CHÚA NHẬT 3 QUANH NĂM
Thánh ca và lời nguyện mở đầu
Kinh Thánh: 1
Cô-rin-tô 1: 10-13, 17
Chúa Nhật
trước, chúng ta đã nhận thấy hoàn cảnh chia rẽ, bè phái của giáo đoàn Cô-rin-tô
là mối ưu tư hàm ẩn trong lời chào thăm của thư thánh Phao-lô gửi cho tín hữu
Cô-rin-tô và nhắc nhở họ hãy nhận định lại họ là ai và cộng đoàn của họ là gì.
Phần trích dẫn 1 Cr 1:10-13,17 hôm nay bắt đầu đi thẳng vào chủ đề được đề cập
đến trong chương 1-4: "Nhân danh Ðức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta, tôi
khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để
có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hòa thuận, một lòng một ý với
nhau."
Thánh
Phao-lô được "người nhà của bà Khơ-lô-e" cho ngài biết tình trạng
chia rẽ của giáo đoàn. Chắc chắn vì bà đích thực lo lắng cho cộng đoàn, nên
không muốn giữ thái độ "tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy vào". Nhưng bà
thấy có bổn phận phải cho vị chủ chăn Phao-lô biết thực trạng cộng đoàn để ngài
kịp thời chỉnh đốn.
Nhận định
sâu sắc của thánh Phao-lô về lý do và thực tại chia rẽ phe phái làm chúng ta
phải suy nghĩ. Nhận định ấy không chỉ đúng cho giáo đoàn Cô-rin-tô, mà còn đúng
cho mọi cộng đoàn tín hữu mọi nơi mọi thời. Theo ngài, lý do gây phe phái là vì
người ta vịn lẽ mình thuộc về một "lãnh tụ" khác. A-pô-lô là một tân
tòng thuộc cộng đoàn Cô-rin-tô, nhưng lại rất sốt sắng và tài ba lỗi lạc, gây
ấn tượng sâu xa trên cộng đoàn. Kê-pha, tức là thánh Phê-rô, vị đại diện của
Chúa Ki-tô, tượng trưng cho giáo quyền trung ương mà mọi người lúc đó đã thừa
nhận, hoặc chính ngài đã có đến Cô-rin-tô. Cuối cùng là Phao-lô, vị tông đồ
khai sinh giáo đoàn Cô-rin-tô. Qua ba khuôn mặt sáng giá này, những người chủ
trương phe phái có thể tìm ra những lý do, những tự hào để "nhân
danh" các vị ấy mà bảo rằng mình hoặc nhóm của mình là "số dách",
là "number one"! Chính vì thế thánh Phao-lô mới nhắc nhở họ:
"Nhân danh Ðức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta." Chỉ có Ðức Ki-tô chịu
đóng đinh mới là Thầy, là nguyên lý hiệp nhất mà thôi.
Nếu suy
nghĩ sâu xa hơn chút nữa, chúng ta có thể nhận ra những mầm mống chia rẽ ấy tựu
chung có ba trường hợp. Thứ nhất, người ta muốn về phe với một cá nhân nào đó
thuộc cộng đoàn, thí dụ A-pô-lô của cộng đoàn Cô-rin-tô, hoặc một ông trùm, ông
biện hay một giáo dân có ảnh hưởng lớn trong một giáo xứ. Thứ hai, người ta muốn
về phe với cha xứ, hoặc cha phó để lập thành những lực lượng đối nghịch. Thứ
ba, người ta viện lẽ mình thuộc về Giáo Hội nói chung, muốn giữ đạo tại tâm...
nên coi thường cả quyền bính của giáo hội địa phương mà đại diện là giám mục
hoặc linh mục. Dĩ nhiên, A-pô-lô, Phao-lô, Kê-pha, hoặc cá nhân linh mục hay
giáo dân trong một giáo xứ, tất cả đều đáng ngưỡng mộ. Nhưng họ đã bị đem ra
làm bình phong cho những mưu đồ chia rẽ phe phái trong một cộng đoàn. Tội
nghiệp các ngài! Tuy nhiên cảnh chia rẽ phe phái trong một giáo xứ ngày nay đòi
chúng ta phải suy xét kỹ càng, và đôi khi phải khiêm nhượng thú nhận rằng chính
ông trùm ông trưởng hoặc cha chính cha phó đã thực sự là nguyên nhân gây ra phe
phái làm tan nát hình ảnh hiệp nhất trong tình bác ái.
Ðức Ki-tô đã
chịu đóng đinh (nghịch lý của thập giá) là để giao hòa và hiệp nhất giữa Thiên
Chúa với nhân loại và giữa nhân loại với nhau. Do đó, gây chia rẽ phe phái
trong một cộng đoàn chính là phản bội công trình hiệp nhất của Ðức Ki-tô, chẳng
khác gì đóng đinh Người lại một lần nữa! Bài đọc Tân Ước Chúa Nhật này quả thực
đã quảng diễn chủ đề Hội Thánh trong một chiều kích hết sức thực tế: cộng đồng
đã được Chúa kêu gọi và thánh hiến cần phải hiệp nhất một lòng một ý, vì Chúa
Ki-tô đã chịu đóng đinh để thực hiện sự hiệp nhất ấy. Trọng tâm của Tin Mừng là
chính Chúa Ki-tô, chứ không phải những người rao giảng Tin Mừng.
Thánh
Phao-lô còn có một lối dạy dỗ đặc biệt: ngài chia sẻ chính sứ vụ và kinh nghiệm
sống đức tin của chính mình. Suy niệm về chia sẻ của thánh Phao-lô, chúng tôi
nhận thấy lời chú thích n) và o) trong bản dịch của Nhóm Phiên dịch Phụng vụ
các Giờ Kinh rất hữu ích và xin phép lập lại ở đây. Chú thích n): Ðối với thánh
Phao-lô, rao giảng Tin Mừng để gây lòng tin là điều cốt yếu. Còn làm phép rửa
thì bất cứ ai cũng có thể làm được. Câu này cũng nhắc chúng ta nên coi trọng sứ
mạng làm chứng cho Tin Mừng của Ðức Ki-tô hơn là chú ý đến năng suất số người
chúng ta đã rửa tội. Chú thích o): Thánh Phao-lô đặt cái khôn của loài người
đối lập với sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1:24 và 2:6). Sự khôn ngoan của Thiên
Chúa là thể hiện công trình cứu độ toàn diện: công chính hóa, thánh hóa và cứu
chuộc loài người. Vì vậy, tất cả phương tiên Người dùng để hoàn thành công cuộc
ấy đều được coi là khôn ngoan, tuy loài người cho là điên dại: thập giá, lời
rao giảng, những gì yếu kém, hèn mạt, không đáng kể (cc. 27-28). Thánh Phao-lô
không lên án phần trí tuệ của khôn ngoan loài người, vì nó là một ân huệ Chúa
ban, giúp con người có khả năng nhận biết Thiên Chúa; điều đáng lên án là cái
khôn ngoan lý sự, tự mãn (của phần đông người Hy-lạp) hoặc đòi hỏi Thiên Chúa
làm theo nguyện vọng của mình (như đa số người Do-thái đòi hỏi). (c.20). Sức
mạnh của Thiên Chúa là dùng chính những gì thế gian cho là điên dại, để thắng
cái khôn ngoan của nó (cc. 18 và 25), làm cho kế hoạch cứu độ của Người được
thành tựu. Khi so chiếu hai lẽ khôn ngoan trên, thánh Phao-lô cũng nói rõ lập
trường hoạt động của ngài: không rập theo óc tính toán (xã hội Cô-rin-tô thường
ngả theo chiều hướng này), nhưng theo đường lối thập giá Ðức Ki-tô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
Với
thiện chí như bà Khơ-lô-e, nhóm đứng đắn chia sẻ kinh nghiệm tình trạng phe
phái của cộng đoàn mình đang sống. Nhận định những lý do chia rẽ, trách nhiệm
của chính mình trong những chia rẽ ấy và sẽ tích cực làm gì để xây dựng cộng
đoàn.
Qua chia sẻ
kinh nghiệm của thánh Phao-lô, tôi học được gì và sẽ đem áp dụng cho việc xây
dựng cộng đoàn của tôi như thế nào?
Cầu nguyện kết thúc
Sau cầu
nguyện bộc phát, nhóm cùng hát "Xin hiệp nhất chúng con..."
Ða Minh
Trần Ðình Nhi