Chúa
Nhật Thứ 1 Mùa Chay
(17-2-2002)
Ðọc Lời Chúa
St
2,7-9.3,1-7: (4) Rắn nói với người đàn bà: Chẳng chết chóc gì đâu! (5) Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây
đó, mắt ông bà sẽ mở ra, và ông bà sẽ nên như những vị thần biết điều thiện
điều ác. (6) Người đàn
bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình
được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với
mình; ông cũng ăn.
Rm
5,12.17-19: (19) Cũng như vì một người duy nhất đã không
vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất
đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính.
TIN MỪNG: Mt 4,1-11
Ðức Giê-su
chịu cám dỗ (Mc 1,12-13; Lc 4,1-13)
(1) Bấy giờ Ðức Giê-su được Thần Khí dẫn
vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ. (2) Người ăn chay ròng rã bốn mươi đêm ngày, và sau đó, Người
thấy đói. (3) Bấy giờ tên cám dỗ đến gần Người và
nói: Nếu ông là Con Thiên Chúa, thì truyền cho những hòn đá này hoá bánh đi! (4) Nhưng Người đáp: Ðã có lời chép rằng: Người ta sống không
chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.
(5) Sau đó, quỷ đem Người đến thành thánh, và đặt Người trên
nóc đền thờ, (6) rồi nói với Người: Nếu ông là Con Thiên
Chúa, thì gieo mình xuống đi! Vì đã có lời chép rằng: Thiên Chúa sẽ truyền cho
thiên sứ lo cho bạn, và thiên sứ sẽ tay đỡ tay nâng, cho bạn khỏi vấp chân vào
đá.
(7) Ðức Giê-su đáp: Nhưng cũng đã có lời chép rằng: Ngươi chớ
thử thách Ðức Chúa là Thiên Chúa của ngươi.
(8) Quỷ lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho
Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, (9) và bảo rằng: Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông
sấp mình bái lạy tôi. (10) Ðức Giê-su liền nói: Xa-tan kia, xéo
đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Ðức Chúa là Thiên Chúa của
ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi.
(11) Thế rồi quỷ bỏ Người mà đi, và có các sứ thần tiến đến hầu
hạ Người.
Suy niệm
Câu hỏi gợi ý:
1. Ðức Giê-su cũng bị cám dỗ. Ðiều ấy mạc khải cho ta biết những gì?
Bị cám dỗ có phải là điều gì xấu xa không?
2. Cơn cám dỗ đưa ta đến một tình thế phải lựa chọn giữa điều tốt và
điều xấu, hoặc giữa hai điều tốt, tốt nhiều và tốt ít. Như thế những dịp bị cám
dỗ giúp chúng ta chứng tỏ điều gì? Cám dỗ là điều tốt hay điều xấu?
Suy tư gợi ý:
1. Ðã là
con người, ai cũng bị cám dỗ
Nếu không có bài Tin Mừng hôm
nay, người ta dễ dàng nghĩ rằng sở dĩ Ðức Giê-su hoàn toàn vô tội là vì Ngài
không bị hề cám dỗ. Nhưng đoạn Tin Mừng này cho thấy chính Ðức Giê-su - dù là Con
Thiên Chúa, có bản tính thần linh hoàn toàn trong sạch - cũng bị ma quỉ cám dỗ.
Thật là một mạc khải bất ngờ, đáng ngạc nhiên và rất lý thú, đồng thời cũng là
điều an ủi chúng ta, tạo động lực cho chúng ta thắng những cơn cám dỗ xảy đến.
Ðức Giê-su là Thiên Chúa mà
cũng bị cám dỗ, nên chúng ta vốn là người phàm, nếu có bị cám dỗ, dù nặng nề
tới đâu, cũng là chuyện dễ hiểu. Ðiều đó có nghĩa: đã là con người thì đều bị
cám dỗ. Và sự kiện Ðức Giê-su bị cám dỗ chứng tỏ Ngài đích thực là con người y
như chúng ta. Kinh Thánh cho biết Ngài cũng yếu đuối như chúng ta, nhờ vậy Ngài
rất thông cảm với sự yếu đuối cũng như tội lỗi của chúng ta: Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Ðấng không
biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi
phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội
(Dt 4,15). Qua câu Kinh Thánh trên, ta lại được biết rằng tuy bị cám dỗ như ta,
nhưng Ngài khác với ta ở chỗ không hề phạm tội, nghĩa là Ngài đã luôn luôn
thắng mọi cơn cám dỗ, không bao giờ sa ngã.
2. Tội lỗi là
sự chọn lựa SAI giữa hai điều tốt
Thiên Chúa đã chấp nhận để cho
chúng ta - kể cả Ðức Giê-su - bị cám dỗ. Ðiều đó cho thấy cám dỗ không phải là
một điều xấu. Trái lại có thể đó là một điều cần thiết. Thật vậy, bị cám dỗ là
một dịp để ta chứng tỏ tình yêu của mình đối với Thiên Chúa và tha nhân, và sự
vâng phục của ta đối với Ngài. Vì một người không thể chứng tỏ rằng mình yêu
mến, vâng phục. nếu không hề bị thử thách, nghĩa là chưa có cơ hội để không
vâng lời, không yêu mến. Lửa thử vàng, gian
nan thử người công chính (Cn 17,3), Ví
phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai? (Nguyễn
công Trứ).
Khi bị cám dỗ, có khi ta phải
chọn lựa giữa điều tốt và điều xấu. Ðiều này thường xảy ra cho người có tâm
linh còn non yếu, để họ có dịp chứng tỏ họ đứng hẳn về phía tốt. Còn những
người đã lên tới những bậc thang tâm linh cao, thì khi bị cám dỗ, họ thường
phải lựa chọn giữa hai điều đều là tốt cả, nhưng lương tâm buộc họ phải chọn
điều tốt hơn, để chứng tỏ sự quyết tâm tiến tới trọn hảo. Chẳng hạn trong cơn
cám dỗ đầu tiên của Ðức Giê-su, việc biến đá thành bánh để ăn khi đói chẳng có
gì là xấu. Trái lại, ăn khi đói còn là một điều cần thiết để sống còn. Sớm muộn
gì thì Ngài cũng phải ăn để sống, nhưng có thể lúc đó chưa tới thời hạn ăn như
Ngài đã quyết định từ đầu. Như vậy Ngài phải chọn lựa giữa hai điều đều là tốt
cả: một là thỏa mãn nhu cầu ăn để sống, hai là tự chủ để thực hiện đúng điều
mình đã quyết định từ trước về thời hạn nhịn ăn khi mà nhịn thêm ít lâu nữa
cũng chẳng hại gì. Quyết định nào cũng đều chứng tỏ lập trường của mình là đã
coi trọng cái nào hơn cái nào.
Nhờ có hai đối tượng phải lựa
chọn mà ta chứng tỏ được ta quí đến mức độ nào cái giá trị mà ta chọn lựa. Nếu
phải lựa chọn một viên kim cương khá to với một lượng vàng, chắc chắn ai cũng
chọn viên kim cương, và sự lựa chọn ấy không chứng tỏ được giá trị đích thực
của viên kim cương. Nhưng nếu phải lựa chọn giữa 100 lượng vàng với viên kim
cương, mà ta chọn viên kim cương, thì chứng tỏ ta đã coi viên kim cương có giá
trị hơn số vàng ấy (đương nhiên có người chọn khác ta). Thiên Chúa cũng muốn ta
chứng tỏ rằng ta coi tình yêu của Ngài giá trị hơn nhà cửa, ruộng vườn, của
cải, thậm chí hơn cả anh em, cha mẹ, vợ con của ta, bằng cách tạo dịp để ta lựa
chọn giữa Ngài và những giá trị ấy. Và đó chính là cám dỗ.
3. Những nhu
cầu chính đáng trong những cơn cám dỗ
Trong ba cơn cám dỗ của Ðức
Giê-su, ta thấy những cơn cám dỗ luôn luôn dựa trên những nhu cầu và giá trị
hết sức thực tế và chính đáng của đời sống con người. Những cơn cám dỗ luôn
luôn đặt ta giữa hai loại giá trị: một là những giá trị hết sức thực tế của đời
sống, hai là những giá trị tâm linh (tình yêu đối với Thiên Chúa, với tha nhân,
chân lý, công lý, lý tưởng, v.v.). Nhờ đó ta có dịp chứng tỏ ta coi trọng giá
trị nào hơn. Sau đây là những nhu cầu thực tế của đời sống được dùng trong
những cơn cám dỗ:
a. Ứng với cám dỗ thứ nhất của
Ðức Giê-su là nhu cầu sự
sống (sự an toàn bản thân, ăn uống, tình dục, sự thoải mái, giàu
sang): Sự
sống là một giá trị rất lớn Thiên Chúa ban cho ta, ta có nhiệm vụ quí trọng và
bảo vệ nó, nhưng không phải là với bất cứ giá nào. Có những giá trị còn cao hơn
sự sống. Chẳng hạn giữa tình yêu đối với Thiên Chúa và chính sự sống mình, các
thánh tử đạo xưa đã chọn tình yêu Thiên Chúa và sẵn sàng chấp nhận cái chết.
Trong cuộc đấu tranh cho công lý, chống áp bức bất công, những người đấu tranh
như Martin Luther King (Mỹ da đen), ÐGM Oscar Romero (Salvador), LM Jerzy
Popieluszko (Ba Lan). đã coi công lý, tình yêu đối với người nghèo, người bị áp
bức hơn sự an toàn bản thân, thậm chí hơn cả mạng sống. Chắc chắn họ cũng rất
quí sự sống và sự an toàn bản thân, nghĩa là cũng sợ chết, sợ bị tra tấn, phiền
nhiễu. Nhiều khi họ bị cám dỗ chọn lựa sự sống, sự an toàn bản thân hơn những
giá trị kia. Nhưng lựa chọn cuối cùng và dứt khoát của họ là công lý xã hội và
tình thương đối với với những kẻ bị áp bức. Ngược lại, ta cũng thấy có biết bao
người vì muốn được an toàn bản thân, muốn bảo vệ nồi cơm hay sự thoải mái đang
có được của mình, của gia đình mình, mà sẵn sàng câm lặng trước bất công, sẵn
sàng đồng lõa hoặc làm tay sai cho những thế lực gây bất công. Họ đã quí sự
sống và nồi cơm, địa vị của họ hơn công lý.
b. Ứng với cám dỗ thứ hai của
của Ðức Giê-su là nhu
cầu phình to bản ngã (muốn được nổi danh, được nể phục, được coi
là quan trọng, được khen tặng, được thỏa mãn tự ái và tính kiêu ngạo): Ai cũng
cho cái tôi của mình là quan
trọng, muốn mình là cái rốn của vũ trụ,
và không muốn bị ai xúc phạm. Trong một chừng mực nào đó, thì điều đó là tốt,
nhờ đó mới phát sinh lòng tự trọng, giữ uy tín, muốn thăng tiến, v.v. Nhưng
vượt quá chừng mực đó thì trở thành điều xấu. Nói chung, danh thơm tiếng tốt,
uy tín, sĩ diện. đều là những giá trị hết sức cao quí, đến nỗi Nguyễn công Trứ
để phải thốt lên: Ðã mang tiếng ở trong trời
đất, phải có danh gì với núi sông, hoặc Không công danh thà nát với cỏ cây, Trót sinh ra thì phải có chi chi, chẳng lẽ tiêu lưng
ba vạn sáu. So với những loại giá trị bình thường, ta nên coi danh
dự, công danh của mình cao hơn. Vì không coi trọng danh dự, uy tín, ta sẽ bị
coi là tiểu nhân. Nhưng vẫn có những giá trị cao hơn công danh, uy tín. đó là
những giá trị tâm linh như đã nói trên. Nếu để thăng tiến, phát triển bản thân
mà ta phải đối xử thiếu tình người, phải hạ kẻ khác xuống, coi người khác là công
cụ, là bàn đạp, là vật hy sinh cho mình, sẵn sàng đội trên đạp dưới, thì có nghĩa là ta đã coi những giá trị
ấy cao hơn công lý và tình thương. Tội lỗi phát sinh từ sự lựa chọn sai trái
ấy.
c. Ứng với cám dỗ thứ ba của
của Ðức Giê-su là nhu
cầu thống trị (thích quyền lực, thích làm chủ để điều khiển,
muốn mọi sự phải xẩy ra theo ý mình): đây cũng là một nhu cầu rất lớn trong tâm
lý con người. Ai cũng thích người khác chiều ý mình, thích áp đặt ý mình lên
người khác. Quyền lực cũng là một giá trị. Trong xã hội, cần phải có những
người có quyền lực, có quyền ép buộc người khác làm theo lệnh mình. Nhưng quyền
lực ấy là để phục vụ xã hội, để tạo an ninh, trật tự và công lý trong xã hội,
làm xã hội trở nên tốt đẹp hơn. Quyền lực này có thể đạt được một cách chính
đáng bằng tài năng và đức độ của mình nhằm phục vụ xã hội. Nhưng cũng có thể
đạt được bằng những phương tiện không chính đáng nhằm được hưởng những đặc
quyền đặc lợi trong xã hội chứ không phải để phục vụ. Người sử dụng quyền lực
luôn luôn phải lựa chọn giữa hai giá trị: lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể.
Nếu hành động vì lợi ích tập thể thì là thánh thiện, nếu chỉ vì lợi ích cá nhân
thì là tội lỗi.
Thiên Chúa luôn luôn muốn
chúng ta đặt nặng tình yêu đối với Thiên Chúa và tha nhân trên hết mọi sự, mọi giá
trị: Yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết trí
khôn, hết sức lực, và yêu người thân cận như chính mình, là điều quý hơn mọi lễ
toàn thiêu và hy lễ (Mc 12,33). Chúng ta sẽ có dịp chứng tỏ lòng yêu
mến ấy của chúng ta trong những cơn cám dỗ.
Cầu nguyện
Chúa nói với tôi: Những cám dỗ xảy đến với con là do thánh ý của Cha.
Cha muốn con có dịp chứng tỏ tình yêu của con đối với Cha, và đối với những giá
trị tâm linh mà Cha hằng yêu quí, như Công Lý, Tình Thương và Lòng Thành Thật
(Mt 23,23). Nếu con yêu mến Cha thật sự, con phải chứng tỏ được tình yêu ấy
trong những cơn thử thách ấy. Sự thành công hay thất bại trong những cơn cám dỗ
ấy giúp con xác định được tình yêu của con đối với Cha như thế nào, nó giúp con
hiểu biết chính con hơn.
Joan Nguyễn Chính Kết