chương
trình hoẠt đỘng cỦa ĐỨc Giêsu
(Mt 4,12-23 – CN III TN - A)
1.- Ngữ cảnh
Nói tổng quát, bốn chương đầu của Mt là Mở đầu cho toàn Tin Mừng I.
Về ngữ cảnh của đoạn văn
chúng ta đọc hôm nay, chúng ta có thể xác định như sau: Trong ch. 1–2, sau khi
đã dùng một thứ Diễn văn ngôn sứ rút ra từ Cựu Ước mà cho thấy làm thế nào Lời
Chúa đưa lại ý nghĩa cho “xuất xứ của Đức Giêsu Kitô, con cháu vua Đavít, con
cháu tổ phụ Abraham” (1,1-17) và thực hiện chương trình của Người xuyên qua
lịch sử loài người (1,18-25), sang ch. 3–4, Mt cho chúng ta thấy rằng,
khi đến tuổi trưởng thành, Đức Giêsu đã đảm nhận trách nhiệm về sứ mạng của
Người trước nhan Thiên Chúa Cha, Đấng đã sai phái Người. Những gì Kinh Thánh đã
nói về Người, Người sẽ hoàn tất cách ý thức và tự do. Được đầy Thánh Thần,
Người sắp được Chúa Cha bổ nhiệm làm Đấng Mêsia chân chính đi đáp ứng nỗi niềm
chờ mong của dân chúng.
2.- Bố cục
Bản
văn có thể chia thành bốn phần:
1)
Galilê, địa bàn hoạt động của Đức Giêsu (4,12-16);
2)
Đối tượng chính của lời Đức Giêsu rao giảng (4,17);
3)
Những người đầu tiên được nhận lời rao giảng (4,18-22);
4)
Các hình thái chính của hoạt động của Đức Giêsu (4,23).
3.- Vài điểm chú giải
- Khi
Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp (12): Trong các đoạn Mt 10,4; 17,22; 20,18-19; 26,2, tác giả
cũng nói rằng Con Người “bị nộp” (paredothê); như thế, Gioan Tẩy Giả và
Đức Giêsu có chung một số phận. Dạng bị động hàm ý biến cố thuộc về ý
muốn của Thiên Chúa: chương trình của Thiên Chúa đã được hoàn tất trong cuộc
đời Gioan, cũng như sau này, sẽ được hoàn tất trong cuộc đời Đức Giêsu. Hơn
nữa, hai sứ vụ được liên kết với nhau trong chương trình của Thiên Chúa: Đức
Giêsu bắt đầu hoạt động công khai vào lúc Thiên Chúa cho chấm dứt sứ vụ của
Gioan.
-
Người lánh qua (anachôreô, “lui về”) (12): Miền Giuđê là pháo đài của
Do Thái giáo chính thức, với hai nhóm bảo vệ là Pharisêu và Xađốc. Đã bắt được
Gioan, hẳn là họ sẽ tìm cách loại trừ cả Đức Giêsu. Vì thế, Người quyết định
khởi đầu sứ vụ tại miền Galilê, nơi mà ảnh hưởng của Thượng Hội Đồng và của
nhóm Pharisêu không mạnh bao nhiêu. Khi sử dụng động từ anachôreô ở đây
như ở 2,12 (x. 9,24; 12,15; 15,21;…), rất có thể Mt cho hiểu rằng chính
thái độ cứng tin của miền Giuđê (dưới ảnh hưởng của phái Pharisêu, tỏ ra bằng
việc loại trừ Gioan) đã khiến Đức Giêsu phải ngỏ lời với “Galilê, miền đất của
dân ngoại”.
- bỏ
Nadarét (13): Không phải là Người bỏ rơi, nhưng là không chọn Nadarét
làm khởi điểm cho sứ vụ. Đức Giêsu chọn Caphácnaum: Mt chuẩn bị đưa vào
sấm ngôn Is 8,23–9,1. Caphácnaum
chính là miền đất xưa kia hai chi tộc Dơvulun và Náptali đã cư ngụ (x. Gs 19,10-16.32-39). Mt trích sấm
ngôn Isaia này là để trả lời vấn nạn vì sao Đức Giêsu chọn miền Galilê
làm nơi sân khấu chính để khởi đầu hoạt động của Người: điều đó nằm trong
chương trình của Thiên Chúa (như sấm ngôn Is đã loan báo).
- Dơvulun … Náptali
(15-16): Hai chi tộc này chiếm phần lớn miền Galilê, đã bị đế quốc Átsua thôn
tính vào năm 734, và sau đó bị hy-hóa vào thời các triều vua dòng họ Sêlêukhô.
Từ đó họ đã bị Dân Ngoại tràn ngập. Ngôn sứ Isaia
(ch. 8 và 9) đã loan báo ngày giải phóng. Mt thấy chính Đức Giêsu sẽ
giải phóng họ, không phải về phương diện chính trị quân sự, mà là về tôn giáo.
-
Galilê, đất của dân ngoại (15): Đối lại với Giuđê tinh tuyền về
giống nòi, Galilê trở thành biểu tượng của cuộc quy tụ phổ quát: đây là Đất Hứa
đang mở ra với Đức Giêsu, là Israel chân chính, sau khi Người đã ở trong hoang
địa và vượt qua sông Giođan. Chúng ta gặp một đề tài quen thuộc của Mt:
Đức Giêsu ngỏ lời trước tiên với các chiên lạc nhà Israel (x. 10,6; 15,24).
- một
ánh sáng huy hoàng (16): Ánh sáng này sẽ xuất hiện ra với các môn đệ vào cuộc Hiển
Dung (x. 17,2) và còn xuất hiện huy hoàng rực rỡ hơn nữa vào Ngày Phục Sinh.
- Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần (17): Công thức này tương tự
với công thức ở 3,2 (Gioan Tẩy Giả) và 10,7 (các môn đệ). Bằng cách đó, tác giả
Mt khẳng định sự tiếp nối của các sứ mạng: việc rao giảng của Gioan
chuẩn bị cho việc rao giảng của Đức Giêsu, và việc rao giảng của các môn đệ nối
dài sứ điệp của Đức Giêsu.
-
Nước Trời (17): Đây là cách Mt nói quanh để tránh gọi tên Thiên
Chúa, nên “Nước Trời” chính là “Nước Thiên Chúa” (nhưng cũng có bốn lần ông
dùng cụm từ “Nước Thiên Chúa”: 12,28; 19,24; 21,31.43). Basileia có thể
dịch ra là “triều đại, vương quyền, vương quốc”. Còn “trời” (tôn ouranôn)
không có nghĩa là “Nước” này thuộc về thiên giới, nhưng có nghĩa là Đấng đang ở
trên trời (5,48; 6,9; 7,21) thì đang trị vì trên thế giới. Do trung thành với
truyền thống Cựu Ước, Mt biết rằng vương quyền luôn luôn thuộc về Thiên
Chúa (x. Tv 22,29; 103,19; 145,11-13). Đây là sứ điệp chính của Đức Giêsu:
Người loan báo “Nước” (Triều Đại) này đang/đã đến và chính Người thực hiện
trong tư cách là Con Người (x. 26,64; Đn 7,13-14 [LXX]: Mt 28,18). Trong Mc
và Lc, có những chỗ Đức Giêsu đã công bố Nước Thiên Chúa như là một thực
tại thuộc về tương lai (x. Mc 14,25; Lc 11,2; …), và có những chỗ Người lại
bảo đó là một thực tại đang có trong hiện tại nơi sứ vụ và nơi bản thân
Người (x. Lc 7,18-23; 10,23t…). Do
dựa trên loạt bản văn thứ nhất hoặc thứ hai mà có hai lý thuyết ở hai đối cực:
“thời cánh chung đã đến” và “thời cánh chung đang đến”.
- đã
đến gần (engiken, 17): Engiken
là thì hoàn thành của động từ engizô, “đến gần”. Đây là một từ
vẫn đang gây nhiều tranh luận. Các bản dịch khá khác nhau: “est tout proche”
(BJ), “s’est approché” (TOB), “is at hand” (King James 1611; NAB 1988), “is
fast approaching” (để nêu bật tính cấp bách: x. Albright trong Anchor Bible),
“is near, is at hand” (Zerwick). C.H. Dodd cho rằng engiken được dịch từ
một động từ A-ram có nghĩa là “đạt tới; đến”. Vì thế, ông dịch là “Nước
Trời đã đến”. Nhưng engizô (do tính từ engys, “gần”) có nghĩa là
“đến sau; tiến lại gần”; do đó, đa số các nhà chú giải chọn cách dịch là “Nước
Trời đã gần (đến)”.
- Cc.
16-22: Truyện Đức Giêsu kêu gọi các môn đệ đầu tiên được kể theo mẫu
các ơn gọi ngôn sứ trong Cựu Ước (x. Êlisa: 1
V 19,19). Bài này không nói đến chiều kích tâm lý, nhằm làm nổi bật lời kêu
gọi của Đức Giêsu và lời đáp gắn bó bằng đức tin hơn. Lược đồ này diễn tả tương
quan tiêu biểu giữa Đức Giêsu và người môn đệ lý tưởng: Thầy vừa lên tiếng gọi,
môn đệ bỏ mọi sự mà đi theo ngay, không lưỡng lự, không thắc mắc. Đức Giêsu chỉ
yêu cầu các ông đi theo Người và sống với Người, và chỉ sai phái các ông đi loan
báo Tin Mừng sau Phục Sinh (khác với Mc
6,12-13 và Lc 9,6). Khi viết như thế,
có lẽ Mt muốn ưu tiên nêu thật rõ dung mạo có một không hai của Thầy.
- những kẻ lưới người như lưới cá (19): Phải chăng đây là một
ám chỉ đến sách Êdêkien (47,10)?
Bản dịch TOB bảo hiểu Mt
4,19 và Lc 5,10 theo Mc 1,17 (chú thích c): hình ảnh tiêu cực
và như đe dọa (x. Kb 1,15.17; Gr 16,16) để diễn tả rằng các tông đồ sẽ đi rao
giảng Tin Mừng hầu quy tụ người ta lại mà chịu phán xét và được vào Nước Thiên
Chúa (x. Mt 13,47-50). Nhưng nếu hiểu theo Lc 5,10, thì ý nghĩa tích cực hơn
nhiều: động từ zôgreô (do zôos, “sống”, và agreô, “bắt”)
có nghĩa là “bắt (mà cứu sống)” (Zerwick). Có lẽ cũng nên hiểu Mt 13,47-50 theo hướng này.
Dù
sao, có thể nói rằng Nước Trời như đã được thiết lập khi Đức Giêsu kêu gọi các
môn đệ, bởi vì Nước Trời chủ yếu là một cộng đoàn gồm những con người
quy tụ quanh Đức Giêsu trong sự hiệp thông với Chúa Cha.
-
khắp miền Galilê (23): Đức Giêsu đến nhắm ngỏ lời với toàn thể dân Người trong khắp
xứ (chứ không như các kinh sư Do-Thái).
- giảng dạy … chữa … (23): “Đức Giêsu đi khắp miền Galilê / các thành thị, làng
mạc / giảng dạy (didaskôn, participle) trong các hội đường của họ, rao
giảng (kêryssôn, part.) Tin Mừng Nước Trời, và chữa (therapeuôn, part.)
hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân” (4,23 và 9,35). Câu này đóng khung khối
từ ch. 5 đến ch. 9. Năm chương này làm thành một đơn vị về văn chương và đề
tài. Nội dung của đơn vị này sẽ nhắc lại và triển khai ba phân-từ (participle)
chứa trong câu tổng hợp này.
Giáo huấn của Bài Giảng trên núi (ch. 5–7) và những cuộc chữa bệnh (ch. 8–9: 10
phép lạ) là hai hình thái của Tin Mừng về Nước Trời. Đức Giêsu công bố Nước
Trời bằng lời nói (ch. 5–7) và bằng hành động (ch. 8–9). Bài Giảng trên núi
minh họa đặc biệt những điều kiện để gia nhập và phát triển trong Nước Trời. Có
thể nói Bài Giảng này nối dài câu “Anh em hãy sám hối (hoán cải)”, Bài Giảng
này như là lời đáp của con người khi Nước Trời đến (x. 4,23).
- chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân
(23): Nền văn chương khải huyền thời Đức Giêsu (x. Các Thánh vịnh Salômôn) đầy những ý tưởng về Thiên Chúa là Đấng che
chở người công chính và tránh cho họ khỏi bệnh hoạn và những nghịch cảnh. Hoạt
động chữa bệnh của Đức Giêsu đáp ứng một niềm chờ mong nơi dân chúng,
nhất là thực hiện lời sấm Is về Người Tôi Trung của Đức Chúa mang lấy
bệnh tật của dân (x. Is 53,4), mà ông
đã áp dụng cho Đức Giêsu (x. Mt
8,17).
Còn toàn bộ Tin Mừng cho thấy rằng Đức Giêsu không chọn nguyên tắc là chữa tất
cả các bệnh nhân, y như thể Người muốn cho người ta hưởng nhờ tối đa khả năng
làm phép lạ của Người. Người chỉ thực hiện một số phép lạ chữa bệnh có ý
nghĩa liên hệ đến Nước Trời và quyền bính của riêng Người.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Galilê, địa bàn hoạt động của Đức Giêsu (12-16)
Đức Giêsu đã đến sông Giođan để được Gioan ban phép rửa cho; Người đã dừng lại
ở phía nam Thánh Địa (x. 3,13–4,11). Thế rồi tại sao Người lại trở về để hoạt
động tại miền Galilê, là miền không được coi là quê hương của Đấng Mêsia (x. Ga
7,41.42.52)? Tại sao Người không ở lại miền Giuđê và Giêrusalem, là trung tâm
của dân Thiên Chúa? Mt cho biết là Đức Giêsu rút lui (lánh đi),
Người cảm thấy bị đe dọa và nhường bước cho áp lực của những hoàn cảnh bên
ngoài. Sự đe dọa đã khiến cha nuôi Người phải đổi chỗ ở vào đầu đời Người
(2,13.14.22) và sẽ còn bó buộc Người liên tục rút lui cả trong thời gian hoạt
động công khai (12,15; 14,13). Với các môn đệ sau này, Người dạy họ trốn sang
thành khác, khi bị bách hại (10,23). Cũng như Người, họ phải bố trí đời sống
dựa theo những hoàn cảnh bên ngoài. Nơi số phận của Gioan, đã bị vua Hêrôđê cho
bắt và sẽ cho giết chết theo ngẫu hứng (x. 14,3-12), kết cục cuộc đời Đức Giêsu
đã được loan báo: Người cũng sẽ bị giao nộp vào tay loài người (17,22), cho sự
gian tà và độc ác của họ. Như thế, ngay trên bước khởi đầu hoạt động của Đức
Giêsu, bóng tối của kết cục bi thảm đã được trương ra. Hoạt động của Người được
triển khai dưới dầu chỉ là cuộc Khổ Nạn của Người. Tuy nhiên, tất cả những điểm
này đều thuộc về chương trình của Thiên Chúa: chính Thiên Chúa đã để cho Gioan
và sẽ để cho Đức Giêsu “bị nộp”; sự kiện Gioan bị nộp là như tín hiệu Thiên
Chúa dùng để báo cho Đức Giêsu biết đã đến lúc Người hoạt động.
Cũng
như Người đã đến cư ngụ tại Nadarét (2,22t), nay Đức Giêsu đến hoạt động tại
Galilê và Caphácnaum, do bị bó buộc bởi các biến cố bên ngoài. Trong cả hai trường hợp, tác giả ghi nhận là như
thế, ý muốn của Thiên Chúa do các ngôn sứ loan báo được thể hiện. Cho dù nhiều
lần phải điều chỉ do các bó buộc bên ngoài, hành trình của Đức Giêsu vẫn hoàn
toàn ở dưới sự hướng dẫn của Thiên Chúa. Người đi về vùng ngoại biên Israel,
vào “Galilê, đất của dân ngoại”, tại đó cũng có người ngoại cư ngụ và chung
quanh là các miền đất Dân ngoại. Hoạt động của Người nhắm đến dân Israel (15,24),
nhưng tại đây cũng lan tỏa ra các Dân ngoại và được họ nhận biết (x. 4,24t).
Điều đã được loan báo bởi cuộc viếng thăm của các hiền sĩ (2,1-12) và điều sẽ
được công bố trong sứ mạng cuối cùng của các môn đệ trong liên hệ với muôn dân
(28,19), nay cũng được tỏ hiện tại các nơi chính mà Người hoạt động: Người cũng
là ánh sáng cho Dân ngoại nữa. Tại nơi đã chỉ có bóng tối của tử thần, đã bừng
lên một ánh sáng. Đối với loài người chúng ta, mặc dù chúng ta biết
nhiều, kết cục và ý nghĩa của đời sống hoàn toàn vô phương dò thấu và mờ mịt.
Bằng sứ điệp của Người về Thiên Chúa, Đức Giêsu mang ánh sáng và khai mở sự
sống viên mãn.
* Đối
tượng chính của lời Đức Giêsu rao giảng (17)
Các
lời “Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần” tóm tắt toàn thể sứ điệp của
Đức Giêsu. Tiếng gọi đi trước, nhưng hoàn toàn lệ thuộc lời loan báo, vì dựa
trên lời này (“vì”). Thuật ngữ “Nước Trời” chỉ có trong Mt, tương ứng
với “Nước Thiên Chúa” trong phần còn lại của Tân Ước. Theo cách dùng của người
Do-thái, họ tránh từ “Thiên Chúa” và thay thế bằng “trời” (x. 21,25; Lc 15,18).
“Nước Trời” chính là triều đại hoặc quyền chủ tể của Thiên Chúa như là vua. Tất
cả hoạt động của Đức Giêsu quy chiếu về Triều Đại. Triều Đại không có nghĩa là
một điều gì khác và tách biệt với Thiên Chúa, nhưng là chính Thiên Chúa
trong tư cách Chúa Tể và Vua của dân Người, cùng với các hậu quả của quyền chủ
tể trên dân. Dân thì luôn luôn thuộc về nhà vua; quyền chủ tể vương giả có
nghĩa là dấn thân với lòng tốt và sự quan tâm mà lo lắng cho đời sống của dân,
như một mục tử lo lắng cho đời sống của đàn chiên (x. Tv 23,1).
Triều Đại này đã đến gần, chứ
chưa hoàn toàn hiện diện. Đức Giêsu sẽ dạy họ cầu nguyện “xin triều đại Cha ngự
đến” (6,10). Tuy nhiên, Triều Đại này đã đến gần vĩnh viễn. Thiên Chúa đã quyết
định giương cao Vương quyền này trước mặt tất cả các thế lực khác và thực hiện
Vương quyền này cách công khai và hết sức hữu hiệu. Không còn có thể quay lui,
mà chỉ có thể bước tới cho đến khi Triều Đại này được tỏ hiện trọn vẹn. Thiên
Chúa sẽ không trì hoãn và cứ ẩn mình mãi. Người sẽ không bỏ rơi loài người cho
các thế lực của thiên nhiên và lịch sử, cũng như cho hoàn cảnh trong đó họ phải
quy phục lẫn nhau. Người sẽ chấm dứt tất cả các thế lực này và chính Người sẽ
trực tiếp là Vua và Chúa. Đức Giêsu sẽ làm sáng tỏ bản chất của Triều Đại này
đặc biệt trong sứ điệp của Người về Thiên Chúa như là Cha và trong hoạt động
bác ái của Người để chữa lành và giúp đỡ.
Trước
lời công bố là lời mời gọi: “Hãy hối cải!”. Đức Giêsu mời các thính giả quay về
với Thiên Chúa. Họ phải quay mặt về Người, chăm chú lắng nghe, với lòng tin
tưởng và hy vọng. Con người chỉ có thể hoán cải nếu Thiên Chúa quay về cách
nhưng-không với con người. Tuy nhiên, lời kêu gọi hoán cải được đặt ở đầu, bởi
vì lời đáp của chúng ta với Thiên Chúa là điều tuyệt đối cần thiết, và có thể
thất bại nếu không được nói ra. Hành động của Thiên Chúa thì đã chắc chắn; vì
thế, Đức Giêsu đã nhấn mạnh nhiều trên sự cần thiết phải hoán cải.
*
Những người đầu tiên được nhận lời rao giảng (18-22)
Một trong những điều
kiện căn bản đề Đức Giêsu có thể hoạt động là Người có quanh mình một số
người để họ đi đường với Người thường xuyên, thiết lập với Người một sự
hiệp thông đời sống và có thể trải nghiệm trọn vẹn hoạt động của Người. Đức
Giêsu không hoạt động tùy hứng hay theo ngẫu nhiên, cũng không bắt hoạt động
của Người lệ thuộc những cuộc gặp gỡ tình cờ và chóng qua. Người có một cộng
đoàn môn đệ bao quanh. Lời kêu gọi “Hãy hối cải!” được nhắc lại và được làm
sáng tỏ bởi tiếng gọi “Hãy đi theo tôi!”. Đức Giêsu đã gọi bốn môn đệ đầu tiên
là Simôn và Anrê, Giacôbê và Gioan đi theo Người. Ta sống sự hoán cải
trong khi đi theo Đức Giêsu. Ai theo
Người thì tin tưởng vào Người, bởi vì Người biết kết cuộc và biết con đường phải
theo. Ai đi theo Người thì gắn bó với Người và chấp nhận được Người hướng dẫn.
Khi đi theo Người, các môn đệ được đưa vào trong sứ điệp về Nước Trời và vào
trong việc hoán cải như là câu trả lời đúng đắn với sứ điệp này.
Những
ai đi theo Đức Giêsu thì phải ra khỏi hoàn cảnh sống trước đó và gắn bó với
Người. Tuy nhiên, dây liên kết này không tách họ khỏi những người khác, trái
lại phải chuẩn bị họ cho một nhiệm vụ mới nơi loài người. Đức Giêsu gọi
đi theo Người, đồng thời cho biết ý định của Người: “Tôi sẽ làm cho các anh
thành những kẻ lưới người như lưới cá”(4,19). Xuyên qua cuộc cộng đồng sinh tử
với Người, Đức Giêsu chuẩn bị họ tiếp nối sứ mạng của Người, trong tư cách là
những sứ giả của Người (x. 9,36–10,42; 28,16-20).
* Các hình thái chính của hoạt động
của Đức Giêsu (23)
Hoạt
động của Đức Giêsu được triển khai khắp miền Galilê và được thực hiện qua giáo
huấn, lời giảng và các phép lạ chữa bệnh (4,23). Lời dạy về sự hoán cải đúng
đắn, lời loan báo và giải thích Tin Mừng về Nước Trời, và sự xác nhận các điều
đó nhờ các cuộc chữa bệnh là những điểm chìa khóa của hoạt động của Đức Giêsu.
+ Kết
luận
Là vị
Tiền Hô của Đấng Mêsia, Gioan đã dừng chân tại hoang địa và ở tại sông Giođan
mà làm phép rửa cho những ai đến với ông. Còn Đức Giêsu, Đấng Mêsia, đã sống
đời “du thuyết”; Người rảo khắp miền Galilê mà công bố rằng Nước Trời đang đến.
Ngay từ đầu, Người đã tỏ ra là vị Mục Tử tốt lành đi tìm “các chiên lạc của nhà
Israel”. Và vì quan tâm bảo đảm cho hoạt động của Người được hữu hiệu lâu dài,
Người đã quy tụ các “ngư phủ lưới người” đầu tiên, để họ sống với Người và với
nhau. Sau này, các ông sẽ nối tiếp Người, đi loan báo Nước Trời khắp nơi, không
phải chỉ cho dân Israel, mà cho mọi người thuộc mọi thời đại.
5.- Gợi ý suy niệm
1.
Vào ngày hôm nay, Đức Giêsu vẫn còn công bố sứ điệp về Nước Trời giữa lòng cộng
đoàn cử hành Phụng vụ. Lời Người vẫn cấp bách như thuở nào: “Hãy hối cải, vì
Nước Trời đã gần đến”. Thiên Chúa vẫn đang tìm cách hiển trị trong đời sống
chúng ta một cách rõ nét hơn; Người có thể áp đảo chúng ta, nhưng Người
không muốn, vì Người tôn trọng tự do của chúng ta. Do đó, chúng ta được mời gọi
xét lại tâm hồn mình, bỏ đi những trở ngại khiến trái tim chúng ta không mở
rộng ra được với các viễn tượng phổ quát của Thiên Chúa. Nếu chúng ta không
loại bỏ được những trở ngại đó, là chúng ta như đang bị bệnh tật. Khi đó, chúng
ta có thể xin với Đức Giêsu và Người sẽ
chữa chúng ta lành.
2.
Các hoàn cảnh bên ngoài không phải chỉ là những bó buộc, nhưng thường cũng là
những chỉ dẫn Thiên Chúa ban để chúng ta đi đúng đường lối của Người. Đức Giêsu
đã chứng tỏ như thế. Các thánh cũng đã hiểu như thế, qua các cuộc mò mẫm tìm
kiếm ý Chúa. Hôm nay, chúng ta được mời gọi lưu ý đến các hình thái này mà
Thiên Chúa đang dùng để hướng dẫn chúng ta.
3. “Hãy hối cải!”. Loài người không được quay lưng lại với Thiên Chúa, rời xa
Người và tìm hạnh phúc và ơn cứu độ ở chỗ khác. Hành động Thiên Chúa đến với
loài người đòi buộc họ đáp trả bằng cách di chuyển về phía Thiên Chúa. Họ không
thể được Người đến gặp và nhận được các phúc lành của Triều Đại Người, nếu họ
quay về với những người khác. Ngay từ đầu, lời rao giảng của Đức Giêsu đã nêu
bật hai đề tài chính này: Người nói rõ là chúng ta có thể chờ đợi gì nơi Nước
Thiên Chúa và đồng thời, Người trình bày cho thấy đâu là các hình thái của sự
hối cải chân thật. Cả hai yếu tố này được trình bày rõ ràng trong các Mối Phúc
(5,3-12).
4.
Đức Giêsu xuất hiện là đưa lại ánh sáng và niềm vui. Hôm nay, chúng ta có nhận
ra Người vẫn đang hiện diện trong thế giới, giữa lòng cuộc sống chúng ta, để
chúng ta tiếp tục đón nhận được niềm vui và ánh sáng? Đàng khác, chúng ta đã được chọn để nối tiếp sứ mạng của
Người. Chúng ta đang chu toàn sứ mạng đó thế nào? Đức Kitô vẫn đang đến gặp chúng ta ngay giữa
những sinh hoạt, những niềm vui và những nỗi phiền sầu của chúng ta, để mời gọi
chúng ta đi theo Người. Có lẽ Người không lôi kéo chúng ta theo Người về mặt
thể lý cho bằng về mặt thiêng liêng: chúng ta được thúc bách rời bỏ chính mình,
bỏ tính ích kỷ, bỏ đi sự cứng cỏi, để sống với Người mỗi ngày trong sự từ bỏ và
trong tình yêu.
5.
“Hãy theo tôi”. Tiếng gọi của Đức Giêsu nhằm mời gọi các môn đệ đầu tiên cũng
là một lời mời hoán cải liên tục. Chúng ta được mời gọi lấy một quyết
định cương quyết đầu tiên, đôi khi là một đoạn tuyệt đau đớn nào đó, rồi
ngày qua ngày, kiên trì bước theo giáo huấn của Người, chúng ta sẽ thực hiện
những bước hối cải mới để càng trở nên môn đệ hơn.
Lm FX Vũ Phan Long, ofm