Chúa
Nhật thứ 2 Thường Niên
(20-1-2002)
Ðọc Lời Chúa
Is
49,3.5-6: Gia-Vê phán: Này Ta đặt ngươi làm
ánh sáng muôn dân, để ngươi đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất
1 Cr 1,1-3: (1) Tôi là Phao-lô, bởi ý Thiên Chúa được gọi làm Tông Ðồ của Ðức Ki-tô Giê-su, (2) kính gửi Hội Thánh của Thiên Chúa ở Cô-rin-tô, những người đã được hiến thánh trong Ðức Ki-tô Giê-su, được kêu gọi làm dân thánh, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu danh Chúa của chúng ta, Ðức Giê-su Ki-tô, là Chúa của họ và của chúng ta. (3) Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta, và xin Chúa Giê-su Ki-tô ban cho anh em ân sủng và bình an.
TIN MỪNG: Ga 1,29-34
Ðây Chiên
Thiên Chúa
(29) Khi ấy, ông
Gio-an thấy Ðức Giê-su tiến về phía mình, liền nói: Ðây là Chiên Thiên Chúa,
đây Ðấng xoá bỏ tội trần gian. (30) Chính Người là Ðấng tôi đã nói
tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.
(31) Tôi đã không
biết Người, nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en, tôi đến làm phép rửa
trong nước. (32) Ông Gio-an còn làm chứng: Tôi đã thấy Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời
xuống và ngự trên Người. (33) Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Ðấng sai tôi đi làm phép rửa
trong nước đã bảo tôi: Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó
chính là Ðấng làm phép rửa trong Thánh Thần. (34) Tôi đã thấy, nên xin chứng thực rằng Người là Ðấng Thiên Chúa tuyển
chọn.
Câu hỏi gợi ý:
1. Tại sao Gio-an lại giới thiệu Ðức Giê-su là Chiên Thiên Chúa, Ðấng xoá tội trần gian? Ý nghĩa sâu xa của
những từ ngữ đó thế nào?
2. Vai trò của Gio-an Tẩy Giả đối với Ðức Giê-su như thế nào? Tư cách
của ông có xứng với vai trò hay sứ mạng của ông không? Tư cách ấy là gì?
3. Qua tư cách và hành động của Gio-an, bạn có thể rút ra kết luận gì
cho cuộc đời ngôn sứ của bạn? (nên nhớ mỗi Ki-tô hữu phải là một ngôn sứ!)
Suy niệm
1. Lời giới
thiệu đầu tiên của Gio-an về Ðức Giê-su
Ðức Giê-su bắt đầu cuộc đời
công khai của Ngài bằng nghi thức sám hối thay cho cả nhân loại qua phép rửa
của Gio-an, và kết thúc cuộc đời công khai của Ngài bằng nghi thức đền tội thay
cho cả nhân loại qua cái chết thê thảm trên thập giá. Và hôm nay, ít ngày sau
khi Gio-an rửa tội cho Ðức Giê-su, ông liền giới thiệu cho dân chúng biết Ngài
là ai, và một phần nào báo trước cái chết của Ngài: Ðây là Chiên Thiên Chúa, đây Ðấng xoá bỏ tội trần gian!.
Muốn hiểu hết ý nghĩa lời giới thiệu ấy, ta cần biết tập tục sau đây của người
Do Thái:
Theo truyền thống Do Thái trong
sách Xuất Hành (Xh 29,38-42), thì mỗi ngày, vào sáng sớm và chiều tối, các tư
tế trong đền thờ phải sát tế mỗi buổi một con chiên nhỏ cỡ một tuổi làm của lễ
toàn thiêu để đền tội thay cho dân chúng. Như vậy tội lỗi của cả dân chúng mỗi
buổi đều đổ hết lên đầu con chiên, và con chiên gánh tội ấy phải chết để đền
tội thay cho dân chúng, hầu dân chúng được khỏi tội trước Thiên Chúa. Tội lỗi
của dân chúng đối với Thiên Chúa đáng lẽ phải trả giá bằng sinh mạng của chính
con người, nhưng Thiên Chúa đã chấp nhận để con chiên chết thay con người. Ðức
Giê-su đã trở thành chiên hy sinh như
thế: Ðức Ki-tô đã chịu hiến tế làm chiên lễ
Vượt Qua của chúng ta (1Cr 5,7)
Lời giới thiệu của Gio-an còn
ngầm nói lên bản tính Thiên Chúa của Ðức Giê-su: Chính Người là Ðấng tôi đã nói tới khi bảo rằng: Có người đến sau tôi,
nhưng trổi hơn tôi, vì có trước tôi.
Theo lời thiên thần nói khi truyền tin cho Ðức Ma-ri-a, ta biết khi Ðức Ma-ri-a
thụ thai thì bà Ê-li-sa-bét, đã có thai Gio-an được 6 tháng (x. Lc 1,36b).
Nghĩa là xét về mặt thể chất, Gio-an đã ra đời trước Ðức Giê-su nửa năm. Nhưng
Gio-an lại giới thiệu Ðức Giê-su là Ðấng có
trước mình. Như vậy từ ngữ có
trước ở đây không thể hiểu theo nghĩa thể chất, mà phải theo nghĩa
tâm linh, nghĩa là ông ám chỉ nguồn gốc thần linh của Ðức Giê-su.
2. Gio-an,
người dọn đường cho Ðức Giê-su
Ðể chuẩn bị xa cho việc Ðức
Giê-su đến với nhân loại, Thiên Chúa đã nhờ các ngôn sứ tiên báo biến cố ấy
hàng mấy trăm năm trước, bằng cách này hay cách khác. Ðể chuẩn bị gần, Ngài
dùng một người tiền hô, có nhiệm vụ dọn đường và giới thiệu. Người đó là Gio-an
Tẩy Giả.
Gio-an là bà con với Ðức Giê-su, vì mẹ của ông Gio-an là chị họ của Ðức Giê-su (x. Lc 1,35a). Vì thế, chắc chắn ông Gio-an và Ðức Giê-su đã quen biết nhau, nhưng Gio-an không biết hoặc biết không chắc chắn Giê-su là Ðấng Thiên Sai. Chỉ khi Ðức Giê-su đến với ông xin chịu phép rửa và sau đó có những dấu chứng từ trời cao, ông mới biết điều đó cách chính xác. Vì chính Thiên Chúa đã báo trước cho ông điều ấy: Chính Ðấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: "Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì người đó chính là Ðấng làm phép rửa trong Thánh Thần". Khi đã biết đích xác Ðức Giê-su là ai, Gio-an bắt đầu làm chứng về Ngài.
3. Những ngôn
sứ của Thiên Chúa
Câu Kinh Thánh vừa trưng dẫn
cho ta thấy: những người làm ngôn sứ trong các thời đại, luôn luôn có sự giao
tiếp với Thiên Chúa, và được chính Thiên Chúa kêu gọi, sai phái, không nhất
thiết phải qua một trung gian người nào (xem Is 6,1-12; Gr 1,5-19). Lời kêu gọi
đó có những trường hợp khó có thể chối từ như trường hợp của ngôn sứ Gio-na (x.
Gn 1,1-2,11). Các ngôn sứ cũng được Ngài soi sáng, cho biết hết kế hoạch của
Ngài (x. Am 3,7), được Ngài hướng dẫn cụ thể những việc phải làm (rất nhiều câu
bàng bạc trong các sách ngôn sứ chứng tỏ điều ấy). Nhờ sự rõ ràng đó, các ngôn
sứ mới tin tưởng vào sứ mệnh và lời chứng của mình, và lời chứng của họ mới có
sức mạnh thuyết phục. Nếu không, lời chứng của họ chỉ là những xác quyết thiếu
căn cứ, dựa trên những tin tưởng rất chủ quan, hoặc chỉ là những lời tuyên xưng
xuông (không thực tín). Nếu chỉ dựa trên những tin tưởng chủ quan, không dựa
trên những nền tảng chắc chắn mà lại dám lấy cả mạng sống mình để làm chứng thì
thật là ngu dại, thậm chí có thể khiến những kẻ nghe mình đi vào sai lầm trầm
trọng.
Tương tự như Ðức Giê-su và
Gio-an Tẩy Giả, các ngôn sứ thường không
thuộc hàng chức sắc trong tôn giáo. Nhiều trường hợp, các ngôn sứ còn lên tiếng
quở trách, kết án, chỉ dẫn và sửa sai chẳng những hàng chức sắc này (x. Is
56,10-12; Gr 23,1-4; Ed 34,1-31; 44,15-31; Hs 4,4-10; 5,1; đặc biệt Mt
23,13-32), mà cả vua chúa quan quyền nữa (x. Is 10,1-3; 10,5.12; 14,24-27, đặc
biệt Mt 14,4). Ðiều này chứng tỏ không phải cứ thuộc hàng chức sắc trong tôn
giáo thì ngoại trừ bề trên mình là chức sắc cao cấp hơn, không còn ai có quyền
chỉ dạy hay sửa sai mình.
Và đã là ngôn sứ thật, thì phải dám nói lên tiếng nói của chân lý, công lý và tình thương, đồng thời dám chịu đau khổ và dám chết vì lời chứng của mình giống như Gio-an. Ðó là đặc điểm không thể thiếu của những ngôn sứ thật đến từ Thiên Chúa. Người vì sợ liên lụy đến bản thân nên không dám bênh vực cho Thiên Chúa và tha nhân, cho chân lý, công lý và tình thương, thì chắc chắn không phải là ngôn sứ thật, dù họ có mang danh là đại ngôn sứ đi chăng nữa! Ðó là dấu chứng chắc chắn để phân biệt thật giả. Và cũng chính vì yếu tố đặc trưng này mà luôn luôn số phận của các ngôn sứ thật là bị ném đá và bạc đãi, còn ngôn sứ giả thì được ưu đãi, trọng vọng, được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi do những thế lực phản công lý dành cho để thưởng công cho sự im lặng rất lợi hại của họ (xem Lc 6,22.26).
4. Ngôn sứ
phải sống vì Thiên Chúa và tha nhân, không vì mình
Trong cách giới thiệu của
Gio-an về Ðức Giê-su, ta thấy ông luôn luôn làm cho Ðức Giê-su nổi bật lên,
đồng thời tự làm cho mình lu mờ đi: Người
phải nổi bật lên, còn tôi phải lu mờ đi (Ga 3,30). Chẳng hạn: Có người đến sau tôi, nhưng trổi hơn tôi, vì có trước
tôi, Tôi đây không phải là Ðấng
Ki-tô, mà là kẻ được sai đi trước mặt Người (Ga 3,28), Người sẽ đến sau tôi và tôi không đáng cởi quai dép
cho Người (Ga 1,27). Ðấng đến sau
tôi thì quyền thế hơn tôi (Mt 3,11), Tôi làm phép rửa cho anh em trong nước, còn Người sẽ làm phép rửa cho
anh em trong Thánh Thần (Mc 1,8). Khi đã hoàn thành nhiệm vụ, Gio-an
rút lui vào bóng tối, để Ðức Giê-su đóng trọn vẹn vai trò của Ngài.
Ðây cũng là một dấu chứng của
ngôn sứ thật. Người ngôn sứ thật phải từ bỏ được chính cái tôi của mình, và thể hiện được tinh
thần quên mình, tự hủy như Ðức
Giê-su (Pl 2,6-8). Không làm chi vì ganh tị
hay vì hư danh, nhưng lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình; không
tìm lợi ích cho riêng mình, mà tìm lợi ích cho người khác (Pl
2,3-4). Một người coi cái tôi của
mình quá lớn chắc chắn không phải là ngôn sứ thật. Họ không thể sống vì Chúa,
vì tha nhân được, mặc dù họ có thể tạo được cái vẻ như vậy: có vẻ yêu Chúa, có vẻ yêu người.
Rất nhiều người làm ngôn sứ,
làm tông đồ, rao giảng Tin Mừng, làm nhiều việc lành phúc đức, bố thí một cách
rộng rãi. nhưng không do lòng yêu mến Chúa hay tình thương đối với tha nhân
thúc đẩy, mà do tính ham được tiếng khen, lời ca tụng, muốn nổi danh là đạo
đức, là có lòng thương người, v.v. Họ đã dùng danh nghĩa Thiên Chúa để tạo nên
danh thơm tiếng tốt cho mình, để có những cấp bậc cao sang trong Giáo Hội và xã
hội. Tâm lý này đã được Ðức Giê-su vạch mặt: Khi
làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ
thấy. Khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường
biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen (Mt
6,1), Và thánh Phao-lô cho biết sự vô giá trị của những hành động như vậy: Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí,
hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng
ích gì cho tôi (1Cr 13,3). Tính chất khoa trương, thích phình to bản ngã này, Ðức Giê-su gọi là men Pha-ri-siêu: Anh em phải coi chừng men Pha-ri-sêu, tức là thói đạo
đức giả (Lc 12,1, x. Mt 16,6.11; Mc 8,15). Là người Ki-tô hữu, là
ngôn sứ, chúng ta cần phải tránh loại men
rất khó tránh này.
Cầu nguyện
Lạy Cha,
Ðức Giê-su đã đến để thiết lập Giáo Hội, tức một dân tộc ngôn sứ cho Cha ở trần
gian. Giáo Hội không chỉ có sứ mạng tư tế
(thờ phượng Thiên Chúa), mà còn có sứ mạng vương
đế (làm chủ bản thân, tập thể, ngoại cảnh, lịch sử), và sứ mạng ngôn sứ (làm chứng cho Thiên Chúa, cho
chân lý, công lý và tình thương) nữa. Nhưng Giáo Hội đã làm tròn sứ mạng ngôn sứ ấy trước mặt các dân tộc chưa? Xin
cho chính bản thân con, cũng như mọi Ki-tô hữu khác ý thức được sứ mạng ngôn sứ tức làm chứng của mình trong môi trường mình sống, trong xã hội
và Giáo Hội, nhất là khi chân lý, công lý và tình thương bị coi thường, bị chà
đạp. Xin cho con đức can đảm phải có của một ngôn sứ như Gio-an Tẩy Giả, để con
thực hiện tốt sứ mạng ngôn sứ của mình. Amen.
Joan Nguyễn Chính Kết