,22; 12,24; 13,25; 16,23…
-
Người ăn chay suốt bốn mươi ngày bốn mươi đêm (2): Con số 40 chỉ
một thời gian khá dài và có sắc thái là một sự hoàn tất với kết
quả tích cực là giải aphóng và xây dựng con người. So với Lc, Mt
thêm “bốn mươi đêm” để ám chỉ thời gian Đức Giêsu ở trong hoang địa tương đương
với thời gian Môsê ăn chay trên núi cao để rồi sau đó được Đức Chúa ban cho các
điều khoản của Giao ước (Xh 34,28; x. Xh 25,18). Nhưng cũng có
thể Mt muốn ám chỉ đến Êlia nữa (x. 1 V 19,8: ăn chay trong hành
trình tiến về núi Khôrép). Hai dung mạo vĩ đại này, đại diện cho Lề Luật và các
Ngôn sứ, sẽ tái xuất hiện trong cuộc Hiển Dung của Đức Giêsu (cuộc Hiển Dung
này chính là cuộc thần hiển. Sau đó sẽ có việc thiết lập Giao Ước mới nhờ cuộc
Khổ Nạn–Phục Sinh của Đức Giêsu). Có lẽ Mt muốn nói rằng việc Đức Giêsu
ăn chay đã tóm kết cách nào đó kinh nghiệm của Môsê và Êlia, cũng như các cám
dỗ sẽ tóm kết lịch sử của
- Nếu
ông là Con Thiên Chúa (3): Cám dỗ này do bởi quỷ và thử thách dưới chân thập giá do
bởi người Do Thái (Mt 27,40) song song với nhau: chúng nhắm đến tư cách
Mêsia của Đức Giêsu. Đây cũng là một lời thách thức Đức Giêsu làm lại
các cử chỉ của Môsê, để chứng tỏ thời đại thiên sai đã đến. Không có lời nhắc
đến man-na, nhưng câu trả lời của Đức Giêsu khiến nghĩ đến man-na.
- đã
có lời chép rằng (4): Gegraptai là thì hoàn thành (perfect) ở thái bị động
của động từ graphô, “viết”. Thái bị động này thay tên Thiên Chúa, nên có
thể hiểu là “Thiên Chúa đã viết”.
-
vinh hoa của các nước ấy (8): Doxa (HL), “vinh quang”, đây
là một từ ngữ Kinh Thánh để chỉ sự lộng lẫy huy hoàng hoặc giàu sang,
sung túc, được tỏ ra bên ngoài.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở
(1-2)
Bản
văn này được liên kết với bài tường thuật về phép Rửa. Tại sông Giođan, Thần
Khí Thiên Chúa đã được ban cho Đức Giêsu, nay cũng Thần Khí ấy lại dẫn Người
vào hoang địa. Chiều hướng của bản văn là: Bởi vì Đức Giêsu đến hoàn tất nỗi
chờ mong của dân Người, nhất thiết Người phải đảm nhận mọi chiều kích của lịch
sử dân Người: ở tại Ai Cập (2,13-15), đi qua sông Giođan (3,13-17), cám dỗ
trong hoang địa (4,1-11). Qua các cám dỗ, Đức Giêsu cho thấy Người chấp nhận
trọn vẹn thánh ý Chúa Cha; Người loại trừ mọi thứ cung cách Mêsia mà Thiên Chúa
không muốn (mà chính Gioan Tẩy Giả đã hình dung), để chấp nhận làm một Mêsia
chịu đóng đinh.
Tất
cả bài tường thuật về ăn chay và cám dỗ tập trung vào các biến cố của cuộc Xuất
Hành. Dân Israel cũng là “con yêu dấu của Thiên Chúa”, nhưng tất cả hành trình
trong hoang địa cho thấy họ đã là một đứa con nổi loạn và thất trung (x.
Đnl 6,16; 17,2.7; ch. 32–34; Ds 14,22; các Tv: Tv
78,18-41; 81,11; 95,8; 96,6; các ngôn sứ: Gr 7,22; Ed 20,5; Is
63,10. Xem các tác giả Tân Ước: Dt 3,16; Gđ 5). Quả thật, ngôn
ngữ của câu đầu đã khiến chúng ta nhớ đến Đnl 8,2 (LXX) và như ám chỉ
đến hoàn cảnh của
Sức
con người có thể nhịn ăn nhịn uống được đến thế? Chắc chắn là có, như trường
hợp thánh Phanxicô Assisi sau này. Nhưng ở đây, tác giả còn muốn nói một điều
khác: cũng như trong trường hợp Môsê, ở đây chính Thiên Chúa nâng đỡ Đức Giêsu,
vì Người tin tưởng gắn bó với Thiên Chúa. Nếu như thế, cảm giác đói sau bốn
mươi ngày, chính là một thử thách: Phải chăng Thiên Chúa đã bỏ rơi Đức
Giêsu? Cám dỗ thứ nhất được tháp vào điểm này.
* Cám
dỗ thứ nhất (3-4)
Trong
cám dỗ này, quỷ thách thức Đức Giêsu lặp lại các cử chỉ của Môsê, nhưng không
phải bằng cách làm mưa man-na, nhưng bằng cách rút bánh ra từ các tảng đá. Đây
cũng là một thách thức nhắm vào tư cách Mêsia của Đức Giêsu. Từ ngữ
“nếu” nhằm gieo một sự hoài nghi vào tâm trí Đức Giêsu (x. Mt
27,40). Trong cả hai trường hợp, ở đây và trên thập giá, quỷ (ở đây; trên đồi
Sọ: quỷ hiện thân nơi “những người qua lại”) thúc đẩy Đức Giêsu sử dụng những
quyền lực thiên sai để thoát khỏi một hoàn cảnh nguy hiểm (đói ở hoang
địa; chết trên thập giá).
Thiên Chúa đã để cho
* Cám
dỗ thứ hai (5-7)
Sau cám dỗ thứ nhất, Đức Giêsu đã náu
mình vào trong sự che chở của Thiên Chúa. Với câu Tv 91,11, quỷ đề nghị
Người, vẫn trong tư cách “Con Thiên Chúa”, gieo mình từ nóc Đền Thờ xuống đất:
đây hẳn là đáp lại sự chờ đợi của dân chúng, vì họ được loan báo là Đấng Mêsia
sẽ xuất hiện trên núi Sion, cũng được đồng hóa với Đền Thờ (các sách ngụy thư Ét-ra
IV [13,34-37]; Khải huyền Barúc [40,12]). Dù sao đây cũng vẫn là xúi
Đức Giêsu vận dụng sự che chở của Thiên Chúa vào hướng xấu, như Israel đã làm,
khi đòi hỏi Thiên Chúa can thiệp (x. Xh 17,1-7; Ds 14,22; Đnl
6,16; Tv 95,8-11). Đây chính là áp đặt ý muốn của con người cho Thiên
Chúa. Cùng một chiều hướng như thế, trong Mt, có các truyện các
đối thủ Đức Giêsu xin những dấu lạ từ trời (12,38-42) hoặc đề nghị Người xuống
khỏi thập giá (27,49); trong Lc, có giai thoại các môn đệ muốn xin lửa
xuống thiêu hủy thành không hiếu khách (Lc 9,56). Đức Giêsu vẫn dứt
khoát trả lời “không”, bằng câu Đnl 6,16. Người không muốn ép Thiên Chúa
phải can thiệp khi mà Thiên Chúa không định như thế; Người vẫn tiếp tục tín
thác vào Thiên Chúa.
Chúng
ta ghi nhận trong hai cám dỗ đầu, quỷ quy về tư cách “Con Thiên Chúa”, như thế
là xác nhận lời công bố tại sông Giođan (x. 3,17).
* Cám
dỗ thứ ba (8-10)
Cám dỗ cuối cùng không còn chút che
đậy nào nữa: quỷ đề nghị Đức Giêsu thờ phượng nó. Cám dỗ này gồm tóm khát vọng
cổ xưa nhất của
* Kết
(11)
Câu kết của bản văn là một ghi
chú thần học hơn là một sứ điệp lịch sử. Sự thống trị mà Đức Giêsu đã từ
chối nay vẫn được ban cho Người. Trong tâm thức dân gian, các thiên sứ là những
tôi tớ của Thiên Chúa (x. Mt 16,27), bây giờ đến phục vụ Đức Giêsu, lệ
thuộc Người. Đức Giêsu không nhận một vương quyền trần thế, nhưng chia
sẻ chính quyền thống trị của Thiên Chúa.
Rõ
ràng Nước Trời đã đến gần loài người, bởi vì thiên triều đang vây quanh Người
Con yêu dấu của Thiên Chúa. Nhưng các thiên sứ chỉ can thiệp sau khi Đức Giêsu
đã chiến thắng cám dỗ. Sau này, khi Người đã thắng được cám dỗ muốn vận dụng
“hơn mười hai đạo binh thiên thần” (26,53) để tránh thoát thập giá, khi Người
vẫn phó thác cuộc đời vào tay Chúa Cha, các thiên sứ lại đến hầu hạ Người, qua
việc loan báo tin mừng Phục Sinh cho các môn đệ (x. 28,2-7).
+ Kết
luận
Các cám dỗ nhắm tấn công Đức Giêsu
trong tư cách Mêsia và Người Con vâng phục và trung thành của Thiên Chúa. Quỷ
xúi Đức Giêsu lạm dụng lời quyền năng của Người, rồi xúi Người ỷ lại vào quan
hệ giữa Người với Thiên Chúa, và cuối cùng, xúi Người bỏ đi lòng trung nghĩa
với Thiên Chúa. Chiến thắng của Người rất quan trọng. Nó xóa đi những bóng tối
đã tích tụ lại trong lịch sử dân Thiên Chúa và nó cũng gợi ra chiều hướng dấn
thân phục vụ ơn cứu độ. Thay vì chọn làm một Mêsia-Phù thủy hay một Mêsia-Thủ
lãnh, Đức Giêsu chọn làm Mêsia-Tôi tớ khiêm nhường. Khi đó, Người vẫn là Người
Con vâng phục, và cũng là
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Trung thành đọc và suy gẫm Lời Chúa, chúng ta sẽ khám phá ra liên tục lòng nhân
ái của Thiên Chúa đối với chúng ta. Từ đó, chúng ta có thể yên tâm phó thác
cuộc sống cho Ngài, không phải tính toán để bảo vệ cuộc sống mình, để rồi rơi
vào các cám dỗ. Cám dỗ luôn luôn xoay quanh Lời Chúa, hoặc để vi phạm hoặc để
lái Lời Chúa khỏi ý nghĩa đúng đắn. Con rắn mưu mô trong St 3 đã bóp méo
Lời Chúa: “Có thật Thiên Chúa bảo: ‘Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây
trong vườn không? … ‘Chẳng chết chóc gì đâu! Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông
bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra…” (St 3,1.5). Tên cám dỗ trong
bài Tin Mừng Mt đã bảo Đức Giêsu dùng Lời Chúa để biến đá thành bánh
hoặc đã uốn nắn ý nghĩa của Thánh vịnh để đưa Đức Giêsu đến chỗ thử thách Thiên
Chúa. Đức Giêsu không áp đảo Lời Chúa; Người vâng phục Lời Chúa, Người nhận Lời
Chúa từ Thiên Chúa.
2.
Quỷ đã đề nghị cho Ađam trở thành Thiên Chúa (St 3,5). Nó cũng gợi ý cho
Đức Kitô sử dụng quyền lực thiên sai của mình như một đặc quyền hay như
một vũ khí. Nói cho cùng, tội lỗi luôn luôn là một ý chí hùng
cường. Thế mà Thiên Chúa lại cứu con người khỏi tội lỗi bằng sự yếu đuối của
Đức Kitô. Muốn được Thiên Chúa can thiệp tức khắc vào đời sống mình có nghĩa là
nghi ngờ sự quan phòng thông thường của Ngài, nghi ngờ quyền năng và lòng nhân
lành của Ngài. Ai thử thách Thiên Chúa, thì không có đức tin hoặc có một đức
tin đang chao đảo, nên mới chờ đợi các phép lạ.
3.
Các cám dỗ không chỉ là chuyện một ngày hay bốn mươi ngày, mà là cả đời
Đức Giêsu. Luôn luôn có những sức mạnh bên ngoài, như các môn đệ (Mt
16,22), các kẻ thù (12,38; 27,41), và cả những khát vọng của bản thân Người
(26,39; 27,46) tìm cách đưa Người đi theo nẻo đường quỷ vạch ra cho Người.
Người đã chọn, Người sẽ phải liên tục chọn nói “không” với quỷ và thưa “xin
vâng” với Chúa Cha (x. Dt 5,8).
4.
Đức Giêsu nói “không” với quỷ, nhưng cũng phải nói “không” với chính mình, bởi
vì con đường Người theo kềm hãm các khát vọng và những đòi hỏi của bản tính tự
nhiên. Các phản ứng của Người trước đau khổ, những tủi nhục, những thất bại,
thì cũng giống như mọi người. Người không thể phạm tội, nhưng Người có thể chọn
con đường chung của mọi người, là sự thỏa thuê. Vinh quang không phải là một
tội, mà còn là một quyền Người có thể dùng. Sự rút lui của quỷ chứng
tỏ đây không những là một chiến thắng của chủ trương Mêsia khiêm nhường
và phục vụ như tôi tớ, mà còn là một chiến thắng riêng của Đức Giêsu.
Người đã không nhường bước cho một nẻo đường tiện nghi thoải mái, đã
không muốn hưởng trước một thành công; nhưng Người đã tôn trọng con đường đã
được chọn cho Người dù phải hy sinh, thiệt thòi. Rời khỏi hoang địa, không
những Người được thánh hiến mà còn đủ tư cách Mêsia.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm