Chúa
Nhật Thứ 10 Thường Niên
(9-6-2002)
ÐỌC LỜI CHÚA
Hs 6, 3-6: (6) Ta muốn tình yêu chứ không cần hy lễ, thích được các
ngươi nhận biết hơn là được của lễ toàn thiêu.
Rm 4, 18-25: (23) Nhưng khi viết rằng A-bra-ham được kể là người công
chính, thì không phải chỉ nói về ông, (24) mà còn nói về cả chúng ta nữa: chúng ta sẽ được kể
là công chính, vì tin vào Ðấng đã làm cho Ðức Giê-su, Chúa chúng ta, sống lại
từ cõi chết; (25) Ðức
Giê-su chính là Ðấng đã bị trao nộp vì tội lỗi chúng ta và đã được Thiên Chúa
làm cho sống lại để chúng ta được nên công chính.
Ðức Giê-su kêu gọi ông
Mát-thêu và dùng bữa với những người tội lỗi
(//Mc 2, 13-17; Lc 5, 27-32)
(9) Khi ấy, Ðức Giê-su đi ngang qua trạm thu thuế, thì thấy một
người tên là Mát-thêu đang ngồi tại trạm. Người bảo ông: Anh hãy theo tôi! Ông đứng dậy đi theo
Người.
(10) Khi Ðức Giê-su đang dùng bữa tại nhà ông ấy, có nhiều người
thu thuế và tội lỗi kéo đến, cùng ăn với Người và các môn đệ. (11) Thấy vậy, những người Pha-ri-sêu nói với các môn đệ Người
rằng: Sao Thầy các anh lại ăn uống với bọn thu thuế, và quân tội lỗi như vậy? (12) Nghe
thấy thế, Ðức Giê-su nói: Người khoẻ mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm
mới cần. (13) Hãy về
học cho biết ý nghĩa của câu này: "Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ tế". Vì tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để
kêu gọi người tội lỗi.
Chia sẻ
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao những người thu thuế như Mát-thêu lại bị người Do Thái khinh
bỉ và liệt vào hạng người tội lỗi?
2. Cách xử sự của Ðức Giê-su với những người thu thuế và những hạng bị
coi là tội lỗi thế nào? Còn cách Ngài xử sự với các kinh sư và Pha-ri-siêu thì
sao?
3. Quan niệm của Ðức Giê-su về đạo đức và thánh thiện khác với quan
niệm của các kinh sư và Pha-ri-siêu ở chỗ nào? Các Ki-tô hữu ngày nay phần đông
quan niệm về đạo đức và thánh thiện theo Ðức Giê-su hay theo các kinh sư Do
Thái? Như thế có nguy hiểm gì không?
Suy tư gợi ý:
1.
Mát-thêu, người thu thuế
Mát-thêu là người người Do Thái, nhưng lại là một công chức làm việc cho đế quốc Rô-ma vốn bị người Do Thái coi là kẻ thù, vì người Rô-ma đang cai trị và bóc lột người Do Thái. Vì nồi cơm và sự sống của bản thân và gia đình, Mát-thêu chấp nhận làm việc cho người Rô-ma và được bổ nhiệm là nhân viên thu thuế trong đất nước của mình. Trong đế quốc Rô-ma, các nhân viên thu thuế được hưởng hoa hồng trên số thuế họ thu, nhưng phần đông thường thu thuế quá mức quy định để vơ về cho mình số tiền vượt mức ấy. Ðây là một nghề dễ làm giàu một cách bất chính. Vì thế, các nhân viên thu thuế bị người Do Thái oán ghét, khinh bỉ, tẩy chay, và coi là phường tội lỗi. Một phần vì họ sẵn sàng làm công cụ và tay sai cho kẻ thù của dân tộc, phần khác vì họ bị mang tiếng là gian lận và bóc lột dân chúng.
Một điều rất đáng ngạc nhiên
khiến chúng ta phải suy nghĩ và tìm hiểu là: dù Mát-thêu là người thu thuế và
bị khinh bỉ như vậy, nhưng Ðức Giê-su đã chọn và mời gọi ông làm môn đệ Ngài.
Ðiều đáng ngạc nhiên thứ hai là khi được Ðức Giê-su kêu gọi làm môn đệ,
Mát-thêu đã nhanh chóng và dứt khoát từ bỏ nghề béo bở ấy để đáp lại lời mời
của Ngài. Tin Mừng viết: Ông đứng dậy đi
theo Người.
2.
Thái độ của Ðức Giê-su đối với những
người tội lỗi
Sau khi mời gọi Mát-thêu theo
mình và được ông đáp lại lời mời, Ðức Giê-su cũng đáp lại lời mời của Mát-thêu
là cùng với các môn đệ dùng bữa tại nhà ông. Mát-thêu nhân dịp này cũng mời
những người bạn thân, bạn đồng sự, bạn cùng chơi, cùng nhậu. đến dự tiệc cho
vui. Tất cả những loại bạn này đều là những kẻ bị người Do Thái liệt vào hạng
tội lỗi đáng khinh bỉ. Chắc chắn Ðức Giê-su biết điều ấy. Nhưng thái độ của Ngài
đối với Mát-thêu nói riêng, và với những người tội lỗi nói chung, khác hẳn với
thái độ của những kẻ đạo đức kiểu
kinh sư và Pha-ri-siêu. Những người này chủ trương phải xa lánh những người tội
lỗi.
Họ không thể tưởng tượng được
một ngôn sứ của Thiên Chúa mà lại để cho một người tội lỗi đụng đến thân thể
mình (x. Lc 7, 39). Vì thế, họ ngạc nhiên khi thấy Ðức Giê-su ăn uống chung với
những phường tội lỗi. Họ có lý của họ, vì cách xử sự của Ðức Giê-su trái với
truyền thống của tiền nhân. Truyền thống này dựa trên lời của sách Dân số: Chớ tới gần lều của những con người hư đốn ấy, và
đừng đụng tới tất cả những gì của họ, kẻo vì liên luỵ mà anh em cũng bị huỷ
diệt với tất cả tội lỗi của họ (Ds 16, 26). Theo họ, cần phải tẩy
chay những người tội lỗi ấy như một hình phạt để họ ý thức được tội lỗi mình mà
chừa cải. Trong luật của Giáo Hội cũng có một vài điều khoản tương tự để giúp
người tội lỗi trở về con đường ngay chính. Những khoản luật này có khi có tác
dụng tốt, nhưng cũng có đôi khi phản tác dụng hoặc trở nên thiếu nhân bản,
thiếu tình người.
3.
Quan niệm của Ðức Giê-su về đạo đức và
thánh thiện
Quan niệm về đạo đức hay thánh thiện của Ðức Giê-su khác hẳn với các kinh sư và Pha-ri-siêu. Tiêu chuẩn đạo đức hay thánh thiện của họ là phải giữ thật trọn vẹn lề luật của Chúa, trong đó chủ yếu là những nghi thức thờ phượng Thiên Chúa (ăn chay, cúng tế.). Ai càng giữ luật cho trọn vẹn, càng năng tham dự các lễ nghi tôn giáo thì càng được coi, hay càng tự coi mình là thánh thiện đạo đức, bất chấp việc đối xử với tha nhân của họ có tình có nghĩa hay không. Họ thường tự hào về mình và khinh bỉ những ai không hành xử giống như họ. Ðây là thứ đạo đức thánh thiện kiểu Pha-ri-siêu, haykiểu Cựu ước: luậtlệ được coi trọng hơn tình yêu. Hiện nay trong nhiều tôn giáo, kể cả Ki-tô giáo, các tín đồ vẫn thường được đào tạo trở nên những con người tương tự như vậy, với quan niệm về đạo đức và thánh thiện kiểu Cựu ước.
Nhưng theo Ðức Giê-su, đạo đức
hay thánh thiện hệ tại tình yêu đích thực mà con người có đối với tha nhân, chứ
không hệ tại việc giữ cho trọn vẹn các điều khoản trong lề luật. Vì thế, trước
mặt Ðức Giê-su, các kinh sư hay Pha-ri-siêu tuy giữ lề luật rất trọn vẹn nhưng
không có tình yêu, thì không đạo đức và thánh thiện bằng những kẻ bị coi là tội
lỗi, nhưng biết tin vào Ngài và hành động theo sự đòi hỏi của tình yêu. Ngài đã
từng nói với các kinh sư và Pha-ri-siêu: Tôi
bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa
trước các ông (Mt 21, 31). Dụ ngôn người Pha-ri-sêu và người thu
thuế (Lc 18, 9-14) cho thấy Ðức Giê-su đánh giá người bị coi là tội lỗi nhưng
khiêm nhường và đối xử với mọi người có tình có nghĩa thì công chính hay đạo
đức hơn người giữ luật nghiêm chỉnh, làm nhiều việc tốt, nhưng lại kiêu ngạo và
sống thiếu tình nghĩa. Thiết tưởng ở đây cũng nên nhắc lại lời của Ðức Giáo
hoàng Gioan-Phaolô I (1912-1978): Trên thiên
đàng không thiếu những phần thu đĩ điếm, nhưng không có kẻ kiêu ngạo. Dưới hỏa
ngục có cả những hồng y giám mục, nhưng không có người khiêm nhường.
Quả thật trong xã hội ta thấy có nhiều người sống trong sạch như các thiên
thần, hoặc làm được rất nhiều việc phúc đức như những vị thánh, nhưng họ lại
kiêu ngạo và tự hào không kém gì ma quỉ. Theo quan điểm của Ðức Giê-su, họ
không phải là đối tượng của Nước Trời.
Dường như đối với Ngài, điều
đáng trách nhất không phải là tội lỗi cho bằng sự thiếu tình yêu và lòng khiêm
nhường. Câu Ta muốn lòng nhân chứ đâu cần lễ
tế trong bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Ngài đặt tình yêu đối với tha
nhân quan trọng hơn cả việc thờ phượng Thiên Chúa. Câu nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ
có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước
bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình
(Mt 6,23-24) cũng nói lên quan điểm tương tự. Ðây là quan điểm của Tân ước, rất
khác với quan điểm của Cựu ước. Ðối với Ngài, điều răn quan trọng nhất được
Ngài biến thành mới mẻ là: Thầy ban cho anh
em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau (Ga 13, 34). Và
tình yêu đối với tha nhân chính là tiêu chuẩn để phân biệt môn đệ của Ngài (Tân
ước) với môn đệ của Mô-sê (Cựu ước): Mọi
người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu
thương nhau (Ga 13, 35).
4. Cần thay đổi quan niệm về đạo đức và thánh
thiện theo quan điểm của Ðức Giê-su
Chúng ta đang sống trong thời
đại của Tân ước chứ không phải của Cựu ước. Chúng ta đi theo Ðức Giê-su chứ
không phải theo Mô-sê. Vì thế, chúng ta phải quan niệm theo Ðức Giê-su chứ
không phải theo Mô-sê. Quan niệm đạo đức và thánh thiện theo Cựu ước đã bị vượt
qua. Thế nhưng hiện nay trong Giáo Hội, còn biết bao người quan niệm về đạo đức
và thánh thiện không khác gì các kinh sư và Pha-ri-siêu ngày xưa. Dường như
thay đổi quan niệm theo Ðức Giê-su thật là khó!? Chính vì thế, để rao truyền
một sứ điệp mới, một tinh thần mới, một quan niệm mới, Ðức Giê-su đã không chọn
một ai trong các kinh sư hay Pha-ri-siêu làm môn đệ Ngài, mà chọn những người
chưa chịu ảnh hưởng sâu đậm của Cựu ước. Thà chọn một thu thuế như Mát-thêu còn
hơn một Ni-cô-đê-mô thông thái! Chỉ mãi sau khi lên trời, Ngài mới chọn Phao-lô
là một người Pha-ri-siêu, nhưng dù Phao-lô có giỏi tới đâu cũng phải dưới quyền
Phê-rô. Và để trở thành môn đệ Ðức Giê-su, Phao-lô đã phải lột xác: phải từ bỏ
những quan niệm cũ để mặc lấy những quan niệm mới của Ngài.
Còn chúng ta, nếu chúng ta
không chịu từ bỏ quan niệm của Cựu ước để mặc lấy quan niệm của Ðức Giê-su hay
của Tân ước, thì hãy nghe Ngài nói: Nếu anh
em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được
vào Nước Trời (Mt 5,20). Ăn ở
công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu không phải là giữ lề
luật hay các nghi thức lễ lạy kỹ hơn họ, mà là phải có tình yêu nhiều hơn họ,
nghĩa là trong cách đối xử với tha nhân phải có tình có nghĩa hơn họ. Rất mong
mọi Ki-tô hữu đều ý thức điểm này.
Cầu nguyện
Tôi vẫn nghe văng vẳng lời
than phiền của Ðức Giê-su: Ta đến thế gian
đã 2000 năm nay để gieo một tinh thần mới là tình yêu thương. Nhưng lạ thay,
những kẻ tự hào là theo Ta thực tế vẫn còn là môn đệ của Mô-sê, họ chẳng chịu
thay đổi theo quan niệm của Ta. Họ vẫn coi việc giữ luật lệ, giữ các nghi thức
cổ truyền là quan trọng hơn cả tình yêu là điều Ta coi trọng hơn cả. Họ vẫn
quan niệm hay hành xử y hệt các kinh sư và Pha-ri-siêu ngày xưa. Thật uổng công
Ta xuống thế dạy dỗ biết bao!.
Joan Nguyễn Chính Kết