Chúa Nhật Thứ 22 Thường Niên

(1-9-2002)

ĐỌC LỜI CHÚA

·         Gr 20,7-9: (7) Lạy Đức Chúa, Ngài đã quyến rũ con, và con đã để cho Ngài quyến rũ. Ngài mạnh hơn con, và Ngài đã thắng (…) (9) Lời Ngài cứ như ngọn lửa bừng cháy trong tim, âm ỉ trong xương cốt.

·         Rm 12,1-2: (1) Anh em hãy hiến dâng thân mình làm của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là cách thức xứng hợp để anh em thờ phượng Người.

 

·         TIN MỪNG: Mt 16,21-27

Đức Giê-su tiên báo cuộc Thương Khó lần thứ nhất

(// Mc 8,31-33; Lc 9,22)

 (21) Từ lúc đó, Đức Giê-su Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại.  (22) Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách Người: «Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!» (23) Nhưng Đức Giê-su quay lại bảo ông Phê-rô: «Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người».

 Điều kiện phải có để theo Đức Giê-su

 (// Mc 8,34 – 9,1; Lc 9,23-27)

 (24) Rồi Đức Giê-su nói với các môn đệ: «Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. (25) Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy. (26) Vì nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?

 (27) «Vì Con Người sẽ ngự đến trong vinh quang của Cha Người, cùng với các thiên thần của Người, và bấy giờ, Người sẽ thưởng phạt ai nấy xứng việc họ làm. (28) Thầy bảo thật anh em: trong số người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm sự chết trước khi thấy Con Người đến hiển trị».

 

CHIA SẺ

Câu hỏi gợi ý:

1.       Bạn quan niệm về đau khổ và chết chóc như thế nào? Đó là những thực tại xấu ác cần xa tránh? Bạn có quan niệm nào khác cao hơn không?

2.       Có ai đã chết để bạn được sống, hay đã đau khổ để bạn được hạnh phúc bao giờ chưa? Bạn có sẵn sàng đau khổ để những người thân yêu mình được hạnh phúc, hay sẵn sàng chết để họ được sống không? Hy sinh như thế có ích lợi gì không?

3.       Tại sao Chúa lại đòi hỏi những kẻ theo Ngài phải chấp nhận hy sinh và đau khổ? Nếu đó không phải là điều cần thiết, Ngài có đòi hỏi như thế không?

Suy tư gợi ý:

1.       Ai cũng sợ đau khổ, nhưng đau khổ rất ích lợi và cần thiết

Đau khổ và chết thường được coi là những gì xấu ác, cần phải xa tránh cho chính mình và người khác. Đó là một suy nghĩ rất phổ thông và thường được coi là khôn ngoan. Nhưng có những người suy nghĩ cao hơn, họ thấy được giá trị, lợi ích, thậm chí sự cần thiết của đau khổ và sự chết. Vì thế, đối với họ, đau khổ và sự chết không phải là kẻ thù, là một cái gì đáng sợ, mà là bạn, là một cái gì thân thiết mà họ sẵn sàng vui vẻ đón nhận. Thật vậy, đau khổ và sự chết cần thiết cho sự sống và hạnh phúc. Muốn hạnh phúc thì nhiều khi phải chấp nhận đau khổ. Muốn cứu mình hay người khác, nhiều khi phải sẵn sàng chấp nhận cái chết. Nói khác đi, sự sống nhiều khi phải mua bằng cái chết, và hạnh phúc phải mua bằng đau khổ. Và sự sống hay đau khổ phải trả giá ấy sẽ biến thành sự sống hay hạnh phúc, cho mình hoặc cho người khác.

Suy nghĩ như thế thường bị coi là bất bình thường, là điên rồ, nhưng thực ra đó là một suy nghĩ rất minh triết, rất khôn ngoan, phù hợp với qui luật tất yếu của vũ trụ. Thiết tưởng người Ki-tô hữu cần nắm vững cách suy nghĩ này. Chính Thiên Chúa đã suy nghĩ theo cách này, và Ngài đã dùng đau khổ không chỉ để cứu chuộc nhân loại, mà còn để huấn luyện và thánh hóa con người. Những con người bản lãnh đều là những con người được trui rèn trong đau khổ: «Đức Giê-su trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn» (Dt 2,10).

Khi nghe Đức Giê-su loan báo về đau khổ và cái chết của Ngài, phản ứng của Phê-rô là ngăn cản Ngài như ngăn cản khỏi một tai họa, một sự dữ, một điều xấu xa. Phê-rô đã suy nghĩ theo cách thường tình của mọi người. Còn Đức Giê-su, Ngài trách ông hơi nặng lời, gọi ông là Xa-tan, vì Ngài không ngờ ông theo Ngài đã lâu mà vẫn không suy nghĩ cao hơn người thường được: «Tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người».

2.       Đau khổ phát sinh hạnh phúc

Sống trên đời, ai cũng đều có kinh nghiệm rằng đau khổ tự nguyện có thể biến thành hạnh phúc. Một người cha làm việc vất vả và cực khổ ở xưởng thợ là để đem lại cơm no áo ấm cho đàn con. Đau khổ tự nguyện của ông biến thành hạnh phúc của con cái. Một học sinh chịu khó học hành vất vả trong hiện tại để đổi thành vinh quang và thăng tiến trong tương lai.

Ngược lại hạnh phúc lại có thể biến thành đau khổ. Những người cha tìm hạnh phúc cho riêng mình trong những quán rượu thì rồi sẽ chuốc lấy đau khổ và nhục nhã cho vợ con. Một học sinh ham chơi, ham coi phim để vui hưởng nhàn nhã trong hiện tại, cuối cùng sẽ phải chấp nhận thất bại ê chề trong tương lai.

Cái chết tự nguyện có thể biến thành sự sống: biết bao chiến sĩ ngã gục và chết thê thảm ở chiến trường để người khác ở hậu phương được sống yên ổn. Và cái sống có thể biến thành cái chết: sự hèn nhát và đi tìm cái sống cho bản thân của những người lãnh đạo xã hội hay Giáo Hội có thể biến thành cái chết và đau khổ cho biết bao người dân vô tội.

Đức Giê-su ý thức quy luật này hơn ai hết, và Ngài đã chấp nhận chết để nhân loại được sống, chấp nhận đau khổ để con người được hạnh phúc: «Người đã mang tội lỗi chúng ta vào thân thể mà đưa lên thập giá để chúng ta được sống đời công chính. Người đã mang lấy vết thương của chúng ta để chúng ta được chữa lành» (Pr 2,24). Chấp nhận chết để người khác được sống, chấp nhận đau khổ để người mình yêu được hạnh phúc, đó là hành động của những người thật sự yêu thương. Vì thế, cái chết và đau khổ trở thành phương cách để biểu lộ tình yêu: «Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình» (Ga 15,13).

3.       Những người theo Chúa cần biết chấp nhận đau khổ

Đức Giê-su là Thầy và là gương mẫu của chúng ta, nếu Ngài đã quan niệm như thế, đã sống và hành động như thế, chẳng lẽ chúng ta, những người theo Ngài, lại không muốn quan niệm và hành động như Ngài sao? Đó chính là lý do khiến Ngài đòi hỏi những người theo Ngài «phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo». Nghĩa là Ngài đòi hỏi chúng ta phải sẵn sàng chấp nhận đau khổ, thậm chí cả cái chết.

Là những người theo Chúa, chúng ta không nên quá sợ hãi đau khổ và sự chết. Trái lại, hãy chấp nhận đau khổ và sự chết một cách bình thản. Đức tin thật sự giúp chúng ta làm được điều ấy! «Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mặc khải nơi chúng ta» (Rm 8,18). Chúng ta vẫn hát vào dịp lễ Phục sinh: «Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài. Nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài» (Rm 6,8). Chúng ta tuyên xưng mạnh mẽ như vậy, nhưng chúng ta có tin thật như vậy không? Hay chúng ta tuyên xưng như vậy một cách giả dối? Vì nếu thật sự tin, tại sao chúng ta lại quá sợ đau khổ và cái chết, nhất là không đau khổ và chết vì Ngài và cho Ngài?

Biết bao tội lỗi, xấu xa, bỉ ổi, hèn nhát… đã xảy ra chỉ vì người ta ham sống sợ chết, ham sướng sợ khổ. Ngày xưa, những người quân tử Trung Hoa, tức những người theo đạo của Khổng Phu Tử, đã từng chủ trương «coi cái chết nhẹ tựa lông hồng», chấp nhận đau khổ tận cùng để tận trung với vua với nước, để trọn tình trọn nghĩa với cha mẹ, với vợ/chồng, với bạn bè… Lẽ nào chúng ta, những người theo Đức Giê-su, tức theo tôn giáo mà chúng ta luôn tuyên xưng là tốt nhất thế giới, lại chịu thua những người quân tử đạo Khổng kia? Nếu chấp nhận thua thì chúng ta hãy khoan tự hào rằng tôn giáo mình là cao hơn, tốt hơn tôn giáo của họ! Liệu tôn giáo của chúng ta, với những phương tiện hữu hiệu là các bí tích, có ban cho chúng ta – nhất là những người cử hành hoặc lãnh nhận bí tích hằng ngày – đủ sức mạnh và lòng can đảm hơn những tín đồ tôn giáo khác không? Chúng ta cần nghiêm chỉnh đặt lại vấn đề và tìm hiểu.

Biết bao Ki-tô hữu đã chấp nhận im tiếng trước bất công, chấp nhận đồng lõa với điều ác, sẵn sàng để mặc kẻ ác tự do hành động, cho dù mình có khả năng can thiệp. Tại sao? Có phải vì mình muốn được an toàn cho bản thân, giữ được tình trạng an nhàn, sung sướng mình đang có? Làm như thế quả là khôn ngoan đấy, nhưng đó là khôn ngoan kiểu thế gian, của những người ích kỷ, không phải là khôn ngoan của kẻ có tình yêu đích thực. Và đó không phải là thứ khôn ngoan của những người theo Đức Giê-su. Nhiều người ấy, nếu có mang danh theo Ngài thì cũng chỉ là theo một cách «hữu danh vô thực» mà thôi! Một người mẹ làm sao có thể ngồi im khi con cái mình bị bách hại, bị đàn áp bất công? Bà sẽ gào thét, sẽ xông tới cứu con mình, bất chấp nguy hiểm, đau khổ hay cái chết. Nếu không hành động như thế, bà có dám tự hào là bà yêu thương con mình thật sự không?

4.       Kết quả cuối cùng: «Ai muốn cứu mạng sống mình, sẽ mất»

Điều khiến cho sự khôn ngoan thế gian – hay thứ khôn ngoan của những người ích kỷ, chỉ biết sống vì mình, cho mình – cuối cùng trở thành điên dại (x. 1Cr 1,20), chính vì mọi sự đều có một kết quả chung cuộc. Chính vì có một kết quả chung cuộc vĩnh cửu mà những kẻ khôn ngoan kiểu thế gian muốn tìm hạnh phúc cho mình lại không tìm được, muốn tránh đau khổ cho mình lại không tránh được. Còn những kẻ mà thế gian cho là ngu dại – sẵn sàng chấp nhận đau khổ để người khác hạnh phúc, chấp nhận cái chết để người khác được sống – thì lại được sống vĩnh cửu trong hạnh phúc vô biên. Khi đối diện với kết quả chung cuộc ấy, người ta mới thấy câu của Đức Giê-su trở thành hiện thực: «Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ tìm được mạng sống ấy». Lúc ấy những người khôn ngoan kiểu thế gian mới nhận ra rằng: «Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?»

 

Cầu nguyện

Tôi nghe Thiên Chúa nói với tôi: «Biết bao người chấp nhận cực nhọc, hy sinh, đau khổ để đạt được một cái mề đay, một thứ vinh quang hão huyền chóng qua. Biết bao người sẵn sàng chết cho một hôn quân bạo Chúa. Tại sao con lại không dám hy sinh, chấp nhận đau khổ vì Cha, vì tha nhân, mặc dù điều đó làm cho con được hạnh phúc đời đời? Con không có đức tin sao?»         

Joan Nguyễn Chính Kết